Tìm hiểu sự hình thành
và phát triển của
Thiền phái Lâm Tế Chúc
Thánh tại Quảng Nam
Thích Giải Nghiêm
A. DẪN
NHẬP
1. LÝ DO
CHỌN ĐỀ TÀI:
Đàng
Ngoài-Đàng Trong, một giai đoạn bi ai của lịch
sử dân tộc Việt Nam. Sự phân chia đất nước kéo
dài trên 170 năm với 7 lần hưng binh đánh nhau
khiến cho muôn dân đồ thán. Cục diện huynh đệ
tương tàn của hai nhà Trịnh -Nguyễn chưa kết
thúc thì tiếp đến cuộc chiến tranh nông dân Tây
Sơn lại nổi lên. Tiếng binh reo, ngựa hý, gươm
khua không bao giờ ngớt trên đất mẹ Việt Nam
thân yêu trong suốt 200 năm. Thế nhưng, trong
suốt hai thế kỷ ấy, Phật giáo tại Đàng Ngoài
cũng như Đàng Trong lại hưng thịnh và phát triển.
Cũng thật dễ hiểu, đạo Phật là đạo của Từ Bi và
Trí Tuệ, sự phát triển của Phật giáo đã xoa dịu
nỗi đau thương của dân tộc do chinh chiến gây
nên.
Ở Đàng
Ngoài, Phật giáo đã có một quá trình du nhập,
định hình nên dễ dàng thuận lợi trong việc ổn
định và phát triển. Còn Đàng Trong là một vùng
đất mới, được hình thành bởi chủ trương Nam tiến
của vua Lê Thánh Tông cho đến các chúa Nguyễn,
tuy chưa được ổn định nhưng Phật giáo lại rất
hưng thịnh. Tại nơi đây, các dòng Thiền được
truyền bá và phát triển mạnh mẽ, trong đó có
Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh.
Thiền
phái Lâm Tế Chúc Thánh là một trong những chi
nhánh của dòng Thiền Lâm Tế tại Trung Hoa. Dòng
Thiền Lâm Tế Chúc Thánh được Tổ sư Minh Hải -
Pháp Bảo khai sáng vào những năm cuối thế kỷ
XVII tại chùa Chúc Thánh tỉnh Quảng Nam. Vì thế,
dòng Thiền này còn có tên gọi khác là Thiền phái
Minh Hải - Pháp Bảo.
Kể từ khi
Tổ sư Minh Hải khai sơn xuất kệ truyền thừa,
Thiền phái Chúc Thánh đã trải trên 300 năm hình
thành và phát triển. Trong suốt chuỗi thời gian
song hành cùng dân tộc, các Thiền sư thuộc Thiền
phái Lâm Tế Chúc Thánh đã đem ý chỉ của Tổ
truyền bá khắp mọi nơi và góp vào lịch sử Phật
giáo Việt Nam những trang sử vàng son châu ngọc.
Ngày nay, Thiền phái Chúc Thánh có mặt khắp các
tỉnh miền Trung và Nam Việt Nam, thậm chí còn
phát triển mạnh tại các nước Âu - Mỹ. Với một
Thiền phái lớn như vậy, nhưng các nhà viết sử
Phật giáo Việt Nam lại ít đề cập đến, nếu có
cũng chỉ vài nét khái lược. Không muốn bị lãng
quên bởi thời gian, nhằm khẳng định lại vị thế
và những cống hiến tích cực của Thiền phái Chúc
Thánh trong dòng sử Phật Việt nên người viết đã
chọn đề tài này để làm luận văn tốt nghiệp. Đây
cũng là một việc làm mang tính chất “Ẩm Thủy Tư
Nguyên" của hàng con cháu đối với các bậc Tổ sư
trong Tông Môn đã dày công giáo hóa. Đồng thời,
cũng là tâm nguyện của người viết thực hiện theo
di ý của Bổn Sư, ngõ hầu báo đáp thâm ân giáo
dưỡng trong muôn một.
2. NHỮNG
TÁC PHẨM NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY:
Từ trước
đến nay, đã có một số tác phẩm đề cập đến Tổ sư
Minh Hải và dòng Thiền Chúc Thánh, chẳng hạn như:
Việt Nam Phật giáo sử luận (tập II) của Nguyễn
Lang, NXB Văn Học Hà Nội,1992; Lịch sử Phật giáo
Việt Nam của Thích Minh Tuệ, Thành hội Phật giáo
TP Hồ Chí Minh,1993; Việt Nam Phật giáo sử lược
của Mật Thể, NXB Thuận Hóa - Huế, 1993; Lịch sử
Phật giáo Đàng Trong của Nguyễn Hiền Đức, NXB
TP.HCM, 1995; Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam (giáo
trình lưu hành nội bộ) của Chơn Phát, 1998.
Trong những tác phẩm này, chỉ có cuốn Lịch sử
Phật giáo Đàng Trong của Nguyễn Hiền Đức là đề
cập nhiều đến Thiền phái Chúc Thánh. Nhưng rất
tiếc, những sử liệu ông đưa ra vẫn còn nhiều
điều cần phải bàn. Gần đây, thầy Thích Hạnh
Thiện với luận văn “Thiền sư Minh Hải và Tổ
đình Chúc Thánh”, đề tài tốt nghiệp Học Viện
Phật Giáo Việt Nam tại Huế - Khóa I (1997 -
2001) cũng rất công phu. Tuy nhiên, Thầy chỉ
giới hạn nơi Tổ sư Minh Hải và Tổ đình Chúc
Thánh chứ chưa đi sâu, làm sáng tỏ hơn những
đóng góp của Thiền phái Chúc Thánh đối với lịch
sử Phật giáo Quảng Nam nói riêng và Phật giáo
Việt Nam nói chung. Qua những công trình của
người đi trước, chúng tôi xin trân trọng cám ơn
và ghi nhận. Bởi lẽ, những tư liệu này giúp ích
rất nhiều cho việc tham khảo và cũng là nguyên
nhân để chúng tôi thực hiện luận văn này.
3. PHẠM
VI NGHIÊN CỨU:
Theo như
đề tài của luận văn, người viết chỉ đề cập đến
quá trình hình thành và phát triển của Thiền
phái Chúc Thánh tại Quảng Nam.
- Về mặt
thời gian: Từ những năm đầu khi Ngài Minh
Hải-Đắc Trí-Pháp Bảo đời 34 Lâm Tế khai sơn Chúc
Thánh cho đến thế hệ truyền thừa đời 43, 44 của
Thiền phái này. Như vậy, khoảng thời gian này
kéo dài từ cuối thế kỷ XVII đến những năm cuối
thế kỷ XX.
- Về mặt
không gian: đề tài giới hạn trong phạm vi tỉnh
Quảng Nam, là nơi phát tích của Thiền phái Chúc
Thánh.
- Trong
chương 3, người viết xin được tóm lược vài nét
về sự truyền thừa, ảnh hưởng của Thiền phái Chúc
Thánh đối với sinh hoạt của Phật giáo tại các
tỉnh miền Trung và Nam Việt Nam cũng như Hải
ngoại. Từ đó, nói lên được tầm quan trọng cũng
như những đóng góp của dòng Thiền này đối với
Đạo pháp và Dân tộc.
4. NGUỒN
TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Nguồn tư
liệu, đây là vấn đề ưu tư và nan giải của người
viết. Bởi lẽ, xưa nay chư Tổ của Thiền phái với
tư tưởng “Nhạn vô lưu tích chi ý” nên
không chú trọng đến việc ghi lại sử liệu. Có
chăng cũng chỉ còn lại một vài văn bia bằng đá
ghi lại tiểu sử các vị Tổ hay bia công đức ở rải
rác một số chùa trong tỉnh.
Phương
pháp nghiên cứu là kết hợp giữa nghiên cứu văn
bản và nghiên cứu điền dã. Nghĩa là người viết
cố gắng sưu tầm tất cả những sử liệu liên quan
đến Thiền phái Chúc Thánh nằm rải rác khắp nơi.
Đồng thời đi khảo sát thực tế tại một số chùa và
tham vấn các vị trưởng lão trong môn phái. Từ
đó, hệ thống lại, đối chiếu phân tích để có thể
đưa ra một sự chuẩn xác theo yêu cầu của đề tài.
5. ĐÓNG
GÓP CỦA ĐỀ TÀI.
Đề tài
này sẽ có những đóng góp cụ thể như sau:
a. Xác
định hành trạng của Tổ sư Minh Hải cũng như quá
trình khai sơn chùa Chúc Thánh để tránh những
hiểu lầm, suy luận không căn cứ của một số vị
khi tìm hiểu về Tổ sư Minh Hải và Thiền phái
Chúc Thánh.
b. Phác
họa lại quá trình hình thành, phát triển và
những đóng góp tích cực của Thiền phái Chúc
Thánh đối với Đạo pháp và Dân tộc. Từ đó, khẳng
định lại tầm quan trọng và vị trí của Thiền phái
này trong dòng chảy của lịch sử Phật giáo Việt
Nam.
c. Với
tinh thần “Ôn cố tri tân”, tìm hiểu về
cội nguồn của Tông phong Pháp phái để soi gương
cổ đức mà nhìn lại chính mình. Đồng thời, người
viết mong rằng, luận văn sẽ là tiền đề sơ khởi
để về sau có thể đi sâu hơn nữa trong lãnh vực
nghiên cứu này.
Tập luận
văn này hoàn thành một phần nào đó đánh giá quá
trình 4 năm theo học tại Học Viện Phật Giáo Tp.
Hồ Chí Minh. Trong khoảng thời gian này, chúng
tôi nhận được rất nhiều sự trợ duyên từ chư Tôn
đức Tăng Ni cũng như quý đạo hữu Phật tử. Qua
đây, chúng tôi cũng xin chân thành cảm niệm và
nhớ mãi những thắng duyên ấy. Đồng thời, người
viết xin trân trọng tri ân giáo sư Nguyễn Khắc
Thuần đã tận tình hướng dẫn để tập luận văn này
được hoàn thành như ý nguyện.
Chư Trưởng Lão môn
phái Chúc Thánh Minh Hải Bình Định tại Chùa Hưng
Khánh
(ảnh PGĐC chụp năm 1998)
Chương 1
THIỀN SƯ MINH HẢI
VÀ SỰ KHAI SÁNG
THIỀN PHÁI LÂM TẾ
CHÚC THÁNH
1.1 BỐI
CẢNH QUẢNG NAM NỬA CUỐI THẾ KỶ XVII.
1.1.1
Khái Quát Quá Trình Hình Thành Tỉnh Quảng Nam.
Kể từ độ
cha ông mang gươm đi mở nước với chủ trương Nam
tiến, cánh chim Lạc đã sải cánh bay mãi vào
phương Nam đến tận Hà Tiên-Rạch Giá. Một trong
những vùng đất đầu tiên sáp nhập vào bản đồ Đại
Việt chính là tỉnh Quảng Nam. Mảnh đất “chưa
mưa đã thấm” này đã ghi lại những dấu chân
hoang sơ của người Việt trong suốt thời gian mở
mang bờ cõi.
Sau cuộc
hôn nhân của Huyền Trân công chúa với vua Chiêm
là Chế Mân vào năm 1308, lãnh thổ Đại Việt mở
rộng đến Quảng Bình và Quảng Trị. Đến thời nhà
Hồ (1400-1407), sau khi thương thảo thì vua
Chiêm nộp thêm đất Chiêm Động và Cổ Lũy, tức là
Quảng Nam ngày nay. Vua Hồ Quý Ly chia đất này
thành bốn châu là Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa rồi đặt
lộ Thăng Hoa thống lãnh bốn châu ấy. Đến thời
vua Lê Thánh Tông, Hồng Đức năm thứ 2 đã Tổ chức
lại hành chánh các châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa;
đồng thời đặt làm Đạo thừa tuyên Quảng Nam. Danh
từ Quảng Nam bắt đầu có tên trên bản đồ Đại Việt
từ lúc ấy.
Vào thế
kỷ XV, Đạo thừa tuyên Quảng Nam có diện tích từ
phía Nam Thuận Hóa vào đến núi Thạch Bi ở Phú
Yên bao gồm 4 phủ 14 huyện [14,35]. Sau đó, vào
năm 1490 đổi lại là xứ Quảng Nam, năm 1520 gọi
là trấn Quảng Nam và đến khi Nguyễn Hoàng vào
trấn nhậm 2 xứ Thuận-Quảng thì đổi lại là dinh
Quảng Nam. Sau khi thống nhất đất nước, vua Gia
Long đổi lại là Trực lệ Quảng Nam thuộc kinh sư.
Đến năm 1832, vua Minh Mạng đổi thành tỉnh Quảng
Nam. Sau Cách mạng tháng 8-1945 và đến năm 1975
thì Quảng Nam Đà Nẵng có 12 huyện, 2 thị xã và 1
thành phố. Đến năm 1997 tách tỉnh Quảng Nam Đà
Nẵng thành 2 đơn vị: tỉnh Quảng Nam và thành phố
Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam gồm có 12 huyện và 2 thị
xã [14, 84].
Như vậy,
kể từ khi sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt và có
tên gọi Quảng Nam, tính đến nay tỉnh Quảng Nam
đã có trên 500 năm lịch sử. Trải qua bao sự hưng
phế, thịnh suy của các triều đại cũng như các
chính thể và tùy theo sự phân chia địa lý hành
chính mà diện tích tỉnh Quảng Nam có khi rộng,
khi hẹp. Tuy vậy, Quảng Nam vẫn lại là Quảng Nam
chứ không thay đổi tên gọi nào khác và mảnh đất
này có vị trí rất đặc biệt trong tiến trình mở
nước của lịch sử dân tộc.
Ngày hôm
nay, Quảng Nam được coi như là vùng đất trung
tâm của hai đầu Tổ quốc. Nhưng cách đây khoảng 3
thế kỷ, Quảng Nam là biên giới phía Nam của Đại
Việt, một vùng đất mà mỗi khi nghe nhắc đến thì
người dân tại các đạo thừa tuyên Thanh Hóa, Nghệ
An thường than thở:
“Dậm chân xuống
đất kêu trời
Chồng tôi vô
Quảng biết đời nào ra”
Ca dao
Như vậy,
Quảng Nam là mảnh đất “đầu sóng ngọn gió”
trong những năm đầu thế kỷ XVII và suốt cả cục
diện Đàng Ngoài-Đàng Trong. Về địa hình, Quảng
Nam có bờ biển chạy dài từ Bắc đến Nam, sau lưng
là dãy Trường Sơn sừng sững án ngữ suốt cả một
vùng biên giới Việt-Lào. Do Quảng Nam có một vị
trí quan trọng nên được các chúa Nguyễn quan tâm
lưu ý. Dưới thời các chúa Nguyễn, Quảng Nam được
coi như là kinh đô thứ hai sau Thuận Hóa. Vì thế,
các chúa Nguyễn đều cho các Thế tử vô trấn nhậm
Quảng Nam một thời gian trước khi chính thức nối
ngôi Chúa. Về chính trị, Quảng Nam là một trung
tâm hành chánh nối liền phủ Chúa đến các tỉnh
mới lập ở phía Nam cũng như giao lưu quốc tế. Về
quân sự, Quảng Nam có một vị trí chiến lược đặc
biệt quan trọng trong việc phòng thủ chánh dinh
Thuận Hóa cũng như mở mang bờ cõi. Thời bấy giờ,
dinh trấn Thanh Chiêm-Quảng Nam là căn cứ quân
sự thủy lục hùng mạnh nhất của chúa Nguyễn. Từ
căn cứ này, thủy quân dễ dàng tiếp cứu Quảng
Bình khi có quân Trịnh xâm lấn và ngăn chặn tàu
nước ngoài quấy nhiễu vùng biển. Cũng từ đây, bộ
quân dễ dàng hành quân hỗ trợ cho các cuộc Nam
tiến. Về phương diện ngoại giao, kinh tế, văn
hóa thì hải cảng Hội An thuộc dinh Quảng Nam là
một trong những thương cảng phồn thịnh bậc nhất
Đàng Trong thời bấy giờ. Đây là nơi giao lưu văn
hóa giữa các quốc gia trong vùng và các nước
phương Tây. Nơi đây là nơi mà các đoàn ngoại
giao nước ngoài đến nghỉ chân để tiếp tục ra
Thuận Hóa gặp nhà Chúa. Các nhà văn hóa lớn nước
ngoài có ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam như Hòa
thượng Thạch Liêm (1633-1704), học giả Chu Thuấn
Thủy (1600-1682), giáo sĩ Alexandre de Rhodes
(1593-1660) v.v… đều đến ngụ Hội An một thời
gian và đánh giá vùng đất này có tiềm năng về
mọi mặt, là cửa ngõ quan trọng của Đại Việt.
1.1.2
Tình Hình Chính Trị Xã Hội:
Sau cái
chết của Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng lo sợ cho số
phận của mình nên đến vấn kế Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Với tám chữ ngắn gọn “Hoành sơn nhất đái, vạn
đại dung thân”, Trạng Trình đã mở cho Nguyễn
Hoàng một con đường sống, không những vậy mà còn
tạo dựng nên một cơ nghiệp lâu dài về sau.
Tháng 10
năm 1558, Nguyễn Hoàng được vua Lê Anh Tông
phong tước Đoan quận công và cử vào trấn nhậm
đất Thuận Hóa. Đến năm 1570, Ông được nhà vua
cho kiêm lãnh trấn thủ Quảng Nam. Từ đó, Nguyễn
Hoàng ra sức chiêu hiền đãi sĩ, mộ phu khai
hoang vùng đất mới này. Với những chính sách đối
nội và đối ngoại khôn khéo, chúa Tiên-Nguyễn
Hoàng đã dần dần biến hai xứ Thuận-Quảng thành
một vùng đất trù phú. Ông được sử sách ca ngợi
như sau: “Đoan quận công vũ trị vài mươi
năm, chính trị khoan hòa, thường ra ân huệ, dùng
pháp luật công bằng, răn giới bản bộ, cấm trấp
kẻ hung dữ, dân hai trấn cảm mến ân đức, dời đổi
phong tục, chợ không hai giá, dân không ăn trộm,
cửa ngoài không phải đóng, thuyền buôn ngoại
quốc đều đến buôn bán, quân lệnh nghiêm túc, mọi
người đều cố gắng, vì vậy không ai dám dòm ngó,
dân trong xứ đều được an cư lạc nghiệp”
[7,115-116].
Kế nghiệp
chúa Tiên-Nguyễn Hoàng (1558-1613), các vị chúa
anh minh của họ Nguyễn như: chúa Sãi-Nguyễn Phúc
Nguyên (1613-1635); chúa Thượng- Nguyễn Phúc Lan
(1635-1648); chúa Hiền-Nguyễn Phúc Tần
(1648-1687) v.v…đã củng cố thế lực của mình, dần
dần tạo thành cục diện đối lập với thế lực họ
Trịnh ở phương Bắc mà lịch sử gọi là Đàng
Ngoài-Đàng Trong. Với chủ trương nhất quán
“Nam tiến, Bắc cự”, các chúa Nguyễn đã khiến
cho họ Trịnh phải lấy sông Gianh phân chia biên
giới, đồng thời lãnh thổ Đàng Trong được mở rộng
vào vùng đất phương Nam.
So với
Đàng Ngoài, tình hình chính trị xã hội tại Đàng
Trong tương đối ổn định hơn. Ở vùng đất mới này,
với chính sách khoan dung của Chúa Nguyễn nên xã
hội không có sự phân tầng rõ rệt như của họ
Trịnh. Khôn khéo trong chính trị đã đưa lại một
kết quả khả quan là lãnh thổ vẫn mở rộng vào
miền Nam nhưng không có một cuộc xung đột nào
đáng kể.
Với chính
sách mở rộng, thông thoáng trong ngoại giao, các
chúa Nguyễn đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi để
các thương gia nước ngoài vào Đàng Trong buôn
bán. Thương cảng Hội An là một trong những trung
tâm kinh tế thương mại phồn thịnh thời bấy giờ.
Nơi đây, có thể được coi là con đường tơ lụa
trên biển nối liền Đại Việt với các nước trong
khu vực cũng như các nước Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha v.v…. Sự phồn thịnh ấy được ghi nhận như
sau: “Nhân dân đông đúc, cá tôm rau quả tập
hợp mua bán suốt ngày. Thuốc Bắc hay các món
hàng khác, tìm mua ở Thuận Hóa không có thì
người mua vào mua ở đây” [12,154].
Về nông
nghiệp, các chúa Nguyễn cho quan lại đứng ra
chiêu mộ dân đi khai khẩn cũng như dùng quân đội
đồn trú để khai hoang. Điều này đã đem lại một
kết quả rất khả quan: “Chỉ trong vòng một
thời gian ngắn, các chúa Nguyễn đã biến nhiều
vùng đất hoang thành ruộng đồng tươi tốt, thành
xóm làng trù mật và từng bước nâng cao mức sống
của nhân dân” [22, 286].
Lúc bấy
giờ tại Trung Quốc, bộ tộc Mãn Châu từ phương
Bắc tràn xuống đánh chiếm Trung Nguyên, lật đổ
nhà Minh lập ra vương triều Mãn Thanh. Các cựu
thần nhà Minh không chịu thần phục nhà Thanh nên
đã bỏ nước ra đi. Mảnh đất Đại Việt trở thành
điểm đến của những người Trung Hoa vong quốc.
Tại Đàng Ngoài, các chúa Trịnh dè dặt trong vấn
đề cho người Hoa cư ngụ. Trái lại, các chúa
Nguyễn ở Đàng Trong ưu đãi để người Hoa định cư
và cho họ thành lập từng làng sống theo cộng
đồng. Vì thế, các làng Minh Hương được thành lập
nhiều nơi ở Huế, Hội An, Gia Định v.v…và những
người Hoa đã góp phần không nhỏ trong việc phát
triển kinh tế cũng như mở mang bờ cõi. Cụ thể
như các tướng nhà Minh là Trần Thượng Xuyên,
Trần An Bình lập ra Cù Lao Phố, Dương Ngạn Địch,
Hoàng Tiến lập ra Mỹ Tho Đại Phố, Mạc Cửu cũng
đã đem đất Hà Tiên sáp nhập vô lãnh thổ Đại Việt
dưới sự cai trị của chúa Nguyễn.
Tóm lại,
từ khi mới thành lập cho đến những năm cuối thế
kỷ XVII, tình hình chính trị Đàng Trong tương
đối ổn định, lãnh thổ mở rộng về phương Nam,
kinh tế phát triển, đời sống người dân được cải
thiện. Sự ổn định đó đã tạo điều kiện thuận lợi
cho các tôn giáo phát triển, trong đó Phật giáo
đóng vai trò quan trọng trong đời sống tư tưởng
của người dân ở Đàng Trong.
1.1.3
Thái Độ Của Các Chúa Nguyễn Đối Với Phật Giáo.
Kể từ khi
vào trấn nhậm hai xứ Thuận-Quảng, chúa
Tiên-Nguyễn Hoàng cũng như các Chúa về sau đều
là những người sùng mộ Phật pháp. Dưới sự hộ trì
của nhà Chúa, Phật giáo tại Đàng Trong phát
triển rất mạnh. Tuy rằng các Chúa không lấy Phật
giáo làm quốc giáo như thời Lý-Trần, nhưng lại
lấy Phật giáo làm chỗ dựa cho chính sách an dân
trị quốc. Vì sao các chúa Nguyễn lại để tâm đến
việc phát triển Phật giáo? Sau đây là hai nhận
xét của các nhà nghiên cứu sử sẽ cho chúng ta
thấy được phần nào của vấn đề: “Quá trình tạo
lập xứ Đàng Trong cũng là quá trình liên tục Tổ
chức khẩn hoang. Lực lượng khẩn hoang đông đảo
nhất chính là những người nông dân nghèo khổ. Họ
không có điều kiện để cho con em tới trường, và
với số ít ỏi có điều kiện thì đạo thánh hiền mà
Nho gia rất mực tôn kính, trong họ cũng đã dần
dần bớt thiêng. Họ tìm đến những gì phù hợp hơn,
thiết thực vỗ về và an ủi họ khi đối mặt với
vùng đất mới bao la và dữ dội. Họ cần trước hết
là những bài học về đức làm người, cụ thể, giản
dị và sinh động chứ không phải là (bởi vì cũng
khó có thể là) sự nghiền ngẫm thiên kinh vạn
quyển với vô số những triết lý cao siêu. Và,
Phật giáo với đội ngũ các nhà tu hành giàu nhiệt
huyết nhập thế một cách tích cực đã mau chóng
đáp ứng được điều này. Ở đâu có đất mới được mở
ra là ở đó có chùa mới dựng. Tiếng chuông chùa
và tiếng tụng kinh chẳng khác gì lời ru êm ái
đối với một xã hội lầm lũi” [21, 156]. Nhà
sử học Li Tana cũng nhận xét như sau: “Trong
tình hình mới này, các nhà lãnh đạo họ Nguyễn
cảm thấy cần phải đưa ra một cái gì đó khác với
tín ngưỡng của người Chăm để củng cố các di dân
người Việt về mặt tinh thần và tâm lý. Không thể
sử dụng Khổng giáo vì những khẳng định cơ bản
của Khổng giáo trực tiếp mâu thuẫn với vị trí
của họ Nguyễn bị coi là một chế độ ly khai và
nổi loạn đối với triều đình. Tuy nhiên, họ
Nguyễn lại không dám đi quá xa và không dám tìm
ra một giải pháp hoàn toàn khác biệt với truyền
thống của người Việt ở phía bắc. Trong những
hoàn cảnh đó, Phật giáo Đại Thừa đã cung cấp một
giải pháp đáp ứng nhu cầu của họ Nguyễn. Phật
giáo, một mặt đẩy mạnh bản sắc dân tộc của người
Việt và mặt khác làm lắng động các mối lo âu của
người di dân mà không đặt lại vấn đề về tính hợp
pháp của những người cai trị” [13, 194].
Trở lại
bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, chúng ta thấy
những điều mà các chúa Nguyễn làm là hoàn toàn
phù hợp với tình hình chính trị thực tại. Trong
giai đoạn đầu của cuộc Nam tiến, những người
Việt di cư sống lẫn lộn với người Chăm. Lúc ấy,
văn hóa của người Chăm vẫn còn nhiều và đôi lúc
ảnh hưởng đến người Việt. Vì lẽ đó, người Việt
phải tìm về với cội nguồn văn hóa của mình để an
ủi trong những lúc xa xứ. Lúc này, nếu đem Nho
giáo ra áp dụng thì không phù hợp. Bởi lẽ, những
người dân Việt đã chán ngán với tư tưởng hủ lậu
của Nho giáo đã gò bó họ bao đời. Vả lại Nho
giáo hoàn toàn xa lạ với văn hóa người Chăm nên
dễ đưa đến sự xung đột tôn giáo, ảnh hưởng đến
sự cai trị của nhà Chúa. Chỉ có Phật giáo Đại
Thừa mới thỏa mãn được nhu cầu của cả hai bên.
Vì Phật giáo Đại Thừa với tư tưởng khoáng đạt
không chấp nê sự chính thống hay phản nghịch của
chúa Nguyễn. Các nhà sư Phật giáo với sự nhập
thế tích cực đã đem lại niềm an lạc trong đời
sống tinh thần của những người Việt di cư. Thêm
vào đó, Phật giáo Đại Thừa có những sự tương
đồng trong việc thờ tự của người Chăm nên họ
không cảm thấy bỡ ngỡ khi tiếp cận. Qua đây, ta
thấy các chúa Nguyễn dựa vào Phật giáo để trị
nước là hoàn toàn phù hợp.
Xuất phát
từ nguyên nhân trên, cộng với tâm đạo của mình,
các chúa Nguyễn đã trùng kiến và xây dựng rất
nhiều chùa trên hai xứ Thuận-Quảng. Năm 1601,
chúa Tiên-Nguyễn Hoàng cho trùng tu chùa Thiên
Mụ [1,72-73]. Năm 1602, khi đi lạc thành chùa
Thiên Mụ, Chúa lại phát nguyện trùng tu chùa
Sùng Hóa. Năm 1607, Chúa lập chùa Bửu Châu ở
Quảng Nam. Năm 1609, Chúa lập chùa Kính Thiên ở
xã Thuận Trạch, huyện Lệ Thủy-Quảng Bình.
Năm 1665,
chúa Hiền-Nguyễn Phúc Tần trùng tu chùa Thiên
Mụ. Năm 1667, Chúa lại cho xây dựng chùa Vĩnh
Hòa ở cửa biển Tư Dung. Tại lễ khánh thành này,
Chúa cho mở đại hội Du Già bảy ngày đêm để tạ ơn
Tam Bảo và siêu độ vong linh.
Năm 1688,
chúa Nghĩa-Nguyễn Phúc Trăn cho trùng tu chùa
Vĩnh Hòa. Đồng thời, Chúa còn nhờ Thiền sư
Nguyên Thiều về Trung Hoa thỉnh cao tăng, pháp
tượng, pháp khí sang hoằng hóa tại Đàng Trong.
Năm 1694,
Quốc chúa-Nguyễn Phúc Chu thỉnh Hòa thượng Thạch
Liêm sang mở đàn truyền giới tại chùa Thiền Lâm
-Thuận Hóa. Quốc Chúa quy y với Ngài Thạch Liêm,
được đặt pháp danh Hưng Long, hiệu là Thiên Túng
đạo nhân.
Qua những
sự kiện trên, chúng ta có thể thấy rằng: Ngoài
chủ trương vận dụng tư tưởng Phật giáo để trị
nước, các Chúa Nguyễn thực sự là những người
sùng mộ đạo Phật, tôn trọng chư tăng, làm chùa,
tạo tượng, đúc chuông v.v… Chính vì lẽ đó mà các
Thiền sư từ Trung Hoa đã đến Đàng Trong hoằng
hóa. Phật giáo nơi đây thật sự hưng thịnh, đặc
biệt là dòng Lâm Tế phát triển rất mạnh tại vùng
đất mới này.
1.1.4
Phật Giáo Quảng Nam Trước Khi Thiền Phái Chúc
Thánh Ra Đời.
Người
Việt đi đến đâu là lập chùa thờ Phật đến đó. Đây
là một vấn đề tất yếu, bởi lẽ tinh thần Phật
giáo đã thấm sâu vào trong tư tưởng tình cảm của
mỗi người dân Việt. Vì thế, kể từ khi đất Quảng
Nam thành lập, chúng ta đã thấy có bóng dáng của
những ngôi chùa cũng như các vị Thiền sư hoằng
hóa tại nơi đây.
Những
ngôi chùa đầu tiên tại xứ Quảng mà chúng ta được
biết là chùa Bửu Châu ở Trà Kiệu do chúa
Tiên-Nguyễn Hoàng xây dựng vào năm 1607. Ngôi
chùa thứ hai là chùa Chiên Đàn tại Hội An do
cộng đồng người Hoa xây dựng vào những năm 1653.
Chùa này còn có những tên gọi khác như là chùa
Di Đà, Quan Âm hay Minh Hương Phật Tự.
Trong
những năm đầu giữa thế kỷ XVII, Thiền sư Minh
Châu-Hương Hải tu học và hoằng hóa tại Quảng
Nam. Tổ tiên Ngài vốn người Nghệ An, theo phò
chúa Tiên vào định cư tại phủ Thăng Hoa. Ngài
sinh năm 1628, thuở thiếu thời là nho sinh nơi
cửa Khổng sân Trình, thi đậu ra làm quan tới
chức tri phủ huyện Triệu Phong. Năm 1652, Ngài
đến thọ giáo với Tổ Lục Hồ-Viên Cảnh và Đại
Thâm-Viên Khoan, để rồi 3 năm sau xuất gia với
pháp danh Minh Châu-Hương Hải và hiệu là Huyền
Cơ -Thiện Giác. Sau đó, Ngài dong thuyền ra đảo
Tiêm Bút La (Cù Lao Chàm ngày nay) lập thảo am
tu hành. Đạo phong của Ngài đã ảnh hưởng đến mọi
tầng lớp nhân dân và được Chúa Nguyễn mời ra
Thuận Hóa hoằng pháp: “Một thời gian sau ông
đóng thuyền đến Cù Lao Chàm ở ngoài cửa biển Hội
An, dựng ba gian am nhỏ để ở và tu trì. Thời
gian Thiền sư ở đảo này khoảng chục năm. Tiếng
tăm tu Thiền của ông được nhiều người biết đến.
Trong số đó có Hoa Lễ Hầu là Tổng thái giám. Hoa
Lễ Hầu tâu với Dũng Quốc Công Nguyễn Phúc Tần
(1649 - 1687) về Thiền sư và Thiền sư được quốc
công mời về trụ trì viện Thiền tịnh ở núi Qui
Kỉnh. Mẹ của Nguyễn Phúc Tần và 3 con là Phúc
Mỹ, Hiệp Đức và Phúc Tộ đều đến quy y cùng đông
đảo quan lính.” [15, 14-15]
Rất tiếc
là một thời gian sau, chúa Hiền-Nguyễn Phúc Tần
nghe theo lời sàm tấu sinh tâm nghi kỵ Ngài. Vì
thế, vào tháng 3 năm 1682, Ngài cùng với 50 đồ
chúng đóng thuyền vượt biển ra Đàng Ngoài. Đây
cũng là một Tổn thất lớn cho Phật giáo Quảng Nam
lúc bấy giờ.
Vào những
năm 1677, Thiền sư Hưng Liên-Quả Hoằng là đệ tử
của Ngài Thạch Liêm Hòa thượng từ Trung Quốc
sang Đàng Trong giáo hóa. Ngài lập đạo tràng tại
chùa Tam Thai núi Ngũ Hành tỉnh Quảng Nam và
được Quốc chúa -Nguyễn Phúc Chu phong làm Quốc
sư.
Năm 1695,
sau khi giới đàn tại chùa Thiền Lâm-Thuận Hóa
viên mãn, Ngài Thạch Liêm vào Hội An để đón
thuyền về lại Quảng Đông. Trong thời gian ngụ
lại Hội An, Ngài đã mở đàn truyền giới cho
khoảng 300 Tăng tục tại nơi đây: “ Tăng tục
luôn luôn đến xin truyền giới, nhơn nghĩ còn
mười ngày nữa mới khai thuyền, bọn chúng đã
thành tâm khẩn cầu, tiếc chi khó nhọc hai ba
ngày, không thành tựu cho vẹn toàn công đức; bèn
truyền rao xa gần, hẹn đến ngày mồng 7 truyền
giới. Đến ngày kỳ hẹn, tứ chúng giới tử hơn 300
người, đến thụ giới hoàn tất. Khiến quốc sư và
Hậu đường cấp phát điệp - văn cho họ, mặc khác
tư giấy trình Quốc vương xin dùng ấn để đóng
kiềm điệp văn.”[12, 158]
Điểm qua
một vài dữ kiện, ta thấy lúc bấy giờ Phật giáo
đã hình thành tại Quảng Nam. Tuy rằng các Ngài
Minh Châu, Thạch Liêm giáo hóa nơi đây không lâu
nhưng đạo phong của các Ngài ảnh hưởng rất lớn
đến mọi tầng lớp nhân dân xứ Quảng. Giới đàn vào
ngày mồng 7 tháng 7 năm 1695 tại chùa Di Đà-Hội
An đủ để chứng minh rằng người dân xứ Quảng thời
bấy giờ phần lớn hướng tâm đến đạo Phật và khát
khao tìm cầu giáo pháp. Vì các vị Thiền sư đến
rồi đi nên những sinh hoạt Phật giáo tại đây
thường gián đoạn không được ổn định. Mãi đến khi
Thiền sư Minh Hải-Pháp Bảo khai sơn chùa Chúc
Thánh và dòng Thiền Chúc Thánh thành lập thì
Phật giáo Quảng Nam mới ổn định và phát triển
mạnh.
1.2 THIỀN
SƯ MINH HẢI VÀ SỰ KHAI SÁNG THIỀN PHÁI CHÚC
THÁNH.
1.2.1 Sự
Ra Đời Của Thiền Phái Chúc Thánh.
Như trên
đã trình bày, trước khi Thiền phái Chúc Thánh ra
đời, tại Quảng Nam đã có nhiều vị Thiền sư danh
tiếng giáo hóa như: Minh Châu, Thạch Liêm, Hưng
Liên v.v. Tuy nhiên, các Ngài chỉ trụ một thời
gian rồi ra đi. Ngài Minh Châu cùng với 50 đệ tử
vượt biển ra Đàng Ngoài vào tháng 3 năm Nhâm
Tuất (1682). Có thể sợ bị liên lụy nên không một
vị đệ tử nào của Ngài ở lại Quảng Nam tiếp tục
giáo hóa. Vì thế, sự ảnh hưởng của Ngài mau
chóng phôi phai theo năm tháng.
Kế đến là
hai thầy trò Ngài Thạch Liêm và Hưng Liên của
dòng Tào Động. Ngài Thạch Liêm qua chỉ một thời
gian ngắn, còn Ngài Hưng Liên được phong Quốc sư
và trụ tại chùa Tam Thai. Tuy nhiên, sau khi
Ngài Thạch Liêm về nước và Ngài Hưng Liên viên
tịch thì sự truyền thừa của dòng Tào Động tại
Quảng Nam xem như không còn. Điều này có hai lý
do giải thích như sau:
- Thứ
nhất, Ngài Thạch Liêm và Hưng Liên đều là những
vị tài giỏi nhưng tầm ảnh hưởng của các Ngài chỉ
trong nội vi nhà Chúa và giới lãnh đạo mà thôi,
chứ chưa có sự ảnh hưởng lan rộng trong lòng
quần chúng Phật tử.
- Thứ
hai, sau khi Ngài Hưng Liên viên tịch, các đệ tử
của Ngài không có ai có đủ khả năng kế thừa Ngài
để phát triển tông phong. Vì lẽ đó, dòng Tào
Động cũng mai một và không còn dấu tích trên đất
Quảng.
Sự hoằng
hóa của các Thiền sư kể trên đã làm cho người
dân đất Quảng thấm nhuần Phật pháp. Nhưng các
Ngài tùy duyên giáo hóa, chợt đến chợt đi khiến
cho người con Phật nơi đây cảm thấy hụt hẫn,
thiếu thốn. Chính vì lẽ đó, khi Thiền sư Minh
Hải quyết định trụ lại Quảng Nam hoằng hóa đã
đáp ứng được niềm khát khao mong đợi của đa số
tín đồ quần chúng. Nếu như các Ngài Minh Châu,
Thạch Liêm là người có công xây dựng nền móng
thì Ngài Minh Hải là người có công kiến tạo tòa
nhà Phật giáo Quảng Nam.
1.2.2.
Lược Sử Thiền Sư Minh Hải.
Thiền sư
Minh Hải (1670-1746) thế danh Lương Thế Ân, sinh
vào giờ Tuất, ngày 28 tháng 6 năm Canh Tuất
(1670) tại làng Thiệu An, huyện Đồng An, phủ
Tuyền Châu, tỉnh Phước Kiến, Trung Quốc. Thân
phụ là Lương Đôn Hậu, thân mẫu là Trần Thục
Thận, Ngài là người con thứ hai trong gia đình.
Năm Mậu
Ngọ (1678), khi vừa lên 9 tuổi, Ngài được song
thân đưa đến xuất gia tại chùa Báo Tư thuộc tỉnh
Phước Kiến. Sau một thời gian dài tu học, khi
tuổi tròn 20, Ngài được đăng đàn thọ cụ túc giới
với pháp danh Minh Hải, tự Đắc Trí, hiệu Pháp
Bảo. Như vậy, Ngài nối pháp đời 34 dòng Lâm Tế
truyền theo bài kệ của Ngài Vạn Phong-Thời Ủy.
Năm Ất
Hợi (1695), Ngài cùng với các Ngài Minh Vật-Nhất
Tri, Minh Hoằng-Tử Dung, Minh Lượng-Thành Đẳng
v.v… trong hội đồng thập sư cùng Hòa thượng
Thạch Liêm theo lời thỉnh cầu của chúa Nguyễn
Phúc Chu sang An Nam truyền giới. Phái đoàn
xuống thuyền tại bến Hoàng phố và cập bến Hội An
vào ngày 28 tháng Giêng năm Ất Hợi (1695). Sau
đó, đoàn ra Thuận Hóa, được chúa Nguyễn Phúc Chu
đón tiếp trọng thể và thỉnh về ngụ tại chùa
Thiền Lâm.
Ngày mồng
1 tháng 4 năm Ất Hợi (1695), giới đàn khai mở do
Ngài Thạch Liêm làm Đàn đầu Hòa thượng. Giới
đàn truyền các giới Sa Di, Tỳ Kheo và Bồ Tát cho
1400 giới tử trong đó có cả các vương hầu khanh
tướng. Đặc biệt, chúa Nguyễn Phúc Chu được
truyền riêng một đàn giới và Hòa thượng đàn đầu
đã ban cho pháp danh là Hưng Long.
Sau khi
giới đàn thành tựu, ngày 28 tháng 6 năm Ất Hợi
(1695), phái đoàn trở vào lại Hội An để chờ
thuyền về nước. Tại Hội An, đoàn trú ở chùa Di
Đà (sau này đổi tên là Chiên Đàn) và thể theo
lời thỉnh cầu của chư Tăng cũng như bổn đạo,
Ngài Thạch Liêm lập đàn truyền giới cho 300 giới
tử. Ngày 19, đoàn rời Hội An ra Cù Lao Chàm, lên
thuyền chờ gió. Ngày 30 thuyền nhổ neo nhưng bị
nghịch gió nên phải trở lại Hội An. Ngày 12
tháng 10, chúa Nguyễn mời Ngài Thạch Liêm trở
lại Phú Xuân lập đàn cúng Phật truyền giới một
lần nữa tại chùa Thiên Mụ. Sau đó đến ngày 24
tháng 6 năm Bính Tý (1696) Ngài Thạch Liêm cùng
với phái đoàn trở về Quảng Đông và không qua
nữa.
Sau khi
Ngài Thạch Liêm về nước, một số vị trong phái
đoàn ở lại An Nam trác tích khai sơn hoằng hóa
như Ngài Minh Hoằng-Tử Dung khai sơn chùa Ấn
Tông ở Thuận Hoá, Ngài Minh Lượng-Thành đẳng
khai sơn chùa Vạn Đức-Hội An và Ngài Minh
Hải-Pháp Bảo khai sơn chùa Chúc Thánh tại Cẩm
Phô-Hội An.
Từ những
ngày đầu tiên ở nơi mảnh đất đầy cát bụi này,
Ngài chỉ lập một thảo am để tịnh tu phạm hạnh.
Dần dần hương giới đức của Ngài lan tỏa khắp mọi
nơi, ảnh hưởng đạo đức đến người dân phố Hội và
các vùng phụ cận nên đồ chúng ngày một quy
ngưỡng tham học.
Sau gần
50 năm sang An Nam hoằng hóa, đến ngày mồng 7
tháng 11 năm Bính Dần (1746), Ngài gọi đồ chúng
đến dặn dò và đọc kệ phú chúc:
原
浮
法
界
空
真
如
無
性
相
若
了
悟
如
此
眾
生
與
佛
同
Âm:
Nguyên phù pháp
giới không
Chơn Như vô tánh
tướng
Nhược liễu ngộ
như thử
Chúng sanh dữ Phật đồng
[18, 19]
Sau khi
phú chúc, Ngài thâu thần thị tịch, trụ thế 77
tuổi. Đồ chúng cung thỉnh nhục thân Ngài nhập
bảo tháp trong khuôn viên chùa Chúc Thánh.
1.2.3
Thiền Sư Minh Hải Với Việc Khai Sáng Thiền Phái
Chúc Thánh.
Sau khi
quyết định trụ lại Hội An để hoằng hóa, Tổ Minh
Hải khai sơn chùa Chúc Thánh. Để việc truyền
thừa có quy củ dài lâu, Ngài xuất kệ truyền pháp
như sau:
傳 法 名 偈
明 實 法 全 彰
印 真 如 是 同
祝 聖 壽 天 久
祈 國 祚 地 長 |
傳 法 字 偈
得 正 律 為 宗
祖 道 解 行 通
覺 花 菩 提 樹
充 滿 人 天 中 |
Truyền
pháp danh kệ:
Minh
thiệt pháp toàn chương
Ấn chơn
như thị đồng
Chúc
thánh thọ thiên cửu
Kỳ quốc
tộ địa trường |
Truyền
pháp tự kệ:
Đắc chánh
luật vi tông
Tổ đạo
giải hạnh thông
Giác hoa
bồ đề thọ
Sung mãn
nhân thiên trung. |
Bài kệ
này bao gồm bốn mươi chữ và được chia ra làm hai
phần. Phần đầu gồm 4 câu đầu được dùng để đặt
Pháp danh và phần còn lại để đặt Pháp tự. Ngài
Minh Hải có pháp danh chữ Minh và Pháp tự là chữ
Đắc. Tiếp đến, hàng đệ tử của Ngài theo thứ tự
có pháp danh chữ Thiệt và pháp tự chữ Chánh như
: Thiệt Diệu-Chánh Hiền, Thiệt Dinh-Chánh Hiển,
Thiệt Đăng-Chánh Trí v.v. Chính sự truyền thừa
có thứ tự như vậy nên chúng ta dễ dàng nhận ra
vị Thiền sư nào là đệ tử Ngài Minh Hải. Bởi vì,
cùng thời với Ngài, có rất nhiều vị Thiền sư
thuộc đời 34 dòng Lâm Tế với pháp danh chữ Minh
theo bài kệ của Ngài Vạn Phong-Thời Ủy hoằng hóa
tại Đàng Trong. Các vị này cũng cho đệ tử pháp
danh chữ Thiệt theo câu kệ: “Hành Siêu Minh
Thiệt Tế”. Nếu không có pháp tự bằng chữ
Chánh đứng đầu thì chúng ta khó phân biệt vị nào
thọ giáo với Thiền sư Minh Hải. Đây là điểm đặc
biệt của dòng Chúc Thánh mà các Thiền phái khác
không có.
Thiền
phái Chúc Thánh là lấy theo tên ngôi chùa Chúc
Thánh do Tổ sư Minh Hải khai sơn. Từ đây, sữa
Pháp lại được khơi dòng tại đất Quảng, lan tỏa
khắp các tỉnh thành, góp phần rất lớn trong sự
nghiệp hoằng truyền chánh pháp.
Về nội
dung của bài kệ, chúng ta có thể hiểu như sau: Ở
bài kệ truyền Pháp danh, hai câu đầu là nói về
chân đế. Nghĩa là các pháp xưa nay vốn dĩ sáng
tỏ tròn đầy, cùng với thể tánh Chơn như không có
sự sai biệt. Hai câu sau nói về tục đế, cầu cho
Thánh quân sống lâu muôn tuổi và vận nước được
dài lâu muôn thuở. Ở bài kệ truyền Pháp tự, hai
câu đầu mang ý nghĩa lấy giới luật làm tông, nên
tuyên dương giới luật. Ban đầu, Tổ Minh Hải đặt
là “Đắc chánh luật vi tông”, nhưng về
sau, vì kỵ tên húy của vua Thiệu Trị [18, 17]
nên có một số vị trại chữ Tông lại chữ Tuyên (宣)
như Chương Tư-Tuyên Văn; Chương Quảng-Tuyên Châu
v.v.. hoặc chữ Tôn (尊)
như Chương Đạo- Tôn Tùng; Chương Lý- Tôn Sư
v.v…. Còn nội dung của hai câu cuối nói đến sự
chứng ngộ của hành giả.
Về ý
nghĩa của hai chữ Chúc Thánh, chúng ta có thể
hiểu hai nghĩa như sau:
- Đứng về
mặt Đạo pháp, là một người trưởng tử của Như
Lai, chư Tổ thuở quá khứ cũng như các thế hệ
chúng ta ngày nay, ai ai cũng muốn cho chánh
pháp cửu trụ thế gian để lợi lạc nhân quần xã
hội. Ở đây, Thiền sư Minh Hải lấy hai chữ Chúc
Thánh để đặt tên cho ngôi chùa cũng có ý nghĩa
như vậy. Thánh ở đây có nghĩa là Thánh đạo, Ngài
muốn Thánh giáo luôn luôn tồn tại ở thế giới
Ta-bà này để xoa dịu những nỗi thống khổ của
kiếp nhân sinh.
- Đứng về
mặt Dân tộc, mỗi người chúng ta ai cũng muốn có
những vị vua anh minh cai trị đất nước, đem lại
cảnh hòa bình an lạc cho muôn dân. Vì thế, Chúc
Thánh ở đây còn có nghĩa là Chúc cho Thánh quân
thọ lâu muôn tuổi để trị vì thiên hạ. Bởi lẽ,
giai đoạn Tổ Minh Hải qua Đàng Trong là giai
đoạn các chúa Nguyễn anh minh đang trị vì và
Đàng Trong đang thời hưng thịnh. Đồng thời, các
chúa Nguyễn là những vị nhiệt tâm hộ trì Phật
giáo. Họ chính là những vị hộ pháp đắc lực cho
chư tăng trong sự nghiệp truyền bá chánh pháp.
Qua ý
nghĩa hai chữ Chúc Thánh, chúng ta thấy được nơi
đây có sự kết hợp hai yếu tố Đạo pháp và Dân
tộc. Với hai chữ ngắn gọn, Thiền sư Minh Hải đã
gói trọn, dung hòa được cả hai yếu tố quan trọng
này. Đồng thời, qua bài kệ truyền pháp, chúng ta
thấy được sở ngộ, sở tu của Tổ Minh Hải. Từ sự
chứng ngộ siêu xuất đó, ngày nay Thiền phái Chúc
Thánh phát triển khắp các tỉnh miền Trung và Nam
Việt Nam và sang tận Âu - Mỹ.
1.2.4.
Một Vài Nghi Vấn Về Hành Trạng Của Tổ Minh Hải.
Cho đến
nay, hành trạng của Tổ sư Minh Hải còn có nhiều
vấn đề vẫn chưa được làm sáng tỏ. Chẳng hạn Tổ
xuất gia với Tổ sư nào tại chùa Báo Tư-Trung
Quốc? Đây là vấn đề quan trọng mà vẫn còn nằm
trong bức màn bí mật của thời gian. Ở đây, người
viết xin được làm rõ một vài nghi vấn về hành
trạng của Tổ mà một số sách sử đã ghi nhầm. Tựu
trung xoay quanh ba nội dung chính sau:
a. Tổ
Minh Hải có phải là đệ tử của Tổ sư Nguyên
Thiều?
Theo Lịch
sử Phật giáo Đàng Trong, Nguyễn Hiền Đức cho
rằng Tổ Minh Hải là đệ tử Ngài Nguyên Thiều? [5,
8] Nhận định ấy có chỗ chưa thỏa đáng. Chúng ta
xác định lại vấn đề qua niên đại của Tổ Nguyên
Thiều và Tổ Minh Hải.
Tổ sư
Nguyên Thiều (1648-1728) sinh ngày 18 tháng 5
năm Mậu Tý (1648) tại huyện Trình Hương, phủ
Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Ngài
xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Báo Tư với Thiền
sư Bổn Khao-Khoáng Viên. Năm Đinh Tỵ (1677),
Ngài theo thuyền buôn sang phủ Quy Ninh lập chùa
Thập Tháp. Còn Tổ sư Minh Hải, Ngài sinh ngày 28
tháng 6 năm Canh Tuất (1670), tại làng Thiệu An,
huyện Đồng An, phủ Tuyền Châu, tỉnh Phước Kiến.
Ngài xuất gia tại chùa Báo Tư khi lên 9 tuổi,
tức là năm Mậu Ngọ (1678). Như vậy, khi Ngài
Minh Hải mới nhập chúng tu học thì Ngài Nguyên
Thiều đã sang An Nam rồi. Vì thế, ta có thể
khẳng định Ngài Minh Hải không phải là đệ tử của
Tổ Nguyên Thiều, mà có thể Ngài là sư điệt gọi
Tổ Nguyên Thiều bằng sư bá hoặc sư thúc.
b. Có
phải Tổ sư Minh Hải khai sơn chùa Thiên Ấn -
Quảng Ngãi?
Cũng theo
Lịch sử Phật giáo Đàng Trong, Nguyễn Hiền Đức
cho rằng: vào những năm 1694-1695, Tổ Nguyên
Thiều và Tổ Minh Hải có liên quan đến vụ nổi
loạn của Linh Vương và Quảng Phú tại Bình Định
và Quảng Nam. Vì thế, Tổ Minh Hải vào núi Thiên
Ấn đổi pháp danh là Pháp Hóa và khai sơn chùa
Thiên Ấn; còn Tổ Nguyên Thiều vào Đồng Nai đổi
pháp danh là Siêu Bạch và khai sơn chùa Kim Cang
[5,19]. Điều này có đúng không? Chúng ta có thể
phân tích qua các yếu tố sau:
- Những
năm 1694-1695, Tổ sư Minh Hải mới qua An Nam thì
làm sao dính líu đến vụ nổi loạn của Linh Vương.
Lại nữa, nếu cả hai vị Tổ sư đều dính líu đến
Linh Vương thì làm sao Ngài Nguyên Thiều được
chúa Nguyễn Phước Trú sắc ban thụy hiệu là
“Hạnh đoan Thiền sư”? Và liệu rằng, hàng đệ
tử của Tổ Minh Hải như Thiệt Diệu, Thiệt Dinh,
Thiệt Thọ v.v.. có thể yên tâm tu học duy trì
Chúc Thánh trong khi bổn sư đi lánh nạn? Chúng
ta biết rằng, dưới chế độ phong kiến, một người
làm loạn, ba họ bị tru di. Huống gì người thầy
làm loạn mà học trò sống an ổn như vậy sao? Vì
thế, đây là lý do thứ nhất chứng minh Ngài Minh
Hải không phải là Tổ khai sơn Thiên Ấn.
- Theo bi
ký chùa Thiên Ấn, Thiền sư khai sơn thuộc đời 35
dòng Lâm Tế, có pháp danh Phật Bảo, tự là Pháp
Hóa, thế danh Lê Diệt. Trên bia mộ có ghi rõ “Tự
Lâm Tế Chánh Tông Tam Thập Ngũ Thế Pháp Hóa húy
thượng Phật hạ Bảo Hòa Thượng Chi Tháp” Như vậy,
vị Tổ sư khai sơn chùa Thiên Ấn thuộc đời 35
truyền theo bài kệ của Ngài Đạo Mân-Mộc Trần.
Còn vấn đề Thiền sư Thiệt Úy- Khánh Vân, đệ tử
Tổ Minh Hải kế thế Thiền sư Phật Bảo-Pháp Hóa
trụ trì chùa Thiên Ấn cũng là lẽ tự nhiên. Thiền
sư Thiệt Úy sau khi thọ giáo với Tổ Minh Hải ở
Chúc Thánh thì về quê nhà tại Mộ Đức lập chùa
Liên Tôn. Đến khi Ngài Phật Bảo viên tịch, vì
không có đệ tử kế thừa nên Ngài Thiệt Úy lên kế
vị trụ trì Thiên Ấn. Từ đó, chùa Thiên Ấn truyền
thừa theo dòng Chúc Thánh và trở thành Tổ đình
của chi phái Chúc Thánh tại tỉnh Quảng Ngãi.
Qua hai
luận giải trên, chúng ta đi đến kết luận rằng:
Tổ sư Minh Hải-Pháp Bảo và Tổ sư Phật Bảo-Pháp
Hóa là hai và Tổ Minh Hải không phải là người
khai sơn Tổ đình Thiên Ấn như xưa nay mọi người
ngộ nhận.
c. Về
hai bài kệ truyền pháp của Thiền sư Minh Hải:
Ngoài bài
kệ truyền pháp tại Quảng Nam, chư tăng môn phái
Chúc Thánh tại Bình Định cũng có một bài kệ
truyền pháp như sau:
傳 法 名 偈
明 實 法 全 彰
印 真 如 是 同
萬 有 唯 一 體
觀 了 心 境 空
戒 香 成 聖 果
覺 海 湧 蓮 花
信 進 生 福 慧
行 智 解 圓 通
影 月 清 中 水
雲 飛 日 去 來
達 悟 微 妙 性
弘 開 祖 道 長 |
傳 法 字 偈
得 正 律 為 宗
祖 道 解 行 通
覺 花 圓 境 智
充 滿 利 人 天
恆 沙 諸 法 界
濟 度 等 含 生
周 圓 體 相 用
觀 照 剎 塵 中
去 來 當 一 念
能 所 豈 非 他
心 境 誰 邊 取
真 望 總 皆 如 |
Truyền Pháp
Danh Kệ:
Minh
Thiệt Pháp Toàn Chương
Ấn Chơn
Như Thị Đồng
Vạn Hữu
Duy Nhất Thể
Quán Liễu
Tâm Cảnh Không
Giới
Hương Thành Thánh Quả
Giác Hải
Dõng Liên Hoa
Tín Tấn
Sanh Phước Huệ
Hạnh Trí
Giải Viên Thông
Ảnh
Nguyệt Thanh Trung Thủy
Vân Phi
Nhật Khứ Lai
Đạt Ngộ
Vi Diệu Tánh
Hoằng
Khai Tổ Đạo Trường. |
Truyền Pháp
Tự Kệ:
Đắc Chánh
Luật Vi Tông
Tổ Đạo
Giải Hạnh Thông
Giác Hoa
Viên Cảnh Trí
Sung Mãn
Lợi Nhân Thiên
Hằng Sa
Chư Pháp Giới
Tế Độ
Đẳng Hàm Sanh
Châu Viên
Thể Tướng Dụng
Quán
Chiếu Sát Trần Trung
Khứ Lai
Đương Nhất Niệm
Năng Sở
Khởi Phi Tha
Tâm Cảnh
Thùy Biên Thủ
Chơn Vọng
Tổng Giai Như. |
Nguyên
nhân xuất hiện của bài kệ thứ hai này như sau:
vào năm 1967, có một học sinh gốc người Hoa đến
nộp đơn học tại trường trung học Bồ Đề Nguyên
Thiều (Bình Định). Qua lý lịch thì được biết học
sinh này có quan hệ thân tộc với Tổ Nguyên
Thiều. Theo sự yêu cầu của thầy giám học Thích
Đổng Quán, gia đình em này cung cấp một số tư
liệu về gia phả Tổ Nguyên Thiều, trong đó có bài
kệ này.[19,34] Từ đó, chư Tăng dòng Chúc Thánh
tại Bình Định sau chữ Đồng thì truyền xuống chữ
Vạn chứ không truyền xuống chữ Chúc. Như vậy,
giữa hai bài kệ thì bài nào đích thực là của Tổ
Minh Hải phú chúc?
Xét nội
dung hai bài kệ truyền pháp thì cũng không có gì
sai lệch. Nội dung của bài kệ tại Bình Định nói
về vạn pháp đều quy về một thể, đó chính là tánh
không. Khi nào quán chiếu thấy rõ tâm không,
pháp không thì đạt thành chánh quả. Ở đây, nhấn
mạnh đến trí tuệ Bát Nhã, nói đến bổn tánh vắng
lặng trong mỗi chúng sanh, chỉ vì vọng niệm nên
trôi lăn trong sanh tử luân hồi. Giống như mặt
trăng bị mây mờ che khuất, khi nào mây tan thì
mặt trăng lại lồng lộng tỏa sáng. Tuy nhiên, cả
hai bài kệ đều lấy giới luật làm tông, tuyên
dương giới luật. Đây chính là điều thiết yếu để
đoạn trừ vô minh, bước vào dòng Thánh.
Xét về
mặt lịch sử truyền thừa, bài kệ tại Tổ đình Chúc
Thánh-Quảng Nam được truyền bá rộng rãi hơn. Còn
bài kệ tại Bình Định mới phát hiện và được áp
dụng truyền thừa trong phạm vi chư Tăng môn phái
Chúc Thánh tại Bình Định. Như vậy, chúng ta có
thể giả định rằng: lúc đầu Tổ sư Minh Hải làm
bài kệ như Hòa thượng Thích Đổng Quán tìm được
sau này, nhưng khi truyền pháp, để phù hợp với
tên ngôi chùa mình khai sơn cũng như chúc cho
minh chúa sống lâu để hộ pháp an dân nên Ngài
mới đổi lại như vậy. Đây cũng là phương tiện
quyền xảo trong việc hoằng pháp lợi sanh. Nhưng
có một điều chúng ta thắc mắc: tại sao bài kệ
của Tổ Minh Hải không nằm trong gia phả của dòng
họ Ngài mà lại nằm trong gia phả Tổ Nguyên
Thiều? Mong rằng, về sau có những công trình
nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề này.
Như vậy,
cả hai bài kệ đều do Thiền sư Minh Hải lưu xuất
cả. Tuy nhiên, về sự truyền thừa thì bài kệ tại
Tổ đình Chúc Thánh-Hội An có thời gian lâu dài
và tầm ảnh hưởng rộng rãi hơn bài kệ tại Bình
Định. Dù chư Tăng các thế hệ về sau được đặt
pháp danh với chữ Chúc, chữ Thánh hay chữ Vạn,
chữ Hữu cũng đều thuộc pháp phái Chúc Thánh-Minh
Hải Tổ sư. Tất cả đều một tâm nguyện phụng sự
Đạo pháp và Dân tộc theo như tinh thần của chư
Tổ từ xưa đến nay.
Tóm lại,
kể từ khi Tổ Minh Hải khai sơn, xuất kệ truyền
thừa, tính đến giữa và cuối thế kỷ XVIII, Thiền
phái Lâm Tế Chúc Thánh đã có sự hình thành rõ
nét. Sự hình thành này là nền tảng vững chắc để
dòng Chúc Thánh phát triển mạnh về sau, góp phần
then chốt cho sự phát triển của Phật giáo xứ
Quảng.
Chương 2
QUÁ TRÌNH PHÁT
TRIỂN CỦA
THIỀN PHÁI CHÚC
THÁNH TẠI QUẢNG NAM
2.1.
NGUYÊN NHÂN PHÁT TRIỂN.
Kể từ
ngày Tổ sư Minh Hải khơi nguồn đạo mạch, đến
cuối thế kỷ XVIII các chùa tại tỉnh Quảng Nam
đều do các Thiền sư dòng Chúc Thánh đảm nhiệm
giáo hóa. Không những thế, tầm ảnh hưởng của
dòng Chúc Thánh nhanh chóng lan rộng vào các
tỉnh phía Nam như Quảng Ngãi, Bình Định, Phú
Yên, Gia Định.
Với thời
gian chưa tới 100 năm mà Thiền phái Chúc Thánh
phát triển nhanh chóng như vậy? Chúng ta có thể
lý giải vấn đề này qua một số nguyên nhân sau:
- Gần 50
năm hoằng hóa, đạo phong của Tổ Minh Hải đã thấm
nhuần, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tinh thần
của người dân xứ Quảng. Quan trọng hơn, Ngài đã
đào tạo một thế hệ kế thừa xứng đáng, đủ khả
năng kế nghiệp Ngài xiển dương đạo pháp và phát
triển tông môn. Đời thứ 2 của dòng Chúc Thánh có
các Ngài Thiệt Dinh, Thiệt Diệu, Thiệt Thọ,
Thiệt Đạo, Thiệt Mẫn, Thiệt Gia, Thiệt Lương
v.v.. hoằng hóa tại Quảng Nam; Thiệt Úy, Thiệt
Uyên hoằng hóa tại Quảng Ngãi; Thiệt Đăng, Thiệt
Thuận hoằng hóa tại Bình Định. Đến thế hệ thứ 3
có các Ngài Pháp Liêm, Pháp Chuyên, Pháp Ấn,
Pháp Diễn, Pháp Tịnh, Pháp Tràng v.v…đều nhiệt
tâm truyền bá chánh pháp làm cho Phật giáo Quảng
Nam thêm hưng thịnh, đồng thời tông môn Chúc
Thánh nhanh chóng phát triển.
- Các
Thiền sư dòng Chúc Thánh đã đáp ứng được nhu cầu
tín ngưỡng của nhân dân nên dòng Thiền này nhanh
chóng phát triển. Như chúng ta biết, Hội An là
chiếc nôi khai sinh của dòng Lâm Tế Chúc Thánh.
Lúc bấy giờ Hội An là một thương cảng trù phú
nên có nhiều người ngoại quốc đến sinh sống làm
ăn, trong đó cộng đồng người Hoa chiếm đại đa
số. Với một lực lượng kế thừa hùng hậu, các
Thiền sư dòng Chúc Thánh đã đáp ứng được cả hai
cộng đồng người Việt lẫn người Hoa. Các Ngài
Thiệt Diệu, Thiệt Thọ, Thiệt Mẫn là người Hoa
nên ngụ tại Chúc Thánh đáp ứng nhu cầu tín
ngưỡng người Hoa. Còn Thiền sư Thiệt Dinh ra
khai sơn Phước Lâm với sự hỗ trợ của các Ngài
Thiệt Đạo, Thiệt Gia đã thu hút sự quy ngưỡng
cũng như đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng của
người Việt. Như vậy, trong hàng đệ tử xuất gia
của Tổ Minh Hải có cả người Hoa và người Việt.
Các vị người Hoa ở Chúc Thánh và các vị người
Việt ở Phước Lâm tạo thành hai trung tâm hoằng
pháp đầu tiên của dòng Chúc Thánh.
- Với tư
tưởng phóng khoáng của tông Lâm Tế, cộng với nếp
sống giản dị, thanh bần, các Thiền sư dòng Chúc
Thánh gần gũi với nhân dân nên dễ dàng tiếp cận
đi sâu vào lòng quần chúng. Thời bấy giờ, dân
Quảng Nam phần lớn là dân di cư từ Bắc vào. Từ
lâu họ đã sống trong tư tưởng gò bó của Nho giáo
nên rất chán ngán. Nay có một trào lưu mới với
những tư tưởng phóng khoáng, không câu nệ tiểu
tiết nên họ nhanh chóng tiếp nhận. Sự giản dị
trong cách sống, chân tình trong giao tiếp của
các Thiền sư nơi đất Quảng tạo nên sự gần gũi
thân mật dễ dàng hòa nhập cùng cộng đồng.
Với những
nguyên nhân trên, dòng Thiền Chúc Thánh nhanh
chóng phát triển tại Quảng Nam. Không những thế,
Thiền phái này còn phát triển và ảnh hưởng đến
sự sinh hoạt của các tỉnh phụ cận.
2.2. HOẠT
ĐỘNG CỦA THIỀN PHÁI CHÚC THÁNH.
2.2.1.
Phương Pháp Tu Tập Và Tôn Chỉ Hành Đạo.
a. Phương
pháp tu tập.
Sau Lục
Tổ Huệ Năng, Thiền tông Trung Quốc phát triển
mạnh và hình thành năm Thiền phái. Danh xưng và
tính cách tu tập của năm Thiền phái được tóm gọn
qua bài kệ sau:
Lâm Tế thống
khoái
Quy Ngưỡng cẩn
nghiêm
Tào Động tế mật
Vân Môn ký cổ
Pháp Nhãn tường
minh
Thiền
phái Lâm Tế do Thiền sư Lâm Tế-Nghĩa Huyền
(?-867) sáng lập tại Trung Hoa. Sự truyền thừa
của tông Lâm Tế đến đời 21 thì Thiền sư Vạn
Phong-Thời Ủy chùa Thiên Đồng xuất kệ “Tổ Đạo
Giới Định Tông”. Đến đời 31, Ngài Đạo
Mân-Mộc Trần chùa Thiên Khai xuất kệ “Đạo Bổn
Nguyên Thành Phật Tổ Tiên”. Khi các Tổ
Nguyên Thiều, Minh Hải, Minh Lượng sang An Nam
thì tông Lâm Tế phát triển mạnh ở Đàng Trong.
Ngài Nguyên Thiều thuộc đời 33 truyền theo bài
kệ của Ngài Vạn Phong-Thời Ủy, phái này phát
triển mạnh ở Bình Định với Tổ đình chính là chùa
Thập Tháp. Ngài Minh Lượng đời 34 truyền theo
bài kệ của Ngài Đạo Mân- Mộc Trần, phái này phát
triển ở Gia Định với Tổ đình Giác Lâm là trung
tâm. Ngài Minh Hải đời 34 biệt xuất bài kệ lập
phái Lâm Tế Chúc Thánh phát triển tại Quảng Nam
và chùa Chúc Thánh là Tổ đình chính. Đời 35 có
Ngài Thiệt Diệu - Liễu Quán xuất kệ truyền thừa
nên pháp phái Lâm Tế Liễu Quán được hình thành
và phát triển tại Thuận Hóa với Tổ đình Thiền
Tôn.
Trở lại
với môn phái Lâm Tế Chúc Thánh, cho đến nay
chúng ta chưa có nguồn tư liệu nào ghi lại sự tu
tập và những Thiền ngữ của Thiền sư Minh Hải.
Tuy nhiên, đây là chi phái của tông Lâm Tế nên
sự tu tập của các Thiền sư dòng Chúc Thánh cũng
không ra ngoài tông chỉ của phái này. Qua bài
thuật sự tích của Thiền sư Pháp Chuyên, đời 36
Lâm Tế Chúc Thánh, chúng ta phần nào thấy được
sự tu tập của các Thiền sư thời bấy giờ:
“Ngài ngày ăn một bữa, xa lìa tài sắc, không
màng đến chuyện thế sự, thường xem kinh luật,
tinh tấn cầu đạo, tụng chú Đại Bi một tạng, đảnh
lễ Tam Thiên, Vạn Phật, Hồng Danh mỗi loại năm
lần, đem thiện căn này cầu cho tội chướng tiêu
trừ, sớm thành Phật đạo”. [24, 5]
“Ngài
đảnh lễ Bổn sư và thưa:
-
Người xưa có nói: kẻ học đạo không thông lý,
thân sau phải hoàn trả của tín thí. Thế nào là
thông lý? Nguyện Thầy chỉ dạy!
Thầy
bèn trả lời:
- Tùy
theo pháp mà tu hành, cùng tột của sự thì đến
lý, nóng lạnh tự biết, tuyệt đường ngôn ngữ.
Lại
hỏi rằng:
-
Trong luật có dạy: Người xưa tâm địa chưa thông,
không quản ngàn dặm tìm thầy học đạo. Việc ấy
như thế nào?
Thầy
lại dạy:
-
Người xưa xuất gia không màng danh lợi, duy chỉ
cầu đến chỗ rốt ráo của Đạo, đoạn trừ sanh tử,
tâm địa như vậy, thấy rõ tự tánh thì thành Phật.
Bổn sư biết Ngài là bậc có căn khí Đại thừa, đạo
niệm siêu quần xuất chúng, bèn ấn chứng hiệu là
Diệu Nghiêm.”[24, 7].
Qua đoạn
trích về sự tu hành của Thiền sư Pháp Chuyên,
một Thiền sư danh tiếng thuộc thế hệ thứ 3 của
dòng Chúc Thánh, ta có thể thấy được sự tu tập
của các vị Thiền sư lúc bấy giờ là kết hợp hài
hòa giữa Thiền-Tịnh, theo chủ trương Thiền-Tịnh
song tu của Thiền sư Vĩnh Minh-Diên Thọ
(904-975). Nghĩa là các Thiền sư tụng đọc kinh
văn, lạy Phật sám hối để cầu tội chướng tiêu trừ
theo pháp môn Tịnh Độ. Đồng thời, thực tập Thiền
định, tham thoại đầu, vấn đạo để cầu thầy ấn
chứng sở đắc theo truyền thống Thiền tông.
Như vậy,
với tư tưởng “Lâm Tế thống khoái”, các
Thiền sư dòng Lâm Tế Chúc Thánh có pháp môn tu
phù hợp với điều kiện xã hội. Sự vận dụng kết
hợp Thiền-Tịnh song tu đã đem lại sự lợi lạc cho
hành giả và tha nhân. Về tự thân, các Thiền sư
đạt được sự an lạc do Thiền định đem lại, thân
tâm an lạc, nội lực tăng trưởng nên thấy rõ thật
tướng của mọi sự, mọi việc. Với pháp môn Tịnh
Độ, các Ngài đã giúp cho dân chúng ổn định tinh
thần, có một niềm tin hướng về Tam Bảo. Đặc
biệt, với lâm lý của những người mới di cư vào
vùng Quảng Nam lúc bấy giờ, tín ngưỡng Di Đà,
quy kính Tịnh Độ là chỗ dựa tinh thần vững chắc,
an ổn nơi mảnh đất đầy sơn lam chướng khí này.
b. Tôn
chỉ hành đạo.
Phật giáo
phát triển đến đâu là mang tinh thần hòa bình
đến đó. “Hộ quốc an dân” là một tôn chỉ
xuyên suốt trong lịch sử 2000 năm truyền đạo
trên đất Việt. Tôn chỉ của Thiền phái Chúc Thánh
cũng không ra ngoài nguyên tắc bất di bất dịch
ấy.
Ngay từ
những ngày đầu truyền pháp, Thiền sư Minh Hải
cũng đã phần nào khẳng định tôn chỉ ấy qua hai
câu kệ sau:
Chúc thánh thọ
thiên cửu
Kỳ quốc tộ địa
trường.
Ở ý nghĩa
chúc thánh quân sống lâu và vận nước vững bền
này, chúng ta thấy có sự gắn liền giữa Đạo pháp
và Dân tộc. Đây chính là chất liệu kết nối Tăng
sĩ với các tầng lớp nhân dân và đạo Phật dễ dàng
đi sâu vào quần chúng.
Ngoài
việc tu hành chứng ngộ tâm linh, các Thiền sư
dòng Chúc Thánh chủ trương nhập thế tích cực với
tinh thần vô nhiễm. Điều này được thể hiện qua
cuộc đời của Thiền sư Pháp Liêm, thế hệ thứ 3
dòng Chúc Thánh. Sau khi xuất gia, Ngài về quê
đăng lính đánh giặc lập nhiều công to được phong
chức chỉ huy. Nhưng Ngài từ bỏ tất cả, phát
nguyện quét chợ Hội An suốt 20 năm. Về sau, Ngài
được triều đình và dân chúng suy tôn hiệu là
Minh Giác Thiền sư, thỉnh về kế nghiệp trụ
trì Tổ đình Phước Lâm. Tiếp nối gương của bậc cổ
đức, các thế hệ tăng đồ dòng Chúc Thánh luôn
nhiệt tâm tham gia vào các phong trào đấu tranh
đòi độc lập cho Tổ quốc và tự do cho Dân tộc.
Thiền sư Vĩnh Gia, thế hệ thứ 6 dòng Chúc Thánh
là một bậc cao tăng được triều đình Huế kính
trọng, thường thỉnh ra kinh đô thuyết giảng. Tuy
nhiên, không vì sự kính trọng, ưu ái ấy mà Ngài
quên đi nổi đau mất nước. Ngài đã âm thầm cố vấn
cho nhà chí sĩ Trần Cao Vân và Thái Phiên trong
phong trào Duy Tân. Các Thiền sư chùa Cổ Lâm
huyện Đại Lộc đã che dấu Trần Cao Vân một thời
gian dài. Nhà yêu nước họ Trần cũng đã có một
thời tu hành tại đây với pháp danh Như Ý [14,
388].
Tinh thần
nhập thế của các Tăng sĩ dòng Chúc Thánh lại một
lần nữa được thể hiện qua phong trào đấu tranh
đòi tự do bình đẳng tôn giáo dưới chế độ Ngô
Đình Diệm năm 1963. Điểm cao của tinh thần ấy là
sự hy sinh cao cả của Hòa thượng Thích Quảng
Đức, Ngài đã thiêu thân cúng dường chư Phật, cầu
nguyện cho đạo pháp trường tồn. Tâm nguyện Bồ
tát của Ngài đã để lại trái tim bất diệt mà ngàn
đời Tăng Ni kính ngưỡng. Bồ tát Quảng Đức pháp
danh Thị Thủy, tự Hạnh Pháp thuộc thế hệ thứ 9
dòng Chúc Thánh. Sự hy sinh của Ngài chính là
đỉnh cao của tinh thần xả thân phụng sự Đạo pháp
và Dân tộc. Ngọn lửa từ bi được Ngài thắp sáng,
soi rõ lương tri của thời đại, góp phần đưa Phật
giáo đồ cũng như mọi người dân thoát khỏi một
chế độ độc tài hà khắc.
Tôn chỉ
hành đạo của Thiền phái Chúc Thánh kể từ ngày Tổ
sư khai sơn cho đến nay vẫn không thay đổi. Nhập
thế tích cực cứu đời nhưng vẫn thong dong tự tại
trước mọi lợi danh. Tùy duyên hành đạo và bất
biến giữ đạo luôn được áp dụng tùy từng hoàn
cảnh đã thể hiện được bản hoài của người Thích
tử theo tinh thần: “Phụng sự chúng sanh tức
là cúng dường chư Phật.”
2.2.2.
Sinh Hoạt Và Tổ Chức Của Sơn Môn.
a. Sinh
hoạt của Sơn Môn Chúc Thánh:
Như phần
trên đã trình bày, kể từ khi Thiền sư Minh Hải
xuất kệ truyền thừa, trong vòng một thế kỷ,
Thiền phái Chúc Thánh phát triển mạnh ở Quảng
Nam và lan rộng theo bước chân Nam tiến vào đến
miền Gia Định. Tại Quảng Nam, đến cuối thế kỷ
XVIII, các Thiền sư dòng Chúc Thánh đảm nhiệm
công việc hoằng hóa tại các chùa trong tỉnh và
hình thành ba trung tâm hoằng pháp: trung tâm
Hội An nằm ở phía Đông với các Tổ đình Chúc
Thánh, Vạn Đức, Phước Lâm; trung tâm Ngũ Hành
Sơn nằm ở phía Bắc với hai ngôi quốc tự Tam Thai
và Linh Ứng; trung tâm Đại Lộc nằm ở phía Tây
với Tổ đình Cổ Lâm. Cả ba trung tâm hoằng pháp
của dòng Chúc Thánh tại Quảng Nam có sự liên hệ
mật thiết và hỗ tương cho nhau. Trong đó, các
chùa Chúc Thánh, Phước Lâm giữ vai trò trung tâm
đào tạo tăng tài, phân bổ đến các chùa trong
tỉnh.
Bấy giờ,
việc sinh hoạt của Sơn Môn cũng còn đơn giản.
Thiền tông với chủ trương “Bất lập văn tự”
nên các Thiền sư không có mở trường dạy học mà
chủ yếu là thầy trò truyền dạy cho nhau, thực
tập Thiền định và ấn chứng sở ngộ. Sự sinh hoạt
của các chùa trong tông môn thể hiện rõ nét qua
các đàn truyền giới.
Đàn
truyền giới được khai mở mỗi khi có giới tử phát
nguyện thọ giới để thăng tiến trong việc tu học.
Việc này được ghi nhận như sau: “Trước đó một
năm, thỉnh chư Tăng các chùa quy ước một ngày
hội họp luận nghị về việc mở đại giới đàn tiếp
dẫn Tăng chúng hậu học. Chư Tăng đồng ứng nhận
hỗ trợ, sau đó, công bố cho chư Tăng các chùa
khắp nơi đều biết mà chuẩn bị, chọn năm… tháng…
ngày… v.v…Trước đó 3 ngày, kiền thỉnh chư Tăng
quang lâm đến chùa đã được định trước, cung
thỉnh chư tôn an bài chức sự: một vị Hòa thượng
Chủ kỳ, một vị Hòa thượng Đàn đầu, một vị Hòa
thượng Yết-ma, một vị Hòa thượng Giáo thọ, bảy
vị Xà-lê tôn chứng, bốn vị dẫn lễ, một vị Tuyên
luật sư, chọn hai vị Sa di thủ vĩ..”
[23,15-15b]
Qua sự mô
tả này, ta thấy việc Tổ chức giới đàn đều tuân
theo quy củ giới luật Phật chế, đầy đủ hội đồng
thập sư. Tuy nhiên, theo lời của các vị tôn túc,
giới đàn ngày xưa được mở sau khi kết thúc 3
tháng an cư kiết hạ mà hay gọi là trường Kỳ hoặc
trường Hương. Nghĩa là giới tử phải tập trung
trong 3 tháng an cư, theo vị Đàn đầu Hòa thượng
học tập giới luật sau đó mới chính thức đăng đàn
thọ giới.
Trong quá
trình tiếp tăng độ chúng, các vị Thiền sư dòng
Chúc Thánh thường Tổ chức giới đàn để truyền
trao y bát, tuyển người kế thừa sự nghiệp hoằng
pháp. Trong Ngũ Hành Sơn Lục, Thiền sư Từ
Trí ghi lại: vào tháng 4 năm Kỷ Tỵ (1869), Thiền
sư Chương Tư-Tuyên Văn kiến lập đàn giới tại
chùa Phước Lâm, giới đàn này do Thiền sư Toàn
Nhâm -Vi Ý làm Hòa thượng Đàn đầu và giới tử đắc
pháp là Thiền sư Ấn Bổn-Tổ Nguyên-Vĩnh Gia.
Năm Quý
Tỵ (1893), Thiền sư Ấn Bổn-Tổ Nguyên-Vĩnh Gia
cùng Ngài Ấn Thanh-Tổ Đạo-Chí Thành khai đại
giới đàn tại chùa Chúc Thánh. Thiền sư Chí Thành
được cung thỉnh làm Hòa thượng đàn đầu và Ngài
Vĩnh Gia làm Giáo Thọ A-xà-lê tại giới đàn này.
Các năm
Mậu Thân (1908), Canh Tuất (1910), Thiền sư Ấn
Bổn-Vĩnh Gia khai giới đàn và làm Hòa thượng Đàn
đầu tại chùa Phước Lâm. Đặc biệt nổi tiếng nhất
là giới đàn năm Canh Tuất (1910), giới đàn này
quy tụ trên 200 giới tử xuất gia và hàng ngàn
giới tử tại gia. Trong đó có một số vị đắc giới
và trở thành lương đống trong Phật pháp như các
Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Thích Giác Nhiên,
đệ nhất và đệ nhị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất. Về phần tại gia thì có Tuy
Lý Vương-Miên Trinh, Đô thống Lê Viết Nghiêm
cũng như nhiều hoàng thân quốc thích khác thọ
giáo với Ngài.
Năm Mậu
Thìn (1928), niên hiệu Bảo Đại thứ 3, Hòa thượng
Chơn Pháp-Đạo Diệu-Phước Trí khai giới đàn và
làm Đàn đầu Hòa thượng tại giới đàn chùa Từ
Vân-Đà Nẵng. Trong hàng giới tử đắc pháp với
Ngài có Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong
những cao Tăng của Phật giáo Việt Nam thời hiện
đại.
Năm Kỷ Tỵ
(1929), niên hiệu Bảo Đại thứ 4, Hòa thượng
Phước Trí lại được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn
đầu tại giới đàn chùa Phước Lâm-Hội An.
Qua các
giới đàn mà ngày nay chúng ta biết được, phần
nào tái hiện lại sinh hoạt của cộng đồng tăng lữ
ngày xưa tại Quảng Nam. Điều này thể hiện được
mối quan hệ khắng khít của các chùa trong sơn
môn Chúc Thánh thời bấy giờ. Các đàn giới đã đào
tạo những thế hệ Tăng sĩ kế thừa nên môn phái
ngày càng phát triển rộng khắp. Đồng thời, qua
các giới đàn này, đã nói lên được mối liên hệ
của chư tăng Quảng Nam đối với các tỉnh lân cận
như Thừa Thiên, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên
v.v…Bởi vì, các giới đàn được khai mở tại Quảng
Nam đều có sự tham dự của chư tăng các tỉnh
trong Hội Đồng Thập Sư cũng như giới tử cầu thọ
giới. Cũng thế, khi các tỉnh mở giới đàn đều
cung thỉnh các Thiền sư ở Quảng Nam tham dự và
chư tăng Quảng Nam cũng đến các tỉnh cầu thọ
giới.
Ngoài
việc lập đàn truyền giới, sự quan hệ của các
chùa trong sơn môn Chúc Thánh tại Quảng Nam được
biểu hiện qua các ngày giỗ Tổ, khánh thành chùa,
tang lễ v.v… Trong những Phật sự này, chư tăng
tề tựu hỗ trợ lẫn nhau trong công việc, thể hiện
tình pháp lữ đồng môn gắn bó tương thân tương
trợ.
b. Tổ
chức của Môn phái.
Những
ngày đầu hình thành, môn phái Chúc Thánh chỉ
sinh hoạt đơn giản với danh từ Chư Tự Sơn Môn.
Lúc đó, sự Tổ chức còn sơ sài, chùa nào có bậc
cao tăng thạc đức, uyên thâm giáo điển là tăng
chúng quy tụ về theo học. Thông thường, các
Thiền sư danh tiếng đều trụ tại đạo tràng Phước
Lâm. Vì thế Phước Lâm đóng vai trò quan trọng
trong sự phát triển của môn phái Chúc Thánh.
Vào những
năm đầu thế kỷ 20, tình hình chính trị đất nước
biến chuyển phức tạp. Các giáo sĩ Thiên chúa
theo bước chân lính Pháp sang truyền giáo và chủ
trương đập chùa làm nhà thờ. Minh chứng cụ thể
là chùa Bửu Châu do chúa Tiên-Nguyễn Hoàng lập
năm Đinh Mùi (1607) tại Trà Kiệu đã bị người
Thiên chúa san bằng để làm nhà thờ Trà Kiệu.
Trước
tình hình như vậy, vào năm Tân Dậu (1921), Hòa
thượng Ấn Nghiêm -Phổ Thoại đứng ra thành lập
Bản Tỉnh Chư Sơn Hội nhằm mục đích củng cố Tăng
già, chỉnh đốn Thiền môn đồng thời bảo vệ các
chùa trước sự tàn phá của binh lính Pháp. Ngài
được chư sơn tín nhiệm cung thỉnh làm Trị Sự đầu
tiên.
Cơ cấu
của Tổ chức Bản Tỉnh Chư Sơn Hội gồm có một vị
hội trưởng, một vị thư ký, mỗi huyện thị có một
vị Chánh Kiểm Tăng và một vị Phó Kiểm Tăng. Lúc
bấy giờ tỉnh Quảng Nam chia làm 9 phủ huyện như
sau: Điện Bàn, Thăng Bình, Tam Kỳ, Quế Sơn, Hòa
Vang, Duy Xuyên, Đại Lộc, Tiên Phước, Hội An.
Tổ chức
Bản Tỉnh Chư Sơn Hội đã bảo vệ được các chùa
trước sự tàn phá của lính Pháp cũng như củng cố
Tăng già làm tiền đề cho phong trào chấn hưng
Phật giáo. Tổ chức này chính là tiền thân của
Giáo Hội Tăng Già về sau.
Đến năm
Nhâm Thân (1992), nhân dịp khánh thành bảo tháp
Tổ sư Minh Hải, môn phái Chúc Thánh mới chính
thức thành lập. Đây là nhu cầu thiết yếu để duy
trì truyền thống và sự phát triển của tông môn.
Chư Tăng Ni thuộc môn phái khắp các tỉnh thành
trong cả nước đều vân tập về Chúc Thánh Tổ chức
hội nghị thành lập môn phái. Danh xưng chính
thức được gọi là Môn phái Lâm Tế Chúc Thánh và
đặt trụ sở tại Tổ đình Chúc Thánh-Hội An. Cơ cấu
Tổ chức bao gồm 2 hội đồng: Hội Đồng Môn Phái và
Hội Đồng Điều Hành. Hội Đồng Môn Phái gồm các vị
tôn túc tiêu biểu cho giới luật, có nhiệm vụ
chứng minh các đại lễ, đàn giới của môn phái.
Hội Đồng Điều Hành có trách nhiệm điều hành mọi
công tác Phật sự của môn phái. Đứng đầu môn phái
có một vị Trưởng môn phái và nhiều vị Phó trưởng
môn phái, chánh phó thư ký và các ủy viên. Các
vị phó trưởng môn phái là chi phái trưởng tại
các tỉnh thành. Hội nghị cũng đã thông qua bản
Nội Quy của môn phái bao gồm 7 chương 16 điều.
Đồng thời, trong hội nghị này, môn phái cũng đã
quy định 3 năm một lần vào ngày giỗ Tổ Minh Hải
mồng 7 tháng 11 các năm thuộc chi Dần, Tỵ, Thân,
Hợi, Tăng Ni các nơi Tổ chức về nguồn để họp bàn
Tổng kết đánh giá những thành tựu, ưu khuyết của
môn phái, từ đó, vạch ra chương trình sinh hoạt
trong những năm tới. Thông lệ này được thực hiện
một cách đều đặn từ ngày ấy đến nay.
Xuyên
suốt 300 năm truyền thừa trên đất Quảng, Thiền
phái Lâm Tế Chúc Thánh hình thành và phát triển
theo thời gian. Dần theo năm tháng, với những
chuyển biến của đất nước, môn phái Chúc Thánh có
những Tổ chức cụ thể để duy trì truyền thống
tông môn. Sự thành lập Môn phái Lâm Tế Chúc
Thánh vào năm Nhâm Thân (1992) là đỉnh cao của
tinh thần hòa hợp của Phật giáo. Đây là một Tổ
chức kiện toàn nhất của dòng Lâm Tế Chúc Thánh
từ trước đến nay.
2.3. CÁC
THIỀN SƯ TIÊU BIỂU TRONG SỰ NGHIỆP TRUYỀN THỪA:
Với 300
năm truyền thừa và phát triển, trong mỗi giai
đoạn lịch sử cụ thể, tại Quảng Nam đều có các vị
Thiền sư đóng vai trò chủ đạo của tông môn. Các
vị Thiền sư tiêu biểu trong sự nghiệp truyền
thừa qua các thời kỳ như sau:
1. Hòa
thượng Ân Triêm (1712-1796): Ngài họ Lê,
sinh năm Nhâm Thìn (1712) tại xã Bến Đền, phủ
Điện Bàn, dinh Quảng Nam. Tương truyền: mẹ Ngài
một đêm nằm mộng thấy con trâu chọc sừng chui
vào bụng, từ đó bà thọ thai. Từ khi mang thai,
bà nhàm chán những thức ăn thịt cá, chỉ dùng
toàn chay tịnh và sau đó sanh ra Ngài.
Năm lên
10 tuổi, Ngài xuất gia với Tổ Minh Hải tại chùa
Chúc Thánh, được Tổ ban cho pháp danh Thiệt
Dinh, tự Chánh Hiển, hiệu Ân Triêm, nối pháp đời
35 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Sau khi Tổ Minh Hải
viên tịch, Ngài đến ấp Trảng Kèo, xã Thanh Hà,
phủ Điện Bàn (Nay là phường Thanh Hà-Hội An) lập
thảo am lấy tên là Phước Lâm để tịnh tu đạo
nghiệp. Không bao lâu, hương thơm giới hạnh của
Ngài lan khắp mười phương và đồ chúng theo về tu
học ngày càng đông, dần dần tịnh thất Phước Lâm
trở thành Tùng Lâm nguy nga tại Xứ Quảng.
Gần 50
năm khai sáng và hành đạo tại Phước Lâm, vào
ngày mồng 10 tháng 11 năm Bính Thìn (1796), sau
khi dặn dò phó chúc cho đệ tử, Ngài phát nguyện
thiêu thân cúng dường Tam bảo, hưởng thọ 85
tuổi. Đồ chúng lập tháp tại phía Tây Nam trong
khuôn viên chùa Phước Lâm để thờ linh cốt Ngài.
Hơn 60
năm hoằng dương chánh pháp, Hòa thượng Ân Triêm
đã kế thừa sự nghiệp của Tổ Minh Hải thắp sáng
ngọn đèn chánh pháp tại Quảng Nam. Đệ tử của
Ngài có các vị như Pháp Ấn-Tường Quang-Quảng Độ,
Pháp Liêm-Luật Oai-Minh Giác (trụ trì chùa Phước
Lâm); Pháp Chuyên-Luật Truyền-Diệu Nghiêm (khai
sơn chùa Từ Quang-Phú Yên); Pháp Tịnh-Luật
Phong-Viên Quang (khai sơn chùa Thiên Hòa-Tuy
Phước). [10, 3]
2. Hòa
thượng Minh Giác (1747-1830): Ngài thế danh
Võ Đức Nghiêm, sinh ngày 15 tháng 1 năm Đinh Mão
(1747) tại thôn Ngọc Trì, huyện Tư Nghĩa, tỉnh
Quảng Ngãi. Năm Kỷ Mão (1759), khi vừa tròn 12
tuổi, Ngài xuất gia tại chùa Phước Lâm với Hòa
thượng Ân Triêm và được bổn sư cho pháp danh
Pháp Liêm, tự Luật Oai. Như vậy, Ngài nối pháp
đời 36 dòng Lâm Tế Chúc Thánh.
Năm Canh
Dần (1770), sau hơn 10 năm tu tập, Ngài về làng
thăm song thân. Gặp lúc giặc mọi Đá Vách lại nổi
dậy, Ngài tòng quân đánh dẹp loạn phỉ, lập nhiều
chiến công được phong chức chỉ huy. Tuy hưởng
công danh phú quý, nhưng Ngài nhàm chán nên từ
quan, về lại Hội An, phát nguyện quét chợ 20 năm
để sám hối tội lỗi gây ra trong chiến tranh.
Quét chợ để làm sạch cảnh trần ai và cũng là
quét sạch mọi cấu bẩn trong tâm, dọn mình khiết
tịnh để tiến lên bờ giác.
Năm Mậu
Ngọ (1798), khi công hạnh viên mãn, Ngài được
Chư Sơn cũng như tín đồ thỉnh về trụ trì chùa
Chiên Đàn và tôn hiệu là Minh Giác Hòa thượng.
Trong tờ biểu tôn xưng có nói: “Phật là giác
giả, Hòa thượng có tính thông tuệ, tự cho con
đường tình duyên danh lợi đã 20 năm nay như đem
dao cắt đứt hẳn, coi giống cát sông bọt nổi. Lại
đem mình ở nơi thị tỉnh chịu đựng bụi trần nhọc
lòng khổ chí để giữ vững tâm niệm nhập đạo mà
thành tựu tấm thân chứng đạo. Đã hay tự mình
khai giác hết thảy những người có tình như chiêm
bao thức giấc vậy. Trong điển Phật có nói: Tự
mình biết, bảo cho người khác biết, đó là có ý
nghĩa đầy đủ tiếng khen về biết rõ cả” [14,
169].
Ngài trở
lại Phước Lâm cùng Ngài Quảng Độ trùng tu chùa
và kế thế trụ trì. Ngài tích cực xiển dương
chánh pháp cho đến khi viên tịch vào giờ Tý ngày
mồng 10 tháng 11 năm Canh Dần (1830) hưởng thọ
84 tuổi.
Hàng đệ
tử thờ Ngài với hai câu đối đầy ý nghĩa như sau:
- Dẹp
giặc, quét chợ, mấy độ gian lao, xuất gia lạ,
phát nguyện càng thêm lạ, tám mươi vãng sanh
thành chánh giác.
- Làm
chùa, đúc chuông, biết bao công đức, sữa cũ đẹp,
làm mới lại càng đẹp, ngàn năm sáng mãi ngọn đèn
Thiền.
Đệ tử của
Ngài có các vị thành danh như: Ngài Toàn Nhâm-Vi
Ý-Quán Thông (trụ trì chùa Phước Lâm);
Toàn
Ý-Vi Tri-Phổ Huệ (khai sơn
Chùa Phổ Bảo- Bình Định); Toàn Tín-Vi Tâm-Đức Thành
(khai sơn chùa Khánh Lâm-Tuy Phước). Hạnh nguyện
của Ngài quả thật là vô tiền khoáng hậu trong
dòng sử Phật Việt. Ngày nay người dân Phố Hội
thường nhắc đến Ngài với cái tên dung dị: Tổ
Bình Man Tảo Thị.
3. Hòa
thượng Quán Thông (1798-1883): Ngài thế danh
Nguyễn Văn Định, sanh vào năm Mậu Ngọ (1798),
tại làng Trung Phường, huyện Duy Xuyên, tỉnh
Quảng Nam. Ngài xuất gia và đắc pháp với Tổ Pháp
Liêm-Luật Oai nên có pháp danh Toàn Nhâm, tự Vi
Ý, hiệu Quán Thông, nối pháp đời 37 dòng Lâm Tế
Chúc Thánh.
Năm Canh
Dần (1830), Ngài trụ trì chùa Phước Lâm sau khi
Bổn sư viên tịch. Tiếp đó, Ngài lại được Chư Sơn
cung thỉnh kiêm trụ trì chùa Chúc Thánh.
Vào các
năm Ất Tỵ (1845), Kỷ Dậu (1849), Ngài đứng ra
quyên mộ trùng kiến Tổ đình Chúc Thánh, xây dựng
tiền đường và đổi hướng chùa từ hướng Tây sang
hướng Tây Nam cho phù hợp với địa thế phong
thổ.
Ngày mồng
2 tháng 3 năm Quý Mùi (1883), Ngài thị tịch,
hưởng thọ 86 thế tuế. Phần lớn đệ tử của Ngài
đảm nhiệm các chùa tại Quảng Nam như: Chương
Nhẫn-Tuyên Hòa-Quảng Hóa (trụ trì chùa Phước
Lâm); Chương Đạo-Tôn Tùng-Quảng Viên, Chương
Khoáng-Tuyên Điền-Chứng Đạo (trụ trì chùa Chúc
Thánh); Chương Quảng-Tuyên Châu-Mật Hạnh, Chương
Tư-Tuyên Văn-Huệ Quang, Chương Tín-Hoằng Ân
(hoằng hóa tại Ngũ Hành Sơn); Chương Lý-Tôn
Sư-Trí Quang, Chương Chất-Tông Chiếu-Quảng
Thành, Chương Đàn-Tông Khai-Hoằng Đạt (hoằng hóa
tại chùa Cổ Lâm-Đại Lộc). [9, 98]
4. Hòa
thượng Huệ Quang (…-1873):Ngài thế danh Đặng
Văn Quang người xã Đức An, phủ Thăng Bình, tỉnh
Quảng Nam. Ngài xuất gia đắc pháp với Tổ Quán
thông nên có pháp danh Chương Tư, tự Tuyên Văn,
hiệu Huệ Quang, thuộc đời 38 dòng Lâm Tế Chúc
Thánh. Sau khi thọ đại giới, Ngài xin Bổn sư vân
du vào tham học Kinh Luật tại chùa Từ Quang-Đá
Trắng tỉnh Phú Yên.
Năm Tân
Dậu (1861), Ngài được triều đình bổ nhiệm trụ
trì chùa Linh Ứng trên núi Ngũ Hành và đến năm
Nhâm Tuất (1862), triều đình cải bổ Ngài làm trụ
trì quốc tự Tam Thai.
Năm Kỷ Tỵ
(1869), niên hiệu Tự Đức thứ 22, Ngài lập đàn
truyền giới tại Phước Lâm, thỉnh Hòa thượng bổn
sư Quán Thông làm Đàn đầu.
Năm Quý
Dậu (1873), vào ngày 22 tháng 6 Ngài nhóm họp
môn đồ, ân cần phó chúc mọi việc một cách rõ
ràng rồi an nhiên mà thoát hóa. Môn đồ đã kiến
tạo bảo tháp của Ngài tại phía Nam ngọn Âm Hỏa
Sơn trong núi Ngũ Hành.
5. Hòa thượng Vĩnh Gia (1840
-1918): Ngài thế danh Đoàn Nhược sinh vào năm
Canh Tý (1840) tại làng Thế Dương, quận Thăng
Bình, tỉnh Quảng Nam. Năm Kỷ Mùi (1859), Ngài
đến chùa Tam Thai- Ngũ Hành Sơn xin xuất gia với
Tổ Chương Tư-Tuyên Văn, được Tổ ban cho pháp
danh là Ấn Bổn, tự Tổ Nguyên. Từ đây, Ngài nối
truyền đời thứ 39 tông phái Lâm Tế Chúc Thánh.
Năm Kỷ Tỵ
(1869), Ngài thọ giới cụ túc tại giới đàn chùa
Phước Lâm do Tổ Quán Thông làm đàn đầu và được
phú pháp hiệu Vĩnh Gia. Năm Quý Mùi (1883), Ngài
được triều đình sắc phong trụ trì quốc tự Linh
Ứng. Năm Đinh Hợi (1887), Thiền sư Chương
Nhẫn-Tuyên Hòa, trụ trì Tổ đình Phước Lâm viên
tịch, Ngài được sơn môn cung thỉnh trụ trì Phước
Lâm.
Là một
cao Tăng tinh thông Tam tạng, nghiêm trì giới
luật nên đạo hạnh của Ngài lan rộng khắp các
tỉnh miền Trung. Vì thế Ngài thường được triều
đình thỉnh về kinh đô Phú Xuân để thuyết pháp
cho Vua và hoàng tộc, cũng như cung thỉnh trong
các giới đàn tại các tỉnh Thuận Hóa, Quảng Nam,
Bình Định v.v…
Ngài
thường xuyên kiến đàn truyền trao giới pháp cho
chư Tăng tu học. Đặc biệt, giới đàn năm Canh
Tuất (1910) tại Phước Lâm, các giới tử đắc giới
đều là những bậc cao tăng rường cột cho Phật
giáo Việt Nam thời hiện đại. Trong đó, nổi bậc
nhất là Hòa thượng Thích Tịnh Khiết và Thích
Giác Nhiên, đệ nhất và đệ nhị Tăng thống Giáo
Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Ngài
thường căn dặn đệ tử: “Giới luật là thọ mạng
của Phật pháp, nếu phá giới phải hoàn lại y bát,
ra khỏi Già Lam, để cho trong đục rõ ràng, tà
chánh phân chia. Có vậy nước Thiền định mới khai
thông, đèn Tri giác thêm sáng tỏ”.
Vào ngày
20 tháng 3 năm Mậu Ngọ (1918), Ngài thị tịch,
thọ thế 79 tuổi. Nhục thân của Ngài được an trí
trong bảo tháp rất trang nghiêm nằm phía tả Tổ
đình Phước Lâm. [9, 100-102]
6. Hòa
thượng Từ Trí (1852-1921): Ngài tên Nguyễn
Viết Lư sinh năm Nhâm Tý (1852), tại xã An Bình,
huyện Lễ Dương, phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
Năm Bính Dần (1866), vừa tròn 15 tuổi, Ngài đến
chùa Linh Ứng bái Hòa thượng Chương Quảng-Tuyên
Châu làm thầy. Ngài được Tổ ban pháp danh Ấn
Lan, tự ụ Tổ Huệ, hiệu Từ Trí, nối pháp đời 39
Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh.
Năm Đinh
Hợi (1887), Ngài được triều đình bổ nhiệm trụ
trì chùa Linh Ứng. Từ đây, Ngài ra sức tu bổ
Linh Ứng khiến cho chùa ngày càng khang trang mỹ
lệ. Đồng thời, Ngài tham dự các giới đàn để thí
giới cho tăng đồ tu học.
Năm Ất
Mùi (1895), triều đình sắc phong Ngài làm Tăng
cang, cai quản hai chùa Tam Thai-Linh Ứng. Trong
lịch sử Phật giáo tại Ngũ Hành Sơn, Ngài là vị
Tăng cang đầu tiên vậy.
Năm Đinh
Dậu (1897), vua Thành Thái ban cho hai chiếc
“Ngũ Phước Ngân Tiền”, tưởng thưởng cho công đức
tu hành cũng như đạo hạnh của Ngài. Năm Canh Tý
(1900), vua ban cho Ngài tấm biển với 4 chữ “Hữu
Tâm Tượng Giáo” để tán thán tài đức của Ngài đã
làm Phật giáo hưng thạnh như thời Tượng pháp.
Năm Nhâm
Dần(1902), Ngài Tổ chức trai đàn tại chùa Linh
Ứng, vua Thành Thái ngự vào dự lễ, ban cho Ngài
sáu chiếc ca sa để thưởng cho Phật sự này.
Năm Tân
Dậu (1921), Ngài đã viên tịch, thọ 70 thế tuế.
Bảo tháp của Ngài được xây dựng tại phía Nam của
ngọn Thủy Sơn trong cụm Ngũ Hành.
Ngài để
lại tác phẩm “Ngũ Hành Sơn Lục”, một cuốn
sách rất có giá trị lịch sử về các thắng tích
cũng như tiểu sử chư Hòa thượng hoằng hóa tại
Ngũ Hành Sơn. [11, 220-222]
7. Hòa
thượng Phổ Thoại (1875-1954): Ngài thế danh
Nguyễn Văn Thọ, sinh năm Ất Hợi (1875) tại xã
Cẩm Kim, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam. Năm Đinh
Hợi (1887), khi vừa tròn 12 tuổi, Ngài xuất gia
với Tổ Chương Đạo- Tôn Tùng tại chùa Chúc Thánh
với pháp danh Ấn Nghiêm, tự Tổ Thân, nối pháp
đời 39 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Ngài vốn người
thông minh, tính tình cương trực nhưng khiêm
nhượng nên Bổn sư rất yêu mến. Vào năm Quý Tỵ
(1893), Tổ Chương Đạo viên tịch, Ngài về Phước
Lâm y chỉ Tổ Vĩnh Gia để tu học.
Vào tháng
4 năm Ất Mùi (1895), khi vừa tròn 20 tuổi, Ngài
được Tổ Vĩnh Gia truyền trao giới Cụ túc và phú
pháp với pháp hiệu là Phổ Thoại.
Năm Kỷ
Dậu (1909), được một Phật tử hiến cúng khu đất
tại ấp Hậu Xá, xã Thanh Hà, Ngài xin phép Tổ
Vĩnh Gia ra lập một thảo am nhỏ lấy tên là Long
Tuyền để tiện việc tu niệm. Cũng trong năm này,
Ngài vận động đúc một đại hồng chung nặng 200Kg
dưới sự chứng minh của Ngài Tăng cang Từ Trí. Từ
đó, Ngài lần lần xây dựng Long Tuyền thành một
ngôi Phạm vũ nguy nga và được triều đình nhà
Nguyễn ban sắc tứ vào năm Quý Dậu (1933).
Năm Tân
Dậu (1921), Ngài đứng ra thành lập Bản Tỉnh Chư
Sơn Hội nhằm mục đích củng cố Tăng già, chỉnh
đốn Thiền môn. Ngài được chư sơn tín nhiệm cung
thỉnh làm Trị Sự đầu tiên. Ngài được cung thỉnh
làm Yết Ma, Giáo Thọ trong nhiều đàn giới tại
Quảng Nam. Năm 1933, khi Hội An Nam Phật Học
thành lập, Ngài được cung thỉnh làm chứng minh
đạo sư cho hội.
Hòa
thượng Phổ Thoại là một người giới luật tinh
nghiêm, chuyên cần tu niệm, thường trì tụng kinh
Phạm Võng. Ngoài tinh thần vì Đạo pháp, Ngài còn
có một tinh thần Dân tộc rất cao. Ngài thường
dạy đệ tử: “Nước nhà mất thì đạo cũng không
còn, nên cần phải có ý thức trách nhiệm đối với
quốc gia”.
Vào ngày
mồng 9 tháng 4 năm Giáp Ngọ (1954), Ngài đã thị
tịch, thọ 80 tuổi. Môn đồ thỉnh nhục thân an trí
trong bảo tháp tại phía hữu chùa Long Tuyền.
Ngài đã đào tạo được nhiều vị đệ tử tài ba phục
vụ cho Phật giáo Quảng Nam hiện đại. [10, 8-10]
8. Hòa
thượng Thiện Quả (1881-1962): Ngài thế danh
Dương Văn Y, sinh ngày 23 tháng Chạp năm Tân Tỵ
(1881), tại xã Bình An, huyện Thăng Bình, tỉnh
Quảng Nam. Năm lên 15 tuổi, Ngài xuất gia với Tổ
Ấn Bính-Tổ Thuận-Phổ Bảo tại chùa Chúc Thánh nên
có pháp danh Chơn Chứng. Như vậy, Ngài nối pháp
đời 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh.
Năm 17
tuổi, Ngài ra Tam Thai học tập kinh luật. Đến
năm Nhâm Dần (1902), khi vừa 21 tuổi thì thọ Sa
Di tại giới đàn chùa Từ Quang ở Phú Yên và được
ban pháp tự là Đạo Tâm. Năm Canh Tuất (1910),
Ngài thọ Đại giới tại chùa Phước Lâm do Ngài
Vĩnh Gia làm Đàn đầu Hòa thượng và Tổ đã phú
pháp cho Ngài với pháp hiệu là Thiện Quả. Sau
khi thọ giới, Hòa thượng xin phép Bổn sư tiếp
tục vào tu học tại chùa Từ Quang ở Phú Yên.
Năm Giáp
Dần (1914), Tổ Ấn Bính gọi Ngài về và ấn chứng
kế thừa trụ trì Chúc Thánh. Hòa thượng về trụ
trì Chúc Thánh một thời gian thì đạo phong của
Ngài đã lan tỏa khắp nơi và ngày mồng 8 tháng 9
năm Canh Thân (1920), chùa Chúc Thánh được triều
đình ban Sắc Tứ.
Với đạo
hạnh cao thâm, Ngài được cung thỉnh làm Tôn
chứng cho các giới đàn tại chùa Báo Quốc- Huế,
Từ Vân- Quảng Nam, Thạch Sơn-Quảng Ngãi v.v…
Năm Quý
Dậu (1933), vào ngày mồng 8 tháng 7, Ngài được
triều đình sắc phong Tăng cang chùa Chúc Thánh,
ban cho giới đao, độ điệp và đến năm Bính Tý
(1936), Ngài lại được sắc phong Tăng cang Tam
Thai-Linh Ứng.
Vào những
năm 1930 -1940, Hòa thượng được cung thỉnh Chứng
minh đạo sư cho Hội An Nam Phật Học tại Quảng
Nam. Năm Giáp Ngọ (1954), Ngài trùng tu chánh
điện, Đông đường, Tây đường khang trang cho đến
ngày hôm nay.
Vào mùa
hạ năm Nhâm Dần (1962), Ngài thị bịnh và viên
tịch vào ngày mồng 6 tháng 7, thế thọ 82. Bảo
tháp của Ngài được môn đồ an trí bên cạnh tháp
Tổ Minh Hải trong khuôn viên Tổ đình Chúc Thánh.
[10, 11-12]
9.
Quảng Nam Tứ Trụ: Quảng Nam Tứ Trụ là danh
từ thân mật kính ngưỡng mà chư Tăng Ni Phật tử
gọi 4 vị Hòa thượng tài ba lỗi lạc của xứ Quảng
hiện đại. Đó là Hòa thượng Chơn Phát,
Hòa thượng Long Trí, Hòa thượng Như Vạn,
Hòa thượng Như Huệ. Mỗi vị có một biệt
tài và đã đoàn kết bên nhau hướng dẫn Tăng Ni
Phật tử tu hành cũng như tham gia các phong trào
đấu tranh đòi tự do bình đẳng tôn giáo vào những
thập niên 60 - 70 của thế kỷ XX. Các Ngài kế
thừa sự nghiệp chư Tổ làm cho Phật giáo Quảng
Nam một thời hưng thịnh.
- Hòa
thượng Chơn Phát : Ngài thế danh Nguyễn
Nghi, sinh năm Nhâm Thân (1932) tại thôn Kim
Bồng, xã Cẩm Kim, Hội An. Ngài xuất gia năm lên
10 tuổi với Hòa thượng Phổ Thoại tại Long Tuyền
với pháp danh Chơn Phát, tự Đạo Dũng, hiệu Long
Tôn, thuộc đời 40 Lâm Tế Chúc Thánh. Vào những
thập niên 50-60, Ngài theo học tại Phật học
đường Ấn Quang và làm giáo thọ sư tại Học viện
Giác Sanh-Sài Gòn. Năm 1961, Ngài về trụ trì
chùa Long Tuyền và thành lập Phật Học Viện Quảng
Nam vào năm 1970. Ngài là người thâm hiểu Phật
pháp và tâm huyết với việc đào tạo tăng tài.
Hiện nay, Ngài đương kim trụ trì chùa Long Tuyền
- Hội An.
- Hòa
thượng Long Trí (1928 -1998): Ngài thế danh
Lý Trường Châu, sanh năm Mậu Thìn (1928) tại
làng Minh Hương-Hội An. Xuất gia năm 19 tuổi với
Hòa thượng Phổ Thoại nên có pháp danh Chơn Ngọc,
tự Đạo Bảo, hiệu Long Trí, nối pháp đời 40 Lâm
Tế Chúc Thánh. Trong những thập niên 50, các
Tăng sĩ cùng khóa đều theo học các trường ở miền
Nam thì Hòa thượng trụ tại trú xứ và theo học
với bổn sư. Do thiên tính bẩm sinh nên Ngài rất
có khả năng Tổ chức hành chánh cũng như nghi lễ.
Năm 1954, Ngài về trụ trì chùa Viên Giác theo
lời thỉnh cầu của đạo hữu Phật tử, đồng thời làm
phó thư ký cho Giáo Hội Tăng Già Quảng Nam Đà
Nẵng. Trong các mùa pháp nạn, Ngài đều dấn thân
tranh đấu cho sự tự do tôn giáo. Ngài thường chú
trọng đào tạo Gia Đình Phật Tử, một thế hệ trẻ
kế thừa Phật giáo sau này. Hòa thượng viên tịch
vào ngày 13 tháng 9 năm 1998, hưởng thọ 71 tuổi.
- Hòa
thượng Như Vạn (1930 -1980): Ngài thế danh
Trần Văn Chín, sinh năm Canh Ngọ (1930) tại Ái
Nghĩa-Đại Lộc. Ngài xuất gia năm 21 tuổi tại
Chúc Thánh với Hòa thượng Thiện Quả, được ban
pháp danh Như Vạn, tự Giải Thọ, hiệu Trí Phước,
nối pháp đời thứ 41 Lâm Tế Chúc Thánh. Năm 1951,
Ngài theo học tại Phật Học đường Ấn Quang. Năm
1959, Ngài được sơn môn cử làm trụ trì Tổ đình
Phước Lâm. Năm 1960, Ngài được Tổng Hội Phật
Giáo Trung Phần cử làm giảng sư tỉnh Quảng Nam.
Hòa thượng là người nhiệt tình trong mọi công
tác Phật sự nên rất được Tăng Ni Phật tử yêu
mến. Ngài có công trùng tu Tổ đình Phước Lâm
trang nghiêm cho đến ngày hôm nay. Ngài viên
tịch đột ngột vào ngày 23 tháng 3 năm 1980,
hưởng dương 51 tuổi.
- Hòa
thượng Như Huệ: Ngài thế danh Phạm Huệ, sinh
năm Giáp Tuất (1934) tại làng Cẩm Phô-Hội An.
Ngài xuất gia từ thuở nhỏ với Hòa thượng Thiện
Quả tại Tổ đình Chúc Thánh. Ngài được bổn sư ban
cho pháp danh Như Huệ, tự Giải Trí, hiệu Trí
Thông, nối pháp đời 41 dòng Lâm Tế Chúc Thánh.
Năm 1951, Ngài cùng các Hòa thượng Chơn Phát,
Như Vạn, Chơn Điền v.v… vào học tại Học đường Ấn
Quang. Năm 1960, Ngài cùng với Hòa thượng Như
Vạn được Tổng Hội Phật giáo Trung Phần bổ nhiệm
làm giảng sư tỉnh Quảng Nam. Trong mùa pháp nạn
1963, Ngài tích cực dấn thân tranh đấu vì sự
trường tồn của Đạo pháp. Năm 1964, Ngài được
Viện Hóa Đạo bổ nhiệm làm giảng sư chính thức
tỉnh hội Quảng Nam. Những năm 1970, Ngài đảm
nhận chức vụ trụ trì chùa Pháp Bảo (trụ sở tỉnh
hội Phật giáo Quảng Nam bấy giờ) và làm Giám đốc
trường bồ đề Quảng Nam. Năm 1982, Ngài sang
hoằng pháp và khai sơn chùa Pháp Hoa - Nam Úc.
Hiện nay Hòa thượng là Hội Chủ Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất Úc Đại Lợi và Tân Tây
Lan.
Hiện nay,
Quảng Nam Tứ Trụ còn lại hai vị, nhưng những gì
quý Ngài đã làm vẫn còn lưu lại trong tâm khảm
của người con Phật xứ Quảng.
2.4.
NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA THIỀN PHÁI CHÚC THÁNH:
2.4.1.
Đối Với Đạo Pháp:
Kể từ khi
Tổ Minh Hải khai sơn Tổ đình Chúc Thánh tính đến
nay đã trải qua 300 năm truyền thừa lịch sử.
Trong suốt khoảng thời gian ấy, Tăng đồ dòng
Chúc Thánh không ngừng vận dụng đem hết mọi khả
năng của mình để hoằng dương Phật pháp. Từ một
vùng đất mà sự sinh hoạt Phật giáo chưa được ổn
định, các Ngài đã đào tạo những thế hệ kế tục
xứng đáng làm cho Phật giáo Quảng Nam khởi sắc,
ổn định và phát triển song hành cùng với Phật
giáo các tỉnh trong nước. Địa hình Quảng Nam từ
vùng núi non hiểm trở xa xôi như Hòn Kẽm - Đá
Dừng đến miền biển Duy Hải cát trắng đều có dấu
chân hoằng pháp của các Ngài. Phần lớn, người
dân Quảng Nam đều là tín đồ của Phật giáo. Phật
giáo Quảng Nam dưới sự lãnh đạo và hướng dẫn của
chư Tăng dòng Chúc Thánh đã góp vào lịch sử
truyền bá Phật giáo trên đất Việt những trang
vàng son rực rỡ.
2.4.2.
Đối Với Dân Tộc:
Với tôn
chỉ “Hộ quốc an dân” Tăng nhân Chúc
Thánh đóng góp rất lớn cho Dân tộc qua mọi triều
đại cũng như các chế độ. Trong giai đoạn Đàng
Ngoài-Đàng Trong, trong khi các Thiền sư dòng
Tào Động đóng vai trò cố vấn chính trị cho chúa
Nguyễn thì các Thiền sư dòng Chúc Thánh đã tạo
được sự đoàn kết trong mọi tầng lớp dân chúng,
góp phần ổn định nhân tâm nên các chúa Nguyễn
rất mến mộ. Trong giai đoạn Pháp thuộc, các Ngài
cũng đã dấn thân tham gia phong trào Duy Tân,
che chở cho các nhà chí sĩ cách mạng nhằm giành
lại nền tự chủ của nước nhà. Đến thời cận đại,
các Hòa thượng cũng đã tham gia tích cực vào các
phong trào đấu tranh đòi độc lập, hòa giải Dân
tộc để mưu cầu hòa bình cho đất nước.
2.4.3.
Đối Với Văn Hóa:
Về văn
hóa vật thể: Sự phát triển của môn phái Chúc
Thánh tại Quảng Nam đã đưa đến số lượng các chùa
ngày một phát triển. Từ Chúc Thánh, các chùa như
Phước Lâm, Cổ Lâm, Linh Ứng, Long Tuyền v.v… lần
lượt ra đời và trở thành những ngôi chùa Tổ.
Kiến trúc các ngôi chùa Tổ đã phần nào nói lên
được nét văn hóa riêng biệt của người dân xứ
Quảng. Các pho tượng cổ, các quả chuông xưa,
những bản gỗ khắc kinh văn v.v… là những di tích
minh chứng cho tâm đạo và sự tài hoa của các
nghệ nhân làng mộc Kim Bồng, làng đúc Phước Kiều
xưa. Các hoành phi liễn đối tại các chùa là một
kho tàng triết lý vô tận, thể hiện sự thâm sâu
giáo lý Phật Đà của các Thiền sư. Chính quần thể
kiến trúc các chùa xưa cũng là một trong những
yếu tố quan trọng để Tổ chức UNESSCO công nhận
Hội An là di sản văn hóa thế giới, thu hút nhiều
khách nước ngoài đến tham quan chiêm ngưỡng.
Về mặt
văn hóa phi vật thể: Sự giáo hóa của tăng đồ
dòng Chúc Thánh đóng vai trò rất lớn trong đời
sống tinh thần tại đất Quảng. Đạo đức Phật giáo
được thể hiện qua đời sống của chư Tăng ảnh
hưởng đến sinh hoạt tín ngưỡng cũng như tâm tư
tình cảm của người dân nơi đây rất nhiều. Cụ thể
tại Hội An, trung tâm của dòng Chúc Thánh, vào
mỗi đêm 14 và 30 hàng tháng, nhà nào cũng đặt
bàn hương án cúng vọng ngoài trời. Vào những
ngày rằm và mồng một, hơn 90% dân chúng ăn chay
theo tinh thần Phật giáo. Rải rác tại các huyện
thị phụ cận, trong các điệu ai đưa linh, chúng
ta nghe ông Công khấn nguyện Đức Phật A Di Đà
phóng quang tiếp độ vong giả. Như vậy, tín
ngưỡng A Di Đà và tư tưởng vãng sanh Tịnh Độ ảnh
hưởng rất lớn trong cộng đồng dân chúng.
Tóm lại,
từ đầu thế kỷ XVIII đến những năm cuối thế kỷ
XX, môn phái Chúc Thánh phát triển mạnh và đóng
góp tích cực vào sự truyền bá Phật pháp tại
Quảng Nam. Từ đây, tăng đồ Chúc Thánh đã vân du
đến các tỉnh thành hoằng hóa. Vì thế, dòng Chúc
Thánh có sự truyền thừa và ảnh hưởng rất lớn đối
vơí sinh hoạt của Phật giáo các tỉnh miền Trung
và Nam Việt Nam cũng như lan rộng đến các nước
trên thế giới.
Chương 3
SỰ TRUYỀN THỪA VÀ
PHÁT TRIỂN CỦA
THIỀN PHÁI CHÚC
THÁNH TẠI
CÁC TỈNH MIỀN
TRUNG VÀ NAM VIỆT NAM
Kể từ khi
Tổ Minh Hải khai dòng pháp thủy tại Tổ đình Chúc
Thánh-Hội An, các Tăng đồ thuộc hàng đệ tử và
pháp tôn của Ngài đã đem ý chỉ của Tổ truyền bá
khắp nơi. Bên cạnh sự hình thành và phát triển
tại Quảng Nam, Thiền phái Chúc Thánh nhanh chóng
lan rộng phát triển khắp các tỉnh thành từ Huế
vào đến Sài Gòn và lan ra tận hải ngoại vào
những thập niên 80 của thế kỷ XX. Từ đó, các
Tăng sĩ của dòng Chúc Thánh đã góp phần quan
trọng trong sứ mệnh truyền pháp khắp mọi nơi
trong và ngoài nước.
3.1 Tỉnh
Thừa Thiên - Huế.
Thừa
Thiên-Huế tức Thuận Hóa xưa, là kinh đô của các
chúa và vua triều Nguyễn trong vòng 4 thế kỷ.
Nhắc đến Huế, người ta liên tưởng đến sự cổ kính
của cố đô, đồng thời cũng là chiếc nôi của Phật
giáo Việt Nam từ trước đến nay. Là kinh đô của
một vương triều sùng mộ đạo Phật, Huế đã vinh dự
đón nhận bước chân của các bậc cao Tăng đến
giảng pháp.
Sự kiện
đầu tiên ghi nhận các Thiền sư dòng Chúc Thánh
có mặt tại Thuận Hóa là tham dự trai đàn tại
chùa Linh Mụ vào năm Minh Mạng thứ 2, tức năm
Canh Thìn (1820). Chư tăng tại Quảng Nam ra kinh
đô dự đại trai đàn là Hòa thượng chùa Phước Lâm
và tăng chúng 20 vị [6, 30]. Vị Hòa thượng ấy là
Ngài Minh Giác, một vị cao tăng thuộc thế hệ thứ
3 của dòng Chúc Thánh.
Đến năm
Kỷ Sửu (1889), Thiền sư Chơn Kim-Pháp Lâm thuộc
đời 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh từ chùa Châu
Lâm-Phú Yên ra kinh đô hoằng hóa tại chùa Viên
Thông. Chùa Viên Thông do Tổ Liễu Quán khai sơn,
truyền đến đời Ngài Tánh Trạm thì không có người
kế thừa nên Thiền sư Chơn Kim đảm nhận chức ỉ
trụ trì. Từ đây, Thiền phái Chúc Thánh có mặt và
phát triển tại Huế. Tuy nhiên, sự phát triển rất
khiêm tốn trong sự truyền thừa của chùa Viên
Thông. Các Thiền sư tiêu biểu truyền thừa tại
đây có Ngài Hoằng Nguyện và Ngài Diệu Khai.
- Hòa
thượng Hoằng Nguyện: Ngài người làng Bao La,
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên, có pháp danh
Như Thừa. Ngài kế thừa bổn sư Chơn Kim trụ trì
chùa Viên Thông. Ngài có công khai khẩn đất chùa
thêm 3 mẫu và cả đời thực hành theo chủ trương
“bất tác bất thực” của Tổ Bách Trượng. Vào năm
Giáp Tý (1924), Ngài định thiêu thân cúng dường
vào ngày Phật Đản mồng 8 tháng 4 nhưng bị Ngài
Viên Thành ở Trà Am và Ngài Giác Viên ở Hồng Khê
phản đối. Vì thế, Ngài tịch cốc từ mồng mồng 8
tháng 4 đến 15 tháng 5 thì tịch. Đệ tử của Ngài
là Thị Bình-Diệu Khai kế thừa trụ trì chùa Viên
Thông.
- Hòa
thượng Diệu Khai: Ngài pháp danh Thị Bình, sinh
ngày 30 tháng 3 năm Mậu Thân (1908) tại làng Nam
Phổ Trung, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Ngài
xuất gia năm lên 7 tuổi tại chùa Viên Thông và
kế vị trụ trì chùa vào năm 1924. Ngài theo học
kinh luật với Ngài Viên Thành ở Trà Am và học
nghi lễ với Tổ Phước Huệ tại Thập Tháp. Ngài có
công trùng tu chùa Viên Thông khang trang cho
đến ngày hôm nay. Đệ tử nối pháp của Ngài có các
Hòa thượng Đồng Chơn-Thông Niệm (khai sơn chùa
Bát Nhã-Đà Nẵng), Hòa thượng Đồng Quả-Thiện
Phước (thủ chúng chùa Linh Sơn-Đà Lạt). Hiện
tại, trụ trì chùa Viên Thông là Hòa thượng Đồng
Huy, hiệu Quảng Tú đời 43 Lâm Tế Chúc Thánh.
Vào những
năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Thiền sư Ấn
Bổn-Vĩnh Gia thường được triều đình thỉnh ra
kinh đô thuyết giảng. Đạo hạnh và sự uyên thâm
Phật pháp của Ngài đã được cộng đồng tăng lữ đất
thần kinh kính ngưỡng và theo thọ pháp. Đặc biệt
nhất là giới đàn năm Canh Tuất (1910), số giới
tử tại Thừa Thiên-Huế vào Phước Lâm thọ giới với
Ngài đều đắc pháp, về sau trở thành những bậc
đống lương của Phật giáo Việt Nam thời cận đại.
Ngoài Hòa thượng Thích Tịnh Khiết và Thích Giác
Nhiên, chúng ta còn biết được một số vị cao Tăng
ở Huế thọ pháp với Ngài Vĩnh Gia như: Hòa thượng
Giác Viên (khai sơn chùa Hồng Khê); Hòa thượng
Chơn Thiệt (chùa Từ Hiếu); Hòa thượng Giác
Nguyên (trụ trì chùa Tây Thiên), Hòa thượng Tịnh
Hạnh (trụ trì chùa Tường Vân), Hòa thượng Giác
Tiên (khai sơn chùa Trúc Lâm) v.v…Các vị này
toàn là những bậc long tượng trong nhà Thiền,
khiến cho Phật giáo xứ Huế hưng thịnh. Đến năm
Mậu Thìn (1928), Hòa thượng Chơn Pháp-Phước Trí
khai giới đàn tại chùa Từ Vân -Đà Nẵng, tại Huế
có một số giới tử vào cầu pháp, trong đó có Hòa
thượng Thích Trí Thủ, một vị cao Tăng thời cận
đại, đóng góp rất nhiều công đức cho ngôi nhà
Phật giáo Việt Nam.
Tóm lại,
sự phát triển của dòng Chúc Thánh tại Thừa
Thiên-Huế rất là khiêm tốn, chỉ vỏn vẹn một ngôi
chùa Viên Thông. Nhưng xét về mối tương giao
thì các vị cao Tăng ở Huế thời cận đại đều vào
thọ giáo và đắc pháp với các Thiền sư dòng Chúc
Thánh tại Quảng Nam. Các Hòa thượng Vĩnh Gia,
Phước Trí bằng đạo lực của mình đã tác thành
giới thể cho các giới tử, mà về sau trở thành
các bậc cao Tăng không những cho xứ Huế mà ảnh
hưởng rất lớn đến sự thịnh suy của Phật giáo
Việt Nam.
3.2 Tỉnh
Quảng Ngãi.
Quảng
Ngãi là tỉnh tiếp giáp với Quảng Nam nên sớm đón
nhận những Thiền sư của dòng Lâm Tế Chúc Thánh
đến hoằng hóa. Hai vị đệ tử Tổ Minh Hải đến
Quảng Ngãi đầu tiên là Ngài Thiệt Úy-Chánh
Thành-Khánh Vân khai sơn chùa Liên Tôn và Ngài
Thiệt Uyên-Chánh Thông-Chí Bảo khai sơn chùa Bảo
Lâm. Sau đó, Ngài Khánh Vân lên kế thế trụ trì
chùa Thiên Ấn khi Tổ khai sơn là Ngài Phật
Bảo-Pháp Hóa viên tịch. Từ đó, Thiên Ấn truyền
thừa theo bài kệ của Tổ Minh Hải và trở thành Tổ
đình của môn phái Chúc Thánh tại Quảng Ngãi.
Các hàng
đệ tử, pháp tôn của các Ngài lần lượt khai sơn
các chùa như: Ngài Ấn Tham-Hoằng Phúc (đời 39)
khai sơn chùa Quang Lộc; Ngài Ấn Kim-Hoằng Tịnh
(đời 39) khai sơn chùa Phước Quang; Ngài Ấn
Lãnh-Hoằng Thạc (đời 39) khai sơn chùa Thạch
Sơn; Ngài Hoằng Thanh (đời 39) khai sơn chùa
Cảnh Tiên; Ngài Chơn Sử-Khánh Tín (đời 40) khai
sơn chùa Thọ Sơn; Ngài Chơn Trung-Diệu Quang
(đời 40) khai sơn trùng kiến các chùa như Bảo
Lâm, Viên Giác, Khánh Vân, Kim Tiên … Ngài Chơn
Miên-Trí Hưng (đời 40) khai sơn chùa Từ Lâm,
Ngài Như Bình-Giải An (đời 41) khai sơn chùa Từ
Quang v.v… Tất cả đã tạo nên một hệ thống các
chùa huộc môn phái Chúc Thánh có sự sinh hoạt
rất chặt chẽ.
Dòng Lâm
Tế Chúc Thánh có những vị cao Tăng góp phần rất
lớn trong sự nghiệp hoằng dương Phật pháp tại
Quảng Ngãi, tiêu biểu là các vị Tổ sư tại Thiên
Ấn như sau:
- Đệ nhị
Tổ Thiền sư Khánh Vân: Ngài họ Huỳnh, quê làng
Mộ Đức, xuất gia với Tổ Minh Hải, pháp danh
Thiệt Úy, tự Chánh Thành, hiệu Khánh Vân. Sau
khi khai sơn chùa Liên Tôn tại quê nhà, Ngài
được thỉnh kế thế Ngài Phật Bảo-Pháp Hóa trụ trì
chùa Thiên Ấn. Từ đây, chùa Thiên Ấn bắt đầu
truyền thừa theo dòng kệ của Tổ Minh Hải. Sau
hơn 30 năm hoằng dương Phật pháp tại Thiên Ấn,
Ngài thị tịch vào ngày mồng 1 tháng 10 năm Quý
Tỵ (1773).
- Đệ tam
Tổ Thiền sư Bảo Ấn: Ngài họ Trịnh, quê làng
Tráng Liệt, quận Tư Nghĩa, húy Toàn Chiếu, tự
Trí Minh, hiệu Bảo Ấn, thuộc đời 37 Lâm Tế Chúc
Thánh. Ngài đem hết tâm huyết của mình để trùng
tu Tổ nghiệp nên thời Ngài tăng chúng tu hành
tại Thiên Ấn rất đông. Ngài noi gương Tổ Bách
Trượng thành lập nông Thiền với chủ trương “Nhất
nhật bất tác, nhất nhật bất thực”. Trong đời
Ngài có một truyền thuyết rất là thần kỳ: đó là
quả chuông thần . Số là trong một đêm Hòa thượng
đang tĩnh tọa tham Thiền, có vị hộ pháp đến thưa
Ngài cho người đến làng Chú Tượng, quận Mộ Đức
thỉnh đại hồng chung. (Nguyên là làng Chú Tượng
có đúc một quả đại hồng chung nhưng đánh không
kêu). Sáng ra, Hòa thượng cho thầy Điển tọa đến
thỉnh thì hương chức trong làng không đồng ý,
phải đến lần thứ hai thì họ mới chấp nhận. Sau
khi quả hồng chung về đến chùa, Ngài khấn nguyện
tạ Phật và Tổ chức lễ khai chuông. Kỳ lạ thay,
khi Ngài cầm dùi đánh thì tiếng chuông ngân vang
khắp mọi nơi. Sự kiện này xảy ra vào ngày mồng
10 tháng 4 năm Ất Tỵ (1845), Ngài viên tịch vào
ngày 30 tháng 6 năm Bính Dần (1866) sau 40 năm
gắn liền với chùa Thiên Ấn.
- Đệ tứ
Tổ Thiền sư Giác Tánh: Sau khi Tổ Toàn Chiếu-Bảo
Ấn viên tịch, đệ tử là Ngài Chương Khước, tự
Tuyên Tôn, hiệu Giác Tánh kế nghiệp trụ trì
Thiên Ấn. Ngài noi theo chí nguyện của Bổn sư
tiếp tục mở rộng nông Thiền và tiếp tăng độ
chúng. Môn hạ của Ngài có nhiều vị thành danh
như các vị Hoằng Phúc, Hoằng Thanh, Hoằng Tịnh,
Hoằng Thạc v.v… Đạo phong của Ngài đã khiến vị
thần cây đến xin quy y và Ngài đã cho pháp danh
là “Lãnh sơn Mộc cộng chi thần, pháp danh Ấn
Chứng”. Ngài viên tịch vào ngày mồng 1 tháng 3
năm Tân Hợi (1911) với hơn 50 năm hoằng pháp tại
Thiên Ấn.
- Đệ ngũ
Tổ Thiền sư Hoằng Phúc: Sau khi Tứ Tổ viên tịch,
Ngài Hoằng Phúc, trụ trì chùa Quang Lộc được sơn
môn cung thỉnh kế nghiệp trụ trì Thiên Ấn. Ngài
họ Phạm, người làng Phước Long-Tư Nghĩa, húy Ấn
Tham, tự Tổ Văn, hiệu Hoằng Phúc, là đệ tử của
Tổ Giác Tánh. Ngài có tâm nguyện sùng hưng chốn
Tổ, nhưng Ngài chỉ mới trùng tu được cổng tam
quan thì viên tịch ngày 19 tháng chạp năm Giáp
Dần (1914), sau 4 năm trụ trì Thiên Ấn.
- Đệ lục
Tổ Thiền sư Diệu Quang: Sau khi Ngũ Tổ viên
tịch, Thiên Ấn rơi vào tình trạng không có trụ
trì. Mãi đến năm Tân Dậu (1921), sơn môn thỉnh
Ngài Diệu Quang về trụ trì. Ngài họ Trần, người
làng Sung Tích-Sơn Tịnh, là đệ tử của Tổ Hoằng
Phúc có pháp danh Chơn Trung, tự Đạo Chí, hiệu
Diệu Quang, thuộc đời 40 Lâm Tế Chúc Thánh. Ngài
có công làm con đường trôn ốc từ chân núi lên
đến chùa. Đạo phong và uy tín của Ngài vang dội,
được triều đình sắc phong Tăng cang vào năm Bảo
Đại thứ 3. Ngài có công sáng lập và trùng tu
nhiều chùa trong tỉnh cũng như đào tạo các thế
hệ tăng sĩ kế thừa. Ngài thị tịch vào ngày 13
tháng 2 năm Nhâm Thìn (1952). [2, 17-30]
Tóm lại,
kể từ khi có mặt trên đất Quảng Ngãi, các Thiền
sư dòng Lâm Tế Chúc Thánh luôn đem hết khả năng
của mình để xiển dương Đạo pháp và phục vụ Dân
tộc. Sự đóng góp ấy luôn được Tăng Ni Phật tử
các thế hệ sau trân trọng ghi nhận và giữ gìn
phát triển. Ngày nay, tại Quảng Ngãi phần lớn
các chùa đều truyền thừa theo bài kệ của dòng
Lâm Tế Chúc Thánh.
3.3 Tỉnh
Bình Định.
Bình
Định, mảnh đất giữa miền Trung nước Việt, nơi
đây đã vinh dự đón nhận những bước chân đầu tiên
của vị Tổ sư dòng Lâm Tế đến Đàng Trong hoằng
hóa: đó là Nguyên Thiều-Thọ Tôn Hòa thượng. Từ
đây, Phật giáo Bình Định khởi sắc bởi tư tưởng
phóng khoáng của tông Lâm Tế. Từ cội nguồn đó,
dòng Lâm Tế tại Bình Định truyền thừa theo ba
bài kệ: Lâm Tế Nguyên Thiều, Lâm Tế Chúc Thánh,
Lâm Tế Liễu Quán. Cả ba phái này hòa quyện và bổ
túc cho nhau tạo nên một sự ổn định của Phật
giáo tỉnh Bình Định từ xưa đến nay.
Các vị
Thiền sư đầu tiên của pháp phái Lâm Tế Chúc
Thánh đến đất Bình Định là Ngài Thiệt
Thuận-Chánh Mạng-Huệ Trường khai sơn chùa Linh
Sơn-Phù Cát; Ngài Thiệt Đăng-Chánh Trí-Bửu Quang
khai sơn chùa Sơn Long-Quy Nhơn. Cả hai vị đều
là đệ tử của Tổ sư Minh Hải, thuộc đời 35 dòng
Lâm Tế Chúc Thánh. Tiếp đến, Ngài Pháp Tịnh-Viên
Quang, đời 36 Lâm Tế Chúc Thánh (đệ tử Tổ Thiệt
Dinh ở Phước Lâm-Hội An) vào khai sơn chùa Thiên
Hòa. Đời 37 có các Ngài Toàn Ý-Phổ Huệ khai sơn
Chùa Phổ Bảo; Toàn Tín-Đức Thành khai sơn chùa
Khánh Lâm (cả hai vị là đệ tử Tổ Pháp Liêm tại
Phước Lâm-Hội An); Ngài Toàn Thể-Linh Nguyên
khai sơn chùa Long Tường (đệ tử Tổ Pháp Chuyên-
Diệu Nghiêm chùa Từ Quang-Phú Yên). Đời 38, các
vị đệ tử Tổ Toàn Ý ra khai sơn các chùa như:
Ngài Chương Lý-Hoằng Hóa khai sơn chùa Diệu
Phong; Chương Hiệp-Chánh Trì khai sơn chùa Huỳnh
Long; Chương Thiện-Hoằng Đạo khai sơn chùa Phổ
Quang; Chương Hải-Thanh Nguyên khai sơn chùa
Thiên Trúc; Chương Trí-Quảng Giác khai sơn Chùa
Hưng Khánh v.v.. Từ đó tạo nên một hệ thống các
chùa thuộc dòng Chúc Thánh có sự liên hệ sinh
hoạt chặt chẽ.
Trong sự
truyền thừa của dòng Chúc Thánh tại Bình Định,
có những Thiền sư tiêu biểu như sau:
- Thiền
sư Liễu Tạng (1784-1866): Ngài sanh năm Giáp
Thìn (1784), xuất gia với Tổ Toàn Tín-Đức Thành
tại chùa Khánh Lâm có pháp danh Chương Nghĩa,
hiệu Liễu Tạng, thuộc đời 38 Thiền phái Lâm Tế
Chúc Thánh. Ngài là bậc danh tăng đa văn quảng
bác đã soạn cuốn “Thiền Môn Chánh Độ” để
làm nghi lễ tế Tăng cang Tổ Ấn-Mật Hoằng thị
tịch vào ngày mồng 10 tháng 10 năm Ất Tỵ (1825).
Đây là cuốn khoa nghi đầu tiên được soạn để cung
tiến Giác linh khi các Thiền sư viên tịch nên có
tầm quan trọng đối với giới Tăng lữ tại kinh đô
cũng như các tỉnh thành. Với đạo cao đức trọng
và sự uyên thâm giáo điển, Ngài được mời ra Phú
Xuân giảng dạy, hoằng pháp. Ngài thị tịch mồng 4
tháng 4 năm Bính Dần (1866), thọ 83 tuổi. Nhục
thân được lưu giữ tại chùa Quốc Ân-Huế.
- Hòa
thượng Trí Hải (1876-1950): Ngài thế danh Nguyễn
Trọng Khải, hiệu Mai Đình sinh ngày 16 tháng 3
năm Bính Tý (1876) tại làng Háo Đức, phủ An
Nhơn-Bình Định. Thuở nhỏ, Ngài theo Nho học, thi
đậu tú tài năm 31 tuổi. Năm 1919, 43 tuổi, Ngài
xuất gia với Tổ Ấn Lãnh-Hoằng Thạc tại chùa
Thạch Sơn-Quảng Ngãi, có pháp danh Chơn Giám, tự
Đạo Quang, hiệu Trí Hải, thuộc đời 40 dòng Lâm
Tế Chúc Thánh. Vốn có kiến thức Nho học cộng với
sự thông minh mẫn duệ nên Ngài sớm thâm nhập
diệu lý của Phật đà. Năm 1931, Ngài được Hòa
thượng Khánh Hòa mời làm chủ bút tạp chí Từ Bi
Âm của Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học. Năm
1934, Ngài khai sơn chùa Bích Liên tại quê nhà.
Từ đó mọi người kính ngưỡng đều gọi Ngài là
Hòa thượng Bích Liên. Năm 1937, Hội
Đà Thành Phật Học tại Quảng Nam Đà Nẵng mời Ngài
làm chủ bút tạp chí Tam Bảo. Sau đó, Ngài về
chùa nghiên cứu giảng dạy và đã đào tạo nhiều vị
Tăng tài cho Phật giáo Việt Nam. Ngài viên tịch
vào ngày 3 tháng 6 năm Canh Dần (1950) thọ 75
tuổi. Hòa thượng trước tác rất nhiều, đặc biệt
hai bản văn “Quy Sơn Cảnh Sách” và
“Mông Sơn Thí Thực Khoa Nghi” bằng chữ Nôm
đã thể hiện được sự tài hoa của Ngài. [3,
213-217]
- Hòa
Thượng Trí Độ (1894-1979): Ngài thế danh Lê Kim
Ba (Lê Đinh Ba), sinh ngày 15 tháng 12 năm 1894
tại Phổ Trạch, Tuy Phước-Bình Định. Thuở thiếu
thời, Ngài chuyên học Nho và nghiên cứu Phật
học. Năm 1935, Ngài được mời làm đốc giáo và
giảng dạy tại trường An Nam Phật Học tại chùa
Báo Quốc-Huế. Năm 1940, Ngài xuất gia với Tổ
Chơn Giám-Trí Hải nên được ban pháp danh là Như
Đăng, hiệu Trí Độ, thuộc đời 41 dòng Chúc Thánh.
Sau đó, Ngài vào tham học với Hòa thượng Phước
Huệ tại Thập Tháp. Năm 1941, Ngài thọ đại giới
tại chùa Quốc Ân-Huế. Năm 1945, Ngài tham gia
Phật giáo cứu quốc và năm 1946, Ngài được mời ra
giảng dạy tại chùa Quán Sứ-Hà Nội. Từ đó, cuộc
đời của Ngài gắn liền với những Phật sự tại miền
Bắc cho đến ngày viên tịch mồng 4 tháng 1 năm Kỷ
Mùi (1979) thọ 86 tuổi. Ngài đã để lại nhiều
trước tác và dịch phẩm rất có giá trị về Phật
học. [3, 571-578]
Hiện tại,
dòng Lâm Tế Chúc Thánh tại Bình Định còn nhiều
cây đại thọ chấn sơn môn, là nơi nương tựa của
đàn hậu học như:
Hòa thượng Như An-Huyền Quang;
Hoà thượng Thị Huệ-Bảo An,
Hoà thượng Thị
Quảng-Đổng Quán v.v….
3.4 Các
tỉnh Phú Yên - Khánh Hòa - Ninh Thuận - Bình
Thuận.
Phú Yên
từ xưa đến nay vẫn được giới Phật giáo ca ngợi
là chốn Tổ. Bởi lẽ, các bậc Tổ sư danh đức phần
lớn xuất thân từ đất Phú Yên như Tổ Liễu Quán,
Tổ Giác Ngộ, Tổ Toàn Nhật, Tổ Pháp Tạng v.v… Tại
Phú Yên, sự truyền thừa chủ yếu là dòng Lâm Tế
Liễu Quán và Lâm Tế Chúc Thánh.
Người đầu
tiên của dòng Chúc Thánh đến Phú Yên là Thiền sư
Pháp Chuyên-Diệu Nghiêm, đời 36 Lâm Tế Chúc
Thánh. Sau một thời gian hoằng hóa, Ngài khai
sơn chùa Từ Quang-Đá Trắng vào năm Đinh Tỵ
(1797). Từ đó, chùa Từ Quang trở thành Tổ đình
của dòng Lâm Tế Chúc Thánh tại Phú Yên. Nơi đây
là trung tâm đào tạo Tăng tài của các tỉnh miền
Trung vào các thế kỷ XVIII, XIX và đầu thế kỷ
XX.
Từ Tổ
đình Từ Quang, các đệ tử của Ngài Pháp Chuyên
khai sơn các chùa trong tỉnh như sau: Ngài Toàn
Đức-Thiệu Long khai sơn chùa Khánh Sơn; Ngài
Toàn Nghĩa-Chơn Thường khai sơn chùa Thượng Tiên
Thọ Vân; Ngài Toàn Nhật-Quang Đài khai sơn chùa
Viên Quang; Ngài Liễu Năng-Đức Chất khai sơn
chùa Phước Sơn; Ngài Liễu Diệu-Chánh Quang khai
sơn chùa Triều Tôn v.v..Từ đó, dòng Chúc Thánh
hưng thịnh tại Phú Yên và liên tục phát triển
vào các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận.
Tại Phú
Yên, dòng Chúc Thánh có những vị Thiền sư nổi
tiếng như :
- Thiền
sư Diệu Nghiêm (1738-1810): Ngài họ Trần, sinh
ngày 2 tháng 4 năm Mậu Ngọ (1738) tại làng Cổ
Tháp, phủ Thăng Hoa, nay là xã Duy Châu-Duy
Xuyên-Quảng Nam. Ngài vốn thông minh đỉnh tuệ,
thi đậu tú tài khi 18 tuổi và ra làm quan dưới
triều chúa Nguyễn Phúc Khoát. Sau khi xem tuồng
“Tam Trinh Cố Sự” và “Long Hổ Sự Duyên”, Ngài
ngộ lẽ vô thường ảo hóa của kiếp người nên quyết
chí xuất gia. Ngài đến chùa Phước Lâm-Hội An lạy
Tổ Ân Triêm làm thầy và được Tổ cho pháp danh
Pháp Chuyên, tự Luật Truyền, hiệu Diệu Nghiêm,
nối pháp đời 36 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Từ đó,
Ngài tinh cần học đạo, nổ lực hành trì tu tập.
Về sau, Ngài đến chùa Thập Tháp-Quy Nhơn theo
học với Ngài Liễu Triệt, đồng thời đọc hết bộ
Đại Tạng do Tổng trấn Hà Tiên Mạc Cửu hiến cúng.
Vào một đêm, sau khi đọc kinh Hoa Nghiêm, Ngài
thấy lòng tỏ ngộ nên phát nguyện: “Phàm gặp
người bất luận nam nữ, già trẻ, sang hèn thảy
đều giáo hóa quy kính Tam Bảo, niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ”. Từ đó, Ngài giáo hóa khắp các
vùng từ Quảng Nam vào đến Phú Yên. Mãi đến năm
Đinh Tỵ (1797), Ngài mới khai sơn chùa Từ Quang.
Thiền sư Pháp Chuyên là người đa văn quảng bác,
Ngài trước tác rất nhiều kinh luận, đặc biệt
nhất là bộ Tam Bảo Hoặc Luận. Ngài viên tịch vào
ngày 17 tháng 6 năm Canh Ngọ (1810) thọ 73 tuổi.
[4, 93-97]
- Thiền
sư Toàn Nhật: Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa
biết rõ quê quán, năm sinh, năm mất cũng như tên
thật của Thiền sư Toàn Nhật. Theo tác phẩm “Tam
giáo nguyên lưu ký”, Thiền sư nói rằng:
“Ta xưa cũng dự
Nho gia
Mười hai tuổi học
đến ba mươi rày…
..Sau ta đầu học
phép Thiền
Thuở ba mươi tuổi
vậy liền xuất gia.”
Như vậy,
ban đầu Ngài học Nho nhưng nhận thấy Nho gia
không giải quyết được nổi đau sanh tử nên quy y
đầu Phật. Năm 30 tuổi, Ngài xuất gia với Tổ Pháp
Chuyên tại chùa Từ Quang nên có pháp danh Toàn
Nhật, tự Vi Minh, hiệu Quang Đài, thuộc đời 37
Lâm Tế Chúc Thánh. Được một vị minh sư như Ngài
Pháp Chuyên hướng dẫn, Ngài Toàn Nhật đã ngộ đạo
sau 12 năm tu hành, sau đó về trụ trì chùa Viên
Quang. Tại đây, Ngài đã biên soạn, san định,
giảo chính trên 20 tác phẩm kinh luận bằng chữ
Nôm. Ngài là một trong những vị để lại nhiều tác
phẩm bằng chữ Nôm nhất. [4, 148-149]
- Thiền
sư Pháp Tạng: Ngài là đệ tử của Thiền sư Ấn
Thiên-Huệ Nhãn, đệ tứ Tổ tại Tổ đình Phước
Sơn-Đồng Tròn nên có pháp danh là Chơn Chánh, tự
Đạo Tâm, hiệu Pháp Tạng, thuộc đời 40 Lâm Tế
Chúc Thánh. Ngài kế vị bổn sư trụ trì Phước Sơn
với tâm nguyện tiếp tăng độ chúng. Đạo hạnh của
Ngài đã được sơn môn Chúc Thánh thỉnh làm Yết Ma
cho giới đàn năm Quý Tỵ (1893) tại Tổ đình Chúc
Thánh-Hội An. Năm Giáp Ngọ (1894), Ngài được
triều đình mời ra kinh đô làm thủ gia trì chẩn
tế đại khoa tại chùa Kim Quang-Huế. Sau khi hạ
đàn, vua Thành Thái đến ôm hôn khen ngợi và ban
cho đồng kim tiền, một ca sa và một mũ quan âm.
Các năm 1906 và 1907, Ngài khai đàn giới tại
chùa Từ Quang và Phước Sơn để thí giới cho tăng
tục xa gần, độ người vô lượng. Đệ tử của Ngài có
các vị nổi danh như Thiền Phương, Thiền Cơ,
Thiền Tâm, Cơ Trụ v.v… [4, 75]. Đặc biệt là Ngài
Như Đắc-Thiền Phương có công đào tạo nhiều vị
cao tăng cho Phật giáo Việt Nam thời hiện đại
như các Ngài Thị Chí-Phước Hộ; Thị An-Phước
Bình; Thị Tín- Phước Trí; Thị Niệm-Phước Ninh
v.v..
Hiện nay,
dòng Chúc Thánh tại Phú Yên đã truyền xuống đến
chữ Đồng, chữ Chúc. Tuy nhiên, đã qua rồi thế hệ
các bậc long tượng nên sự sinh hoạt của môn
phái nơi đây rời rạc hơn so với các tỉnh thành
khác.
3.5 Tại
Sài Gòn - Gia Định và các tỉnh miền Nam.
Miền Nam,
mảnh đất cuối cùng ở phía Nam được sáp nhập vào
bản đồ Đại Việt. Đây là thành quả tất yếu của
cuộc trường kỳ Nam tiến trải dài gần 10 thế kỷ.
Tuy nhiên, số lượng người Việt di cư đến vùng
đất mới này nhiều nhất là vào thời các chúa
Nguyễn. Theo bước chân những người Nam tiến, các
Thiền sư dòng Chúc Thánh cũng đã có mặt đáp ứng
nhu cầu tu học của quần chúng Phật tử.
Xét về sự
truyền thừa và phát triển của dòng Chúc Thánh
tại miền Nam, ta có thể chia làm hai giai đoạn:
giai đoạn đầu từ thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ
XIX; giai đoạn kế từ đầu cho đến cuối thế kỷ XX.
a.Giai
đoạn đầu:
Những năm
cuối thế kỷ XVIII, chúng ta đã thấy sự có mặt
của các Thiền sư dòng Chúc Thánh tại miền Nam.
Đó là Thiền sư Gia Lành và Gia Linh, thuộc đời
37 Lâm Tế Chúc Thánh đến tỉnh Bình Dương khai
sơn chùa Thiên Tôn. Sau khi hai vị Thiền sư này
qua đời, đệ tử của Ngài Gia Linh là Ngài Chương
Phụng- Nhơn Lịch kế thừa trụ trì chùa. Cùng thời
gian này, Thiền sư Toàn Tánh-Chánh Đắc đời 37
Lâm Tế Chúc Thánh từ chùa Tập Phước-Gia Định về
trụ trì chùa Hội Khánh-Bình Dương năm 1839.
Như vậy,
đến cuối thế kỷ 18, tại miền Nam đã có 3 ngôi
chùa lớn truyền theo bài kệ của Tổ Minh Hải. Đó
là chùa Tập Phước tại Gia Định và chùa Thiên
Tôn, Hội Khánh tại Bình Dương. Cả hai ngôi chùa
Tập Phước và Thiên Tôn có công giúp đỡ vua Gia
Long trong giai đoạn bôn tẩu nên sau khi lên
ngôi, vua Gia Long ban sắc tứ để thưởng công.
Từ chùa
Thiên Tôn và Hội Khánh, các đệ tử đã ra khai sơn
các chùa Tây Tạng, Thiên Chơn, Phước Thạnh, Bình
Long v.v..nên hệ thống các chùa thuộc dòng Chúc
Thánh nhanh chóng phát triển tại tỉnh Bình
Dương. Trong sự truyền thừa tại đây, nổi tiếng
nhất là Hòa thượng Từ Văn và Hòa thượng Minh
Tịnh.
- Hòa
thượng Từ Văn (1877-1931): Ngài thế danh Nguyễn
Văn Tầm sinh năm Đinh Dậu (1877) tại làng Phú
Cường, Thủ Dầu Một. Ngài xuất gia năm lên 10
tuổi với Tổ Ấn Long-Thiện Quới tại chùa Hội
Khánh nên có pháp danh Chơn Thanh, hiệu Từ Văn,
thuộc đời 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Ngài là bậc
cao tăng của miền Nam nên được chính phủ Pháp
mời sang Marseille Tổ chức lễ kỳ siêu cho những
người Việt đi lính Pháp chết trận vào năm 1920.
Ngài có công đào tạo nhiều vị Tăng tài cho Phật
giáo miền Nam. Ngài viên tịch vào tháng 11 năm
1931, nhục thân được tôn thờ trong khuôn viên Tổ
đình Hội Khánh.[19, 25]
- Hòa
thượng Minh Tịnh (1889-1951): Ngài thế danh
Nguyễn Tấn Tạo, sinh năm 1889 tại làng An Thạnh,
quận Lái Thiêu, tỉnh Bình Dương. Năm 16 tuổi
xuất gia với Hòa thượng Ấn Thành-Từ Thiện tại
chùa Thiên Tôn với pháp danh Chơn Phổ-Nhẫn Tế,
thuộc đời 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Còn pháp
danh Minh Tịnh là do Ngài cầu pháp với Tổ Tuệ
Đăng tại chùa Thiên Thai-Vũng Tàu. Năm 1935,
Ngài một mình hành hương chiêm bái Ấn Độ và Tây
Tạng. Sau 2 năm chiêm bái, tu học mật giáo tại
Tây Tạng và Ấn Độ, Ngài trở về Việt Nam mang
theo Xá Lợi Phật về tôn thờ tại chùa Thiên Chơn.
Năm 1945, Ngài được cử làm Chủ tịch Hội Phật
Giáo Cứu Quốc Thủ Dầu Một. Ngài viên tịch vào
ngày 17 tháng 5 năm 1951, nhục thân được tôn thờ
tại chùa Thiên Chơn. Hòa thượng biên dịch để lại
hai tác phẩm rất có giá trị là Nhật Ký Tây Tạng
và Lăng Nghiêm Tông Thông. [19, 41]
b. Giai
đoạn 2:
Đầu những
năm thế kỷ XX, một số lượng lớn chư Tăng thuộc
các tỉnh miền Trung vào Nam hoằng pháp. Có lẽ
mảnh đất mới miền Nam trẻ trung có nhiều điều
kiện thuận lợi hơn cho việc tu học nên chư Tăng
vào Nam rất nhiều. Trong trào lưu đó, chư tăng
thuộc dòng Chúc Thánh tại các tỉnh Quảng Nam,
Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên vào miền Nam tu
học và chủ yếu là tại thành phố Sài Gòn. Từ đó,
các chùa của môn phái Chúc Thánh được thành lập
như sau:
Chư tăng
thuộc Quảng Nam ban đầu vào ngụ tại chùa Văn
Thánh (Quận Bình Thạnh) và Hưng Long (Quận 10),
về sau các chùa Bửu Đà (Quận 10), Pháp Hoa (Quận
Phú Nhuận), Giác Quang (Quận 4), Viên Thông
(Quận 11), Từ Minh (Quận 3), Bảo Tịnh (Quận Bình
Thạnh) v.v… lần lần được thành lập, tạo thành
một chi phái Chúc Thánh Quảng Nam tại Sài Gòn.
Chư tăng
thuộc Quảng Ngãi, tiêu biểu là Ngài Khánh Anh
vào trụ tại chùa Phước Hậu-Trà Vinh. Tại Sài
Gòn, có các chùa Thiền Lâm (Quận 6), Phổ Đà Sơn
(Quận 8), Đức Quang (Quận 4), Liên Hoa (Quận 4),
Tân Long (Quận 7), Vĩnh Đức (Quận 2) v.v.., tạo
thành chi phái Chúc Thánh Quảng Ngãi tại Sài
Gòn.
Chư tăng
thuộc tỉnh Bình Định vào lập chùa Giác Uyển
(Quận Phú Nhuận), Giác Hoa (Quận Bình Thạnh),
Phật Quang (Quận 10) v.v.
Chư tăng
thuộc tỉnh Phú Yên mà nổi tiếng nhất là Hòa
thượng Quảng Đức và Hòa thượng Hành Trụ vào lập
chùa Quan Thế Âm (Quận Phú Nhuận), Giác Nguyên,
Kim Liên (Quận 4), Đông Hưng, Thiền Tịnh, Từ
Phong (Quận 2) v.v…
Như vậy,
từ đầu cho đến giữa thế kỷ XX, số lượng chư Tăng
thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh tại các tỉnh miền
Trung vào tu học và hoằng pháp tại thành phố Sài
Gòn có số lượng khá đông. Hệ thống các chùa
truyền thừa theo bài kệ của Tổ Minh Hải ngày một
nhiều. Tuy nhiên, nổi bậc nhất là quý Hòa thượng
Khánh Anh, Hòa thượng Quảng Đức, Hòa thượng Hành
Trụ đóng góp rất nhiều công đức cho ngôi nhà
Phật giáo Việt Nam.
- Hòa
thượng Khánh Anh (1895-1961): Ngài thế danh Võ
Hóa, sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, Tổng
Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Năm 21
tuổi, Ngài xuất gia với Tổ Hoằng Thanh tại chùa
Cảnh Tiên và nhập chúng tu học với Hòa thượng
Hoằng Phúc tại chùa Quang Lộc nên có pháp danh
Chơn Húy, hiệu Khánh Anh, thuộc đời 40 dòng Lâm
Tế Chúc Thánh. Vốn tính sẵn thông minh nên Ngài
thông thuộc kinh, luật và trở thành giảng sư nổi
tiếng năm 30 tuổi. Năm 1927, Ngài được mời vào
Nam giảng pháp và lãnh đạo Hội Lưỡng Xuyên Phật
Học, giảng dạy cho Tăng Ni cũng như cộng tác cho
tạp chí Duy Tâm. Năm 1955, Ngài chứng minh cho
Hội Phật Học Nam Việt. Năm 1957, Ngài được suy
cử làm Thượng Thủ Giáo Hội Tăng Già Nam Việt.
Ngày 30 tháng Giêng năm Tân Sửu (1961), Ngài thị
tịch với 45 năm cống hiến hết mình cho đạo và
thọ 66 tuổi. Ngài trước tác rất nhiều kinh luận,
trong đó nổi tiếng nhất là bộ Khánh Anh Văn Sao
3 tập rất có giá trị. Ngài có công đào tạo nhiều
vị tăng tài cho Phật giáo Việt Nam như Hòa
thượng Thiện Hoa, Hòa thượng Hoàn Quan v.v..
Pháp tôn của Ngài là Hòa thượng Thanh Từ, người
có nhiều công đức trong việc khôi phục Thiền
tông Việt Nam trong thời hiện đại. [3, 303-307]
- Hòa
thượng Quảng Đức (1897-1963): Ngài thế danh Lâm
Văn Tuất, sinh năm Đinh Dậu (1897) tại thôn Hội
Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh
Hòa. Ngài xuất gia năm lên 7 tuổi với Hòa thượng
Hoằng Thâm nên có pháp danh Thị Thủy, tự Hành
Pháp, hiệu Quảng Đức thuộc đời 42 dòng Lâm Tế
Chúc Thánh. Ngài có tâm nguyện vân du hoằng
pháp, gặp nơi nào chùa tháp hư hoại thì Ngài
dừng lại trùng tu, kiến tạo rồi lại lên đường.
Đời Ngài đã trùng tu cả thảy 17 ngôi chùa và
chùa Quan Thế Âm tại quận Phú Nhuận là nơi dừng
chân cuối cùng của Ngài. Năm 1963, Phật giáo đồ
miền Nam và Trung bị sự đàn áp của chế độ gia
đình trị Ngô Đình Diệm. Trước sự đàn áp dã man
đó, Ngài phát nguyện tự thiêu vào ngày 20 tháng
4 năm Quý Mão (11/6/1963) để ngăn cản bạo quyền.
Sự hy sinh cao cả của Ngài đã cứu nguy cho Phật
giáo Việt nam thoát khỏi pháp nạn tàn khốc này.
Với tâm nguyện ấy, trái tim của Ngài không bị
thiêu hủy dưới sức nóng 4000 độ của lò thiêu.
Ngài được Tăng Ni Phật tử cả nước tôn xưng là
bậc Bồ tát hiện thế. [3, 335-342]
- Hòa
thượng Hành Trụ (1904-1984): Ngài thế danh Lê
An, sinh năm 1904 tại làng Phương Lưu, huyện
Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Ngài xuất gia với Tổ
Thiền Phương tại chùa Phước Sơn nên có pháp danh
Thị An, tự Hành Trụ, hiệu Phước Bình, thuộc đời
41 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Là người học Phật
uyên bác nên Ngài sớm làm giáo thọ tại các chùa
tỉnh Phú Yên. Ngài có công kiến tạo nhiều ngôi
chùa tại Sài Gòn và làm giáo thọ các trường Phật
học khắp miền Nam. Ngài nhiều lần được cung
thỉnh làm Hòa thượng đàn đầu truyền trao giới
pháp cho Tăng Ni. Trải qua các Giáo hội, Ngài
đều được cung thỉnh vào Hội đồng trưởng lão
chứng minh tiêu biểu cho giới luật. Ngài thị
tịch tại chùa Đông hưng vào ngày 29 tháng 10 năm
Giáp Tý (1984) thọ 81 tuổi. Ngài trước tác rất
nhiều kinh sách nhưng chủ yếu là luật học. [3,
710-714]
Như vậy,
tại Sài Gòn và các tỉnh miền Nam hiện tại dòng
Chúc Thánh được truyền bá rất rộng rãi. Chư Tăng
thuộc các tỉnh miền Trung vẫn trung thành với
bài kệ truyền pháp của Tổ. Hiện nay, các ngôi Tổ
đình xưa của dòng Chúc Thánh tại miền Nam như
Tập Phước, Hội Khánh không còn truyền theo kệ
của Tổ Minh Hải. Bởi lẽ, người miền Nam rất
phóng khoáng, không câu nệ chấp chặt hệ phái.
Điều này, cũng thật là đáng tiếc, vì nó làm mất
đi truyền thống bao đời của chư Tổ. Có một điểm
đặc biệt, khi truyền vào miền Nam trong giai
đoạn đầu, ta thấy các Thiền sư chỉ truyền pháp
danh chứ không có pháp tự. Ví dụ như Thiền sư
Toàn Tánh có hiệu là Chánh Đắc, chứ không có
pháp tự chữ Vi như các vị đồng hàng ở miền
Trung. Cũng vậy, các vị Chơn Thanh hiệu Từ Văn,
Chơn Phổ hiệu Nhẫn Tế cũng không có pháp tự chữ
Đạo theo như bài kệ truyền pháp tự của Tổ sư
Minh Hải.
3.6 Tại
hải ngoại:
Chuông vẳng nơi
nao nhớ lạ lùng
Ra đi ai chẳng
nhớ chùa chung
Mái chùa che chở
hồn Dân tộc
Nếp sống muôn đời
của Tổ tông.
Huyền
Không
Phật giáo
và Dân tộc đồng hành, đây là một quy luật bất di
bất dịch từ 2000 năm nay. Dân Việt đi đến đâu
thì Phật Việt theo đến đó. Theo để mà an ủi vỗ
về trong những lúc gian nan lận đận.
Vào những
thập niên 70-80 của thế kỷ XX, một số lượng lớn
người Việt ra nước ngoài định cư. Người Việt rời
Tổ quốc ra đi với hàng nghìn lý do, nhưng Phật
Việt ra hải ngoại chỉ một lý do duy nhất: hướng
đạo tinh thần cho người Việt xa xứ và truyền bá
giáo lý Phật Đà tại Tây phương. Tuy nhiên, cộng
đồng người Việt chỉ tập trung chính ở các nước
thuộc Châu Âu, Mỹ và Châu Úc.
Theo dòng
người định cư tại hải ngoại, con cháu của Tổ
Minh Hải cũng đã có mặt khắp các châu lục để đáp
ứng nhu cầu tín ngưỡng cũng như ấp ủ chở che cho
những người Việt lưu lạc.
Ở Châu
Âu, chùa Viên Giác tại Đức là đạo tràng lớn nhất
truyền thừa theo dòng Chúc Thánh. Thượng tọa
Thích Như Điển thuộc đời 41 dòng Lâm Tế Chúc
Thánh sau 6 năm du học tại Nhật đã sang Đức vào
năm 1978 để hoằng pháp. Sau 20 năm hành đạo,
Thượng tọa đã đào tạo được một đội ngũ Tăng trẻ
đủ khả năng gánh vác Phật sự tại các chi hội
Phật giáo Châu Âu và Thượng tọa đã thành lập một
hệ thống các chùa trực thuộc tông Lâm Tế Chúc
Thánh như Viên Ý (Italy), Vạn Hạnh (Đan Mạch),
Viên Âm, Tam Bảo (Đức), Niệm Phật đường Thảo
Đường (Nga), Trung tâm tu học Viên Giác tại Bồ
Đề Đạo Tràng - Ấn Độ.
Năm 1975,
Hòa thượng Như Kế-Huyền Vi đời 41 Lâm Tế Chúc
Thánh cũng đã đến Pháp lập chùa Linh Sơn tại thủ
đô Paris. Sau đó, Ngài sáng lập và làm Tăng
Thống Giáo Hội Linh Sơn trên khắp các nước Châu
Âu và Châu Mỹ.
Cũng
trong giai đoạn này, người Việt sang định cư tại
Mỹ rất đông. Trong đó, số lượng Tăng sĩ thuộc
các Thiền phái đều có mặt tại Mỹ để hoằng pháp.
Trong tăng đoàn ấy, có Hòa thượng Chơn Điền, đời
40 Lâm Tế Chúc Thánh sang bang Texas lập chùa
Quan Âm; Hòa thượng Thông Đạt-Thanh An, đời 43
Lâm Tế Chúc Thánh lập An Tường Tự Viện ở bang
Oakland; Thượng tọa Hạnh Đạo, đời 42 Lâm Tế Chúc
Thánh lập chùa Phổ Đà tại bang California;
Thượng tọa Đồng Điển-Thông Kinh đời 43 Lâm Tế
Chúc Thánh lập chùa Đông Hưng tại bang Virginia.
Tất cả quý Ngài cũng không ngoài tâm nguyện phục
vụ cho cộng đồng người Việt xa xứ.
Tại Châu
Úc, Hòa thượng Như Huệ, thuộc đời 41 Lâm Tế Chúc
Thánh từ Việt Nam sang lập chùa Pháp Hoa tại
Nam Úc vào năm 1982, sau đó Hòa thượng lại tiếp
tục khai sơn chùa Pháp Âm để Phật tử có nơi
chiêm bái, tu tập. Cùng thời gian, Hòa thượng
Đồng An-Bảo Lạc đời 43 Lâm Tế Chúc Thánh sau khi
tốt nghiệp Tiến sĩ tại Nhật Bản đã đến Úc lập
chùa Pháp Bảo tại Sydney. Hòa thượng có công rất
nhiều trong việc phiên dịch các kinh điển từ Hán
sang Việt. Bên cạnh đó, Thượng tọa Như Mẫn-An
Thiên, đời 41 Lâm Tế Chúc Thánh sau khi tốt
nghiệp Tiến sĩ Phật học tại Nhật đã sang Úc cộng
tác với Hòa thượng Bảo Lạc từ năm 1991. Đến năm
1996, thấy nhân duyên hội đủ nên Ngài ra lập
chùa Minh Giác tại Cabramatta, Thượng tọa Như
Định đời 41 Lâm Tế Chúc Thánh lập chùa Thiên Ấn
v.v…
Như vậy,
số lượng Tăng sĩ thuộc dòng Chúc Thánh sang
hoằng pháp tại hải ngoại không phải là ít. Các
Ngài bằng hết tâm lực của mình đã kiến tạo chùa
chiền nơi xứ người. Tuy rằng những ngôi chùa
Việt tại hải ngoại không có mái cong vút, khung
cảnh không có thâm u như những ngôi chùa trong
nước nhưng cũng đã hoàn thành sứ mệnh cao cả của
mình: che chở một phần hồn Dân tộc viễn xứ trong
những mùa đông lạnh buốt.
Chư Tăng môn phái Lâm Tế Chúc Thánh
tại Tổ Đình Chúc Thánh - Hội An, Quảng Nam
(ảnh PGĐC chụp năm 2004)
C. KẾT
LUẬN
Chim bay không
cầm bóng
Nước trôi chẳng
giữ màu
Phất phơ vài lá
trúc
Như gió thoảng
vườn sau!
Từ xưa
đến nay, chư vị Tổ sư như cánh nhạn lưng trời
bay qua dòng sông đâu có ý niệm lưu hình giữ
bóng. Với sự liễu triệt ý đạo thâm huyền, thấy
rõ thực tướng các pháp nào có đến có đi thì các
Ngài có gì để lưu lại. Tuy nhiên, đứng về mặt
tục đế, người viết còn thấy các Ngài đã đến, đã
hiện hữu, đã đi nên mạo muội ngược dòng lịch sử
trở về quá khứ, phủi dần lớp bụi thời gian để
tìm lại những vết chân xưa của các bậc cổ đức,
từ đó hiểu rõ hơn công hạnh của tiền nhân. Trong
quá trình “Tìm hiểu sự hình thành và phát
triển của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Quảng
Nam”, chúng ta tạm có những nhận định như
sau:
- Thiền
sư Minh Hải là vị Tổ đầu tiên truyền bá dòng
Thiền Lâm Tế tại Quảng Nam. Bằng sự chứng ngộ
của mình, Tổ sư Minh Hải đã xuất kệ truyền thừa,
lập nên một Thiền phái lớn trong lịch sử Phật
giáo Việt Nam. Với tư tưởng “Đắc chánh luật
vi tông”, Ngài đã đặt một nền tảng căn bản
cho sự phát triển của tông môn. Nền tảng này là
nguồn cội của tất cả các thiện pháp, Nhân thừa,
Thiên thừa, Phật thừa do đây mà thành tựu. Trong
bối cảnh đất Quảng Nam đang thiếu một bậc tôn sư
hướng đạo, Tổ Minh Hải đã đến đúng lúc, đã đáp
ứng được tâm nguyện của tín đồ quần chúng. Vì
thế, hạt giống Bồ Đề Ngài gieo cách đây 300 năm
giờ đã sum suê cành lá. Đồng thời, qua đây ta có
thể kết luận rằng: Tổ sư Minh Hải không phải là
đệ tử của Tổ Nguyên Thiều và Ngài cũng không
phải là người khai sơn Tổ đình Thiên Ấn tại
Quảng Ngãi.
- Kể từ
ngày Tổ sư Minh Hải chấn tích khai sơn, các đệ
tử của Ngài đã kế thừa xứng đáng sự nghiệp của
Thầy Tổ nên môn phong Chúc Thánh nhanh chóng
hình thành và phát triển. Cho đến cuối thế kỷ
XVIII, các Thiền sư dòng Chúc Thánh đã đóng vai
trò chủ đạo trong việc truyền pháp tại Quảng
Nam, khiến cho Phật giáo tại nơi đây sớm ổn định
và phát triển rực rỡ. Các Tổ đình Chúc Thánh,
Phước Lâm, Tam Thai v.v… trở thành những trung
tâm hoằng pháp chính tại Quảng Nam. Từ những Tổ
đình này, các vị Tổ sư dòng Chúc Thánh đã đào
tạo nhiều thế hệ “Như Lai Sứ Giả” đem tư tưởng
của Tổ cũng như Pháp kệ truyền bá rộng rãi từ
đất Quảng vào đến các tỉnh miền Nam,
- Sự
phóng khoáng của tư tưởng Lâm Tế kết hợp với bản
tính cương trực thực thà của người dân đất Quảng
đã tạo nên một phong cách sống rất đặc thù của
tu sĩ Quảng Nam: giản dị, gần gũi với tầng lớp
bình dân lao động nhưng cương cường bất khuất
trước những ai đi ngược với quyền lợi của Đạo
pháp và Dân tộc. Do thấm nhuần tư tưởng “Phật
pháp bất ly thế gian giác” và hiểu rõ mối
tương quan khắng khít giữa Đạo pháp và Dân tộc,
tăng sĩ Quảng Nam đã dấn thân vào các phong trào
đấu tranh đòi độc lập Tổ quốc, tự do cho Dân tộc
và Đạo pháp, thể hiện được sứ mệnh “Hộ quốc
an dân” của những người con Phật Việt.
- Với
chất giọng Quảng hòa âm cùng làn điệu dân gian,
các Thiền sư dòng Chúc Thánh đã tạo nên một nghi
lễ đặc thù của Phật giáo xứ Quảng. Các điệu hò
niệm Phật, các khoa nghi Bạt độ vớt vong, chèo
đò tống linh v.v…đã an ủi vỗ về những số phận
bất hạnh trong niềm tin tôn giáo và đây cũng là
phương tiện thiết thực đưa mọi người vào đạo để
hướng tâm đến sự giải thoát an lạc. Tất cả những
nét đặc thù của Phật giáo Quảng Nam được thể
hiện qua sự tu tập, hành đạo của chư Tổ cũng như
chư tôn Hòa thượng cận đại của dòng Chúc Thánh.
- Theo
bước chân Nam tiến của Dân tộc, các Thiền sư
dòng Lâm Tế Chúc Thánh có mặt tại các tỉnh thành
trong cả nước để truyền bá giáo lý giải thoát
của Phật Đà và ý chỉ Tổ sư. Tại mỗi địa phương
đi đến, các Ngài đã đem hết khả năng của mình để
giáo hóa và dần dần tạo nên chi phái khắp các
mọi nơi. Tăng đồ của Thiền phái Chúc Thánh đóng
vai trò quan trọng trong việc hoằng pháp tại các
tỉnh thành từ Thừa Thiên-Huế đến Quảng Ngãi,
Bình Định, Phú Yên, Sài Gòn-Gia Định v.v….Ngày
nay, theo bước chân người Việt xa xứ, Tăng nhân
Chúc Thánh có mặt khắp các Châu Lục để làm tròn
sứ mệnh “Che chở hồn Dân tộc” của mình,
góp phần đem ánh sáng Chánh pháp cũng như giới
thiệu 2000 năm lịch sử thăng trầm truyền bá Phật
giáo Việt Nam đến với các nước phương Tây
- Trải
qua 300 năm hình thành và phát triển, Tăng đồ
của Thiền phái Chúc Thánh góp phần rất lớn trong
sự nghiệp truyền bá chánh pháp tại nước nhà. Các
Thiền sư Thiệt Dinh, Pháp Liêm, Pháp Chuyên,
Toàn Nhật, Vĩnh Gia, Từ Trí v.v…đều là những bậc
Cao Tăng có sự ảnh hưởng rất lớn đối với Phật
giáo Việt Nam qua các thời đại. Mỗi vị có một
hạnh nguyện riêng biệt để hoằng pháp độ sanh:
Ngài Pháp Liêm-Luật Oai với hạnh nguyện Bồ Tát
ròng rã 20 năm quét chợ không quản nắng mưa,
Ngài Pháp Chuyên-Luật Truyền, Ngài Toàn Nhật- Vi
Bảo với trí tuệ siêu việt đã trước tác nhiều tác
phẩm Phật học có giá trị lưu lại hậu thế, Ngài
Ấn Bổn - Vĩnh Gia có công rất lớn trong việc đào
tạo Tăng tài thời cận đại v.v… tất cả đã viết
nên trang lịch sử vàng son cho môn phái. Đặc
biệt, ngọn lửa “Đại Hùng Lực, Đại Từ bi”
của Ngài Thị Thủy-Quảng Đức năm 1963 đã góp phần
không nhỏ trong việc đưa Phật giáo và Dân tộc
thoát khỏi một thời kỳ độc tài hà khắc. Ngọn lửa
thiêng ấy chính là đỉnh cao, là kết tinh của
tinh thần phụng sự Đạo pháp và Dân tộc của tăng
nhân dòng Chúc Thánh.
Hiện tại,
chư Tăng dòng Lâm Tế Chúc Thánh chiếm một lượng
lớn và đóng góp không nhỏ trong ngôi nhà Phật
giáo Việt Nam. Với một bề dày truyền thừa, phát
triển và có những đóng góp lớn lao như thế,
nhưng các nhà viết sử Phật giáo Việt Nam lại
lãng quên thì thật là thiếu sót. Trong quá trình
tìm hiểu về lịch sử dòng Lâm Tế Chúc Thánh,
người viết gặp rất nhiều trở ngại về nguồn tư
liệu nghiên cứu. Từ đây, người viết mới phần nào
hiểu được sự khó khăn của các nhà làm sử Phật
giáo khi đề cập đến sự truyền thừa của Thiền
phái Chúc Thánh. Tuy nhiên, không phải vì sự khó
khăn trong vấn đề tư liệu mà chúng ta bỏ cuộc,
cứ để lịch sử mãi trôi dần về quá khứ và bị
phong kín bởi cánh cửa thời gian.
Ngày nay,
dòng Lâm Tế Chúc Thánh đã truyền xuống đến đời
44, 45, 46 nghĩa là đã xuống đến chữ Chúc, chữ
Thánh, chữ Thọ hoặc chữ Vạn, chữ Hữu, chữ Duy (theo
bài kệ tại Bình Định). Điều này là một minh
chứng cụ thể cho sự phát triển của môn phái Chúc
Thánh. Mỗi khi truyền xuống một đời là báo hiệu
cho sự cách biệt một khoảng thời gian giữa các
thế hệ. Vì thế, qua đây người viết tha thiết
mong rằng chư vị tôn túc trong môn phái nên có
một chương trình cụ thể viết về lịch sử truyền
bá của Thiền phái Chúc Thánh để các thế hệ hậu
bối sau này được tường tận và nối tiếp truyền
thống tông môn. Như lời các bậc cổ đức có nói:
“Vô cổ bất thành kim”, không có xưa thì
không có nay, nếu không hiểu tường tận quá khứ
của cha ông thì tương lai con cháu sẽ không có
một định hướng rõ ràng cho sự phát triển của
mình.
Trong quá
trình thực hiện đề tài, con đã được chư vị tôn
túc trong và ngoài môn phái thuộc các tỉnh Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Sài Gòn
tận tình chỉ dạy, góp ý, cung cấp tư liệu để bản
luận văn sớm được hoàn thành. Qua đây, con xin
dâng lời tri ân đối với những tình cảm nồng nàn
chân thiết của chư vị tôn túc. Tuy nhiên, với
thời gian có hạn, kiến thức còn hạn hẹp và kinh
nghiệm khảo cứu còn non yếu nên người viết không
làm sao tránh khỏi những sai sót, mong rằng chư
vị Tôn Túc cũng như các bậc thiện hữu tri thức
hoan hỷ chỉ dạy để trong tương lai chúng con đi
sâu nghiên cứu vấn đề này được tường tận và
chuẩn xác hơn.
|