LƯỢC SỬ SẮC TỨ TỔ
ĐÌNH THIÊN HOÀ
(bản soạn năm 1985 - có sửa đổi đôi chút)
Hoà Thượng THÍCH ĐỖNG QUÁN

I. VỊ TRÍ, ĐỊA
THẾ
Chùa Thiên Hoà
tuy đã trùng tu, tái thiết và cải hiệu nhiều lần
nhưng vẫn toạ lạc trên vị trí từ xưa đến nay.
Nguyên địa danh
lúc Tổ khai sơn là Ấp Tri Thiện, thôn Hoa Tây,
tổng Vân Dương, huyện Tuy Phước, phủ An Nhơn,
tỉnh Bình Định. Nay là thôn Tri Thiện, xã Phước
Quang, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Vị trí
chùa về hướng Đông Nam thị trấn Bình Định, cách
cầu Tân An 1 cây số về hướng Đông.
Địa thế vùng này
thuộc bình địa. Nhờ phù sa của lưu vực sông Côn,
thuộc nguồn La vĩ bồi đắp hàng năm nên đất đai
rất màu mở. Vườn chùa hình chữ nhật 40m X 65m.
Xưa kia chùa đứng
độc lập, chung quanh không có nhà cửa đồng bào
áp gần. Nay trong tình trạng nhân mãn, cộng vào
đấy vị trú trì tiền nhiệm (Thích Quảng Nguyên)
đã nhân khi tu bổ chùa, bán hết ¼ đất vườn chùa
phía Đông và Đông Nam. Nên nay nhà cửa của đồng
bào cất chen chúc chung quanh vườn chùa làm mất
sự yên tĩnh và trang nghiêm.
Đối diện
chùa Thiên Hoà là Tháp Bánh Ít, nơi toạ lạc Tu
Viện Nguyên Thiều với Phật Đài lộ thiên uy
nghiêm. Án ngữ mặt tiền là sông Tân An (Côn)
cùng đường liên hương. Mặt hậu chùa là nhà cửa
của nhân dân thôn Tri Thiện. Áp vách hậu Tổ là
vườn chùa với không gian thoáng mát.

một góc Phật điện Chùa Thiên Hoà - Tuy Phước,
Bình Định (ảnh PGĐC chụp năm 2004)
II. KHAI SÁNG,
CẢI HIỆU, TRÙNG TU
Nguyên có một
phật tử thọ Ưu bà di giới pháp danh Toàn Đức tên
Trần Thị Thìn cúng dường Đức Tổ Viên Quang, tự
Luật Phong, huý Pháp Tịnh 2 sào đất trồng dâu (chưa
tìm được tài liệu tra cứu để biết thên về thân
thế, sự nghiệp và sinh quán của cụ bà ở đâu, chỉ
căn cứ vào cựu khế của chùa). Đầu tiên Tổ Pháp
Tịnh đến lập một thiền thất hiệu là Khánh Thiện
để tu và truyền bá Thiền tông. Ngài Pháp Tịnh
lập thiền thất vào năm nào ta chưa có sử liệu tra
cứu để biết chắc chắn. Nhưng căn cứ vào những
thế hệ tương đương và những tự viện Chư Tổ sáng
lập cùng đời hiện còn đầy đủ tài liệu chứng
minh, ta được phép dự đoán Thiền thất Khánh
Thiện (tiền thân chùa Thiên Hoà) sáng lập vào
những năm của niên hiệu Vĩnh Thạnh – từ năm 1705
đến năm 1719 – Sau đó phật tử Toàn Đức cúng cho
Ngài một Đại Hồng Chung, đồng thời phát nguyện
tái thiết Thiền thất Khánh Thiện và cải hiệu là
Hưng Thiện Tự. Khi phật sự viên hoàn Ngài phi
tích vào Nam hoá đạo.
Đến đời Tổ Chánh
Trực, húy Hải Yến, Ngài được thiện tín cung
thỉnh về trú trì chùa Hưng Thiện. Đến năm Giáp
Ngũ (1774), niên hiệu Cảnh Hưng, năm thứ 35,
Ngài tái thiết chùa Hưng Thiện và cải hiệu thành
Thiên Hoà Tự cho đến ngày nay.
Đến năm Mậu Tuất
(1778) từ ngày 24 đến ngày 26 tháng 4, Ngài
Chánh Trực cùng thiện tín, sắc hào, binh sĩ,
cung thỉnh Hoà thượng Thiên Khánh, huý Tánh Tôn,
đương kim trú trì Tổ Đình Long Khánh, Quy Nhơn,
quang lâm chứng minh Đại lễ Trai đàn 3 ngọ, đúc
lại quả Đại Hồng Chung, hiện còn tại chùa (quả
Đại Hồng Chung do phật tử Toàn Đức cúng đã bị vỡ
trong cuộc chiến giữa Nguyễn Ánh và quân Tây Sơn).
Đến năm Bính Tý
(1816) niên hiệu Gia Long thứ 15 – Sử thường gọi
thời kỳ Gia Long phúc quốc – có phật tử thọ Ưu
Bà Di giới pháp danh Thanh Quang (thường gọi là
bà Điêu) tên là Lê Thị Viên, phát Bồ đề tâm tài
trợ kinh phí để Ngài Chánh Trực tái thiết quy mô
ngôi Tam bảo Thiên Hoà, bắng vật liệu nhẹ, theo
kiểu chữ môn.
Đến năm Tân Mão
(1891) niên hiệu Thành Thái thứ 3, dưới sự chứng
minh của Tổ Chương Hiệp, Ngài Ấn Bình đã tái
thiết lại ngôi Tam Bảo Thiên Hoà. Nước gỗ của
chùa hiện nay và toàn bộ hoành, liễn, trướng,
đối đều do Ngài Ấn Bình hiệu Bửu Quang sáng tạo.
Trong đời trú trì
của Hoà thượng Trí Thắng, huý Chơn Cảnh, vào năm
Nhâm Tuất (1922) chùa bị hoả hoạn. Khi đó Ngài
đứng ra xin đơn phổ khuyến. Đến ngày 15 tháng 4
năm Quý Hợi (1923) khởi công tái thiết lại toàn
bộ ngôi Tam Bảo Thiên Hoà, bằng vật liệu nhẹ,
đượm vẻ trang nghiêm cổ kính. Ngoài ra các đời
thừa kế như: Đời thầy Chơn Huệ thay tranh lợp
ngói vào năm Kỷ Hợi (1959). Trong dịp trùng tu
này Thầy đã bán 2 mẫu 6 sào ruộng của chư Tổ mua
để lại cho chùa (thiên thu hương yên kỵ lạp) và
¼ vườn chùa. Toàn bộ pháp khí, tự vật cũng đều
thất thoát, có lẽ vị duyên cớ giặc giã?
III. PHỔ HỆ
TRUYỀN THỪA
1. Tổ khai sáng: Khai sáng chùa Thiên Hoà là Ngài Viên Quang, tự Luật Phong, huý Pháp
Tịnh, đời 36. Ngài là đệ tử Tổ Ân Triêm, tự
Chánh Hiển, huý Thiệt Dinh, sáng lập Tổ Đình
Phước Lâm tại Hội An, Quảng Nam. Ngài Viên Quang
đến lập Thiền Thất tính đến nay (1986) gần 300
năm. Rất tiếc không có sử liệu để biết thân thế,
sự nghiệp, tánh danh và sanh chánh quán của Ngài.
Theo Long vị thờ
Ngài tại chùa Thiên Hoà, không ghi năm sinh, thị
tịch, chỉ ghi kỵ Ngài ngày mùng 8 tháng 2 hàng
năm và bảo tháp cung phụng Ngài hiện ở chùa nào
trong Nam chưa truy tầm.
2. Kế thừa: Tổ
Chánh Trực,
huý Hải Yến, đời 40 (Theo Pháp phái Tổ Thiệt
Diệu, Tổ Đình Thiền Tôn, Huế. Ngài là đệ tử của
Tổ Thiên Khánh, huý Tánh Tôn, đời 39, Tổ Đình
Long Khánh, Quy Nhơn. Ngài Chánh Trực là vị Tổ
đóng góp nhiều công đức nhất. Ngoài công đức tái
thiết, trùng tu, cải hiệu, đúc Đại Hồng Chung,
Ngài còn mua 1 mẫu 5 sào 7 thước 5 tất đất trồng
dâu, theo cựu khế ghi Thiên Hoà Tam Bảo tự điền.
Long vị thờ Ngài
tại chùa không ghi rõ ngày tháng năm sanh và thị
tịch, nên hằng năm kỵ Ngài vào ngày kỵ Tổ Khai
sơn.
3. Kế thừa: Ngài
Tịnh Quang
– đệ tử cầu pháp của Tổ Chánh Trực - theo cựu
khế, Ngài có công khai phá bãi sa bồi trước mặt
chùa thành đất sản xuất hoa màu (tục gọi soi
chùa). Trong đời trú trì của Ngài, có phật tử
thọ Ưu bà di giới pháp danh Chương Lạc, tên là
Lê Thị Thường, sinh quán ấp Luật Chánh, huyện
Tuy Phước cúng 7 sào 8 thước đất trồng dâu và 2
phật tử Bùi Văn Nguyện, Lê Thị Điền cúng 10
thước 5 tất đất vườn chùa - theo cựu khế ghi
niên hiệu Minh Mệnh thứ 21, Canh Tý (1840) –
Long vị Ngài thờ tại chùa.
4. Kế thừa: Ngài
Chánh Nhơn,
huý Ấn Bảo, đời 39. Ngài trú trì dưới sự giám hộ
của Bổn sư là
Tổ Chương Hiệp.
Đời Ngài không có tự tích, công đức đặc biệt.
Ngài sinh năm Kỷ Hợi (1889) thị tịch giờ Hợi,
ngày 26 tháng 3 năm Nhâm Ngũ (1932), thọ 44 tuổi,
tháp Ngài hướng Tây Bắc chùa.
5. Kế thừa: Ngài
Bửu Quang,
huý Ấn Bình, tự Như Cẩn. Sinh chánh quán ấp
Lương Lộc, huyện Tuy Phước. Thế danh Nguyễn Như
Cẩn, dòng dõi của Ngài đều tôn sùng Đạo Phật.
Ngoài công đức trùng tu, tái thiết. Năm Mậu Tuất
(1898) niên hiệu Thành Thái thứ 10, Ngài mua 5
sào 5 thước đất trồng dâu – Theo cựu khế ghi
Thiên Hoà Tam Bảo tự điền – Ngài rất rành y dược,
dịch lý, toán số, Ngài mở trường gia giáo. Đồng
sư của Ngài có: Ngài Chí Thành, huý Ấn Phước
sáng lập chùa Tây Thiên, huyện An Nhơn, Ngài Ấn
Sinh, Ấn Đoan trú trì chùa Phổ Bảo. Quý Ngài chữ
Ấn đều là đệ tử của Tổ Chánh Trì (Tổ Chánh Trì
là đệ tử Tổ Toàn Ý đời 37, sáng lập
Tổ Đình Phổ Bảo).
Trong thời gian Ngài Ấn Bình trú trì, Ngài cung
thỉnh Ngài Chương Hiệp về an dưỡng tại chùa
Thiên Hoà. Ngài Chương Hiệp khai sơn chùa Huỳnh
Long, ấp Huỳnh Mai. Ngài sinh năm Quý Tỵ (1833)
tịch ngày 4 tháng 10 năm Mậu Ngọ (1911) thọ 78
tuổi. Tháp Ngài hướng Đông Nam chùa Thiên Hoà.
Ngài Ấn Bình sinh
năm Quý Hợi (1863), tịch giờ Tỵ ngày 27 tháng
Giêng năm Tân Dậu (1921) thọ 58 tuổi. Tháp Ngài
hướng Đông Nam chùa Thiên Hoà.
6. Kế thừa: Ngài
Trí Thắng,
húy Chơn Cảnh, đời 40, đệ tử Tổ Ấn Bình, thế
danh Nguyễn Khắc Đôn. Ngài sinh chánh quán ấp
Lương Lộc. Trong đời trú trì của Ngài, năm 1922
chùa bị hỏa hoạn, năm 1923 Ngài phổ khuyến và
tái thiết toàn bộ chùa. Năm Bính Dần (1926) Quản
Đạo tỉnh Ninh Thuận thỉnh Ngài đứng sáng lập
chùa Thiên Hưng, ấp Văn Sơn, Phan Rang. Ngài
rành Hán, Việt, Pháp, Y dược, Dịch lý. Ngài sinh
năm Tân Mão (1891), tịch giờ Ngọ, ngày 13 tháng
5 năm Ất Mão (1975) thọ 85 tuổi. Tháp Ngài ở
hướng Đông Bắc chùa Thiên Hưng, Phan Rang.
7. Kế thừa: Đại
Đức Thích Vĩnh Thạnh,
tự Cát Bảo, húy Như Tuyên, đời 41, đệ tử Ngài
Chơn Diệp chùa Thiên Trúc, huyện Tuy Phước. Thầy
trú trì nổi tiếng vì sản xuất kinh tế tự túc,
không có tự tích tái thiết, tạo mãi gì lưu lại.
Long vị thờ của Thầy cũng không ghi năm tháng
ngày giờ thị tịch. Tháp Thầy hướng Đông Nam vườn
chùa.
8. Kế thừa: Đại
Đức Thích Quảng Nguyên,
huý Chơn Huệ (sau cầu pháp với Ngài Chơn Tịnh,
hiệu Cao Minh, sáng lập chùa Tịnh Liên - An Nhơn,
đời 41, thế danh Phạm Thông, sinh chánh quán tại
thôn Tri Thiện, xã Phước Quang. Đại Đức trú trì
năm Quý Dậu (1933), năm Kỷ Hợi (1959) thay tranh
lợp ngói. Đến ngày 20 tháng 11 năm Nhâm Tý
(25-12-1972) vì tuổi già cáo bệnh, mời Chư tăng
Môn phái về giao Tổ Đình Thiên Hoà lại để Môn
phái trạch cử trú trì khác. Môn phái đã mời Đại
Đức Thích Đỗng Quán về trú trì, kế thừa Tổ Đình
Thiên Hoà.
Đại Đức Quảng
Nguyên sinh năm Giáp Thìn (1904) tịch giờ Sửu
ngày 26 tháng 3 năm Quý Sửu thọ 70 tuổi. Tháp ở
phía Đông Nam chùa Thiên Hoà.
9. Kế thừa: Hoà
thượng Thích Đỗng Quán,
tự Hạnh Nhơn, huý Thị Quảng, đời 42, đệ tử Đại
lão Hoà thượng Thích Huyền Tân, huý Như Thọ, trú
trì chùa Thiền Lâm, Phan Rang.
Tổ Đình Thiên Hoà
từ nội viện cho đến ngoại viện được chỉnh đốn
khang trang như ngày nay đều do công đức lớn lao
của Hoà thượng.
Hoà thượng Thích
Đỗng Quán sinh năm Bính Dần (1926) tại thôn Quan
Quang, xã Nhơn Khánh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình
Định. Hoà thượng là người quảng bát, hoạt động
phật sự không biết mệt mỏi, danh tiếng trong và
ngoài nước biết đến.
Hoà thượng thị
tịch ngày 26 tháng Giêng năm Kỷ Sửu (2009), thọ
84 tuổi, tháp Ngài toạ lạc trước mặt chùa về
hướng Đông Nam. (Đoạn
này mới thêm vào sau ngày Hoà thượng viên tịch
<=
click vào đây để xem tiểu sử HT Thích Đỗng Quán).
Tổ Đình Thiên Hoà
từ Tổ Pháp Tịnh khai sơn cho đến nay, Tổ Tổ
tương truyền, hiện còn tự tích minh bạch. Trải
qua các thế hệ đều được sự hỗ trợ của hương
quyền, tộc thuộc các phái với tư cách là những
phật tử thuần thành.
Cung lục Xuân Ất Sửu - 1985
Sa Môn THÍCH ĐỖNG QUÁN
HT Thích Đỗng Quán cùng chư tôn Trưởng Lão môn
phái Chúc Thánh Minh Hải Bình Định tại Chùa Hưng
Khánh
(ảnh PGĐC chụp năm 1998)

|