NHỮNG THÁNG NGÀY MẦU NHIỆM
Thích Như Điển

Mỗi năm vào ngày 28 tháng 6, Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất, Chi Bộ Đức Quốc chọn làm
ngày họp định kỳ của Chi Bộ tại một chùa trong
nước Đức và nhân kỳ họp nầy, Chư Tôn Đức Tăng Ni
thông qua chương trình tu học, Phật Đản, Vu Lan
và những lễ lộc quan trọng của năm sau. Bất kể
là gió, sương, mưa, tuyết, hay xuân, hạ, thu,
đông. Khi thời gian đến, mọi chùa đều lên lịch
trước đó một hai tháng để Phật Tử vân tập về
chùa tham dự lễ cũng như tu học.
Nếu gặp thời tiết thuận tiện, Phật Tử về chùa
đông đủ và có thể ở ngoài sân chùa để hàn huyên
tâm sự; nếu chẳng may gặp ngày mưa, bão, giá,
tuyết thì phải đành thúc thủ cầu nguyện cho thời
tiết đỡ băng giá hơn; nhưng có lẽ cũng nhờ những
lời cầu nguyện chân thành ấy mà cao xanh đã thấu
hiểu lòng người chăng? Nên nhiều lễ đã được tổ
chức một cách viên mãn, mà thời tiết đã quyết
định phần lớn của việc này.
Đầu tiên là lễ
Khánh thành chùa Linh Thứu tại Berlin Đức quốc.
Đó là ngày 21 tháng 10 năm 2012 vừa qua. Trước
đó một tuần và gần đó 2 ngày, bầu trời mùa thu
của nước Đức hầu như không có mây trắng, lá vàng
bay, mà toàn là những cơn gió bấc thổi lạnh tê
tái tâm cang, mưa rơi càng nặng hạt. Ai nấy cũng
lấy làm lo. Nhưng kỳ lạ thay vào ngày 21.10.2012
lại là ngày có nhiệt độ tăng lên từ 16 đến 26 độ
C và bầu trời lại quang đãng; nên lễ Khánh thành
đã hoàn tất một cách viên mãn với gần 3.000
người tham dự trong suốt tuần lễ ấy. Ngày hôm
sau 22.10 và tuần lễ kế tiếp lại giá lạnh,
tuyết rơi.
Ngược dòng thời gian, cách đây hơn 30 năm về
trước, khi các Chi Hội Phật Tử Việt Nam Tỵ Nạn
tại Hannover, Hamburg được hình thành, thì Bá
Linh cũng là một trong 3 Chi Hội tiên phương đó.
Họ đến với nhau trong tinh thần văn nghệ, trong
tình người con Phật xa quê hương xứ sở, nơi xứ
lạ quê người nầy; nên rất dễ thân thiện với
nhau. Kể từ đó cho đến nay (2012) toàn cõi nước
Đức đã có 25 Chi Hội như vậy đã được thành lập
và duy trì.
Đầu thập niên 80 Niệm Phật Đường Linh Thứu tại
Berlin được thành lập qua sự tài trợ của Hồng
Thập Tự Bá Linh. Nơi đây cũng đã được thuyên
chuyển hai lần và đặc biệt nhất năm 1989 khi bức
tường Bá Linh sụp đổ (9.11) thì Niệm Phật Đường
tại Krefelderstrasse đã cưu mang không biết bao
nhiêu con người đã rời bỏ chủ nghĩa cộng sản bên
Đông để qua phía Tây xin tỵ nạn và những ngày
tháng ban đầu ấy Linh Thứu vẫn là chốn nương tựa
của những người muốn tìm cầu lý tưởng tự do.
Cũng vì Niệm Phật Đường nầy không cưu mang nổi
số người đến chùa mỗi lúc một đông; nên quý Sư
Cô và Phật Tử đã chung sức chung lòng tạo mãi
một căn nhà tại Pinnenweg để „cải gia vi tự“.
Chùa nầy sinh hoạt cho đến năm 2005 thì chính
thức dọn về chùa mới trong hiện tại. Đầu tiên Ni
Sư Thích Nữ Diệu Phước mua một lô đất trống bên
cạnh, sau đó mua dần cơ sở đã có sẵn để tạm làm
chùa và cuối cùng năm 2011 đã đặt đá xây chùa và
năm nay 2012 làm lễ Khánh thành với kinh phí là
2.300.000€ (Hai triệu ba trăm ngàn). Trong đó số
tiền nợ của Phật Tử chỉ có 600.000€. Phần còn
lại do Phật Tử đóng góp cúng dường. Không nhiệm
mầu sao được, khi khởi đi từ 30 năm trước, người
con Phật chỉ có một tấm lòng, mà hơn 30 năm sau,
cơ ngơi Phật Pháp quá đồ sộ như vậy, làm sao
người thường chẳng ganh tị với sự thành công
vượt bực nầy; nên câu „Phật Pháp nhiệm mầu“ tôi
thường dùng cho đến hết đoạn đời sanh tử của
mình là vậy. Không ai trong chúng ta lại có thể
tin rằng một cơ ngơi như vậy, một ngày đẹp trời
như vậy tại Bá Linh có một ngôi chùa như vậy
được khánh thành.
Ngày 27 tháng 10 năm 2012 cũng là ngày đẹp trời
khó tả tại Chiangmai, Thái Lan. Chính ngày ấy là
ngày làm lễ Khánh thành 3 Tôn tượng Tây Phương
Tam Thánh tại Cực Lạc Cảnh Giới Tự; nơi Đại Đức
Hạnh Nguyện đang trụ trì.
Tôn tượng Đức Phật A Di Đà cao 12 mét; tượng
Quan Âm, Thế Chí cao 7 mét. Các tôn tượng đều do
thợ từ Việt Nam qua tôn tạo; nên dáng dấp và
nghệ thuật điêu khắc hoàn toàn theo tư thế Việt
Nam. Hôm ấy đã có hằng trăm Phật Tử và Chư Tôn
Đức đến từ Châu Úc, Châu Âu, Châu Á, Châu Mỹ
tham dự và những Phật Tử trong chiếc áo dài
truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Trước đó
và sau đó, trời đổ mưa; nhưng riêng ngày 27.10
trời quang mây tạnh, dường như có ai đó đang mời
mưa và gió đi chơi chỗ khác. Nhờ vậy mà những tà
áo dài truyền thống Việt Nam mới có cơ hội tung
bay trước gió ở xứ chùa tháp nầy.
Kể từ thời Nguyễn Vương qua tỵ nạn Tây Sơn ở
đây, từ năm 1880 đến 1889 đã có 18 ngôi chùa
được thành lập; trong đó có nhiều ngôi chùa khá
nổi tiếng như Phổ Phước tại Bangkok – là bổn bộ
của phái Anamikaya (Việt Tông); Khánh Vân; nơi
còn lưu giữ nhục thân xá lợi của Ngài Phổ Sái
Thiền Sư. Chùa Việt Nam tại Hat Yai; nơi có Viện
Đại Học Phật Giáo có dạy Việt ngữ; chùa Việt Nam
ở thành phố Chomburi; nơi còn lưu lại nhục thân
xá lợi của Ngài Thiền Sư Hổ Phách... Ngày nay
trong 18 ngôi chùa nầy không còn vị Sư Việt Nam
nào làm trụ trì cả; nhưng những chùa này tất cả
đều tụng kinh theo ngữ điệu Việt Nam cả 2 thời
công phu sáng tối. Tuy họ là người Hoa, người
Thái; nhưng họ đã giữ lại bản sắc dân tộc của
những người đã xây dựng nên chùa viện Việt Nam.
Quả là điều đáng tán dương và ca ngợi.
Đến Chiangmai để thấy Cực Lạc Cảnh Giới Tự ngày
nay khác hẳn những năm trước rất nhiều. Ngoài
khu chánh điện chư Tăng, Ưu Bà Di và những khu
thất nhỏ cũng như văn phòng ra, trà Olong đã
xanh và cao hẳn gần đến đầu người. Có cả hằng
50.000 gốc trà đang phủ kín cả núi đồi nơi đây
và trong tương lai trà sẽ là nguồn huê lợi để
nuôi sống chùa trong thời gian dài khi khách
hành hương ít còn tới lui nữa. Bên cạnh đó
chuối, mít, khế, ổi, chùm ruột v.v… vô số trái
và nặng trĩu cả cành cây. Ai đến đây rồi, sẽ
không muốn dời gót. Vì trái ngọt của quê hương
đã mọc rễ và cho ra hoa quả tại xứ người rồi.
Cực Lạc Cảnh Giới Tự về đêm đẹp tuyệt vời. Ở đây
không có chim Ca Lăng Tần Già; nhưng ao thất bảo
và hoa sen nhiều màu, nhạc trời do chư Thiên
chúc tụng đã tấu lên những khúc nhạc thiên thai;
khiến cho ai đó đã một lần vãng cảnh, không thể
nào không liên tưởng đến kinh Tiểu Bổn A Di Đà
mà Đức Phật đã nói cho Ngài Xá Lợi Phất nghe,
khi Ngài còn tại thế.
Phần Hạ phẩm xem như hoàn tất. Phần Trung phẩm
và phần Thượng phẩm của Cửu Phẩm Liên Hoa sẽ từ
từ kiến tạo khi tình hình vật chất và thời gian
cho phép. Cứ ngỡ rằng công trình nầy mãi dang
dở; vì sự nghi kỵ ở nhiều mặt; nhưng rồi công lý
đã thắng; nên Thầy Hạnh Nguyện đã tiếp tục xây
dựng song song với việc nhập thất dài lâu để tu
tập và đọc qua bộ Đại Tạng Kinh bằng chữ Việt.
Nếu không có Đại Đức Thích Vạn Trí đang kiêm
nhiệm chức Tri Sự, thì mọi Phật sự bên ngoài
chắc cũng khó hoàn thành. Một con én không làm
nên một mùa xuân; nhưng nếu một mùa xuân có
nhiều cánh én tung bay, quả thật đó là một mùa
xuân đầy đủ ý nghĩa nhất.
Chúng tôi đến đó từ ngày 23 tháng 10 và rời đây
vào ngày 29 tháng 10 năm 2012 qua 4 ngày chuyên
tu lễ bái cũng như hàn huyên tâm sự, đồng thời
thưởng thức những hương vị ngọt ngào của cây
trái Thái Lan. Nào dừa, nào ổi, dưa hấu, bòn
bon, chôm chôm, măng cụt, xoài, mít v.v… như
ngọt lịm đến tận môi, mà trên thế giới nầy chẳng
có nơi nào có được, ngay cả quê hương Việt Nam,
mà giá thành lại quá rẻ so với Âu Châu hoặc Nhật
Bản ngày nay. Do vậy tôi đã nói rằng: „Quý vị
nên tận hưởng tất cả cây trái Thái Lan, khi qua
Nhật chỉ nên nhìn, chứ khó mà mua được“.
Ngày 29 tháng 10 năm 2012, Phái đoàn của chúng
tôi đã rời Thái Lan để đến Nhật Bản và sẽ lưu
lại đây 8 ngày 7 đêm để ngày 5 tháng 11 thì Đoàn
lại trở về trụ xứ của mình. Chương trình nầy
chúng tôi và Hòa Thượng Bảo Lạc cũng như Hòa
Thượng Thích Minh Tuyền đã sắp đặt trước đó cả
một năm; nhưng đúng là „hoàng thiên bất phụ hảo
tâm nhân“. Tất cả đều thành tựu như ý nguyện;
nhất là vấn đề thời tiết. Trước đó mấy ngày trời
Tokyo lạnh giá; nhưng đến ngày 4.11.2012 thì bầu
trời nắng ấm lạ lùng. Nhờ vậy mà các cô, các bà
trong đoàn hành hương của chúng tôi gồm 14 quốc
tịch, có cơ hội ăn diện áo dài Việt Nam để sánh
với những chiếc Kimono của Nhật Bản. Đoàn chúng
tôi hướng dẫn gồm 85 người đến từ Đức, Pháp, Na
Uy, Thụy Điển, Đan Mạch, Hòa Lan, Ái Nhĩ Lan,
Việt Nam, Thụy Sĩ, Hoa Kỳ, Canada, Ấn Độ, Thái
Lan, Áo. Toàn là người Việt Nam; nhưng trong
Đoàn có thêm 4 người Thái và người Hoa; nên
ngoài tiếng Nhật, Việt Nam ra chúng tôi còn phải
dùng thêm tiếng Hoa và tiếng Anh nữa. Đây là một
chuyến du lịch lịch sử; nhưng đã chẳng xảy ra
một vấn đề khó khăn cỏn con nào. Có lẽ vì đã
chuẩn bị trước; nhưng đây cũng xin cảm ơn Đồng
Pháp của hãng du lịch Nhi Phong ở Đức đã tận
tình lo lắng cho Đoàn trong mọi phương diện như:
ăn, ở, di chuyển v.v… nên mới được như vậy.
Vào năm 1968
khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong
nước còn khá vững vàng. Lúc ấy Đức Đệ Nhất Tăng
Thống Thích Tịnh Khiết, Ngài Đệ Nhị Viện Trưởng
Viện Hóa Đạo Thích Thiện Hoa, Hòa Thượng Thích
Thiện Hòa, Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Hòa Thượng
Thích Hành Trụ v.v… mong rằng ở ngoại quốc nên
thành lập 3 ngôi chùa ở 3 nơi như: Ấn Độ, Nhật
Bản và Pháp; nên quý Ngài đã gởi 3 Tôn Tượng Đức
Bổn Sư, cao độ 50cm bằng thạch cao sang những xứ
có Chư Tăng Ni đang tu học thuở bấy giờ; nhưng
cho đến năm 1975 vẫn chưa lập được một ngôi chùa
nào; nên tôn tượng gởi qua Pháp cho Hòa Thượng
Thích Nhất Hạnh thì được Hòa Thượng Thích Minh
Tâm thỉnh về chùa Khánh Anh để thờ tại Paris cho
đến ngày nay. Tôn tượng gởi qua Ấn Độ đã được
Giáo sư Lâm Trung Quốc (Thầy Huyền Diệu) đang
thờ tại ngôi chùa Việt Nam Phật Quốc Tự tại Bồ
Đề Đạo Tràng. Riêng tôn tượng thứ ba có một lịch
sử hơi dài như sau:
„Ngày trước từ năm 1952 đến năm 1975 Chư Tăng Ni
du học tại Nhật thành tài về lại nước như: Cố
Hòa Thượng Thích Thiện Ân, Cố Hòa Thượng Thích
Tâm Giác, Cố Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm, Cố Hòa
Thượng Thích Thiền Định, Hòa Thượng Thích Trí
Tâm, Hòa Thượng Thích Trí Quảng v.v… nên tôn
tượng ấy do Cố Hòa Thượng Thích Minh Lễ giữ và
sau đó Ngài gởi vào chùa Joenji (Thường Viên tự)
tại Tokyo và cũng năm 1975 ấy, Cố Hòa Thượng
sang Pháp lập Chùa Tịnh Tâm tại Paris cũng đã
chẳng mang theo.
Vào năm 1980 khi Chùa Viên Giác dời về đường
Eichelkampstrasse ở Hannover, Đức quốc - tôi đã
thưa với Hòa Thượng Thích Minh Tâm (Pháp), Hòa
Thượng Chơn Thành (Hoa Kỳ), Hòa Thượng Minh
Tuyền (Nhật) - là những người có trách nhiệm
với Chi Bộ thuở bấy giờ, được thỉnh về Đức để
tôn thờ. Lúc ấy quý Ngài đã đồng ý; nên tôi đã
bay về Nhật và thỉnh tôn tượng nầy sang Đức, thờ
tại Chùa Viên Giác cho đến ngày nay“.
Đây là 3 pho tượng lịch sử, chúng ta cần nên
nhớ. Vì lẽ có liên quan đến các bậc tôn túc
trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
thuở bấy giờ.
Từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay (2012);
trong gần 40 năm lịch sử ấy đã có hơn 600 ngôi
chùa lớn nhỏ được thành lập khắp đó đây trên thế
giới nầy. Có những ngôi chùa lớn trị giá trên
dưới 20 triệu đô-la như Chùa Khánh Anh ở Pháp
hay hơn 10 triệu đô-la như Chùa Việt Nam ở
Houston (Hoa Kỳ), Chùa Quan Âm (Canada), Chùa
Viên Giác (Đức), Khuông Việt (Na Uy) và cũng có
những ngôi chùa khiêm nhường hơn trị giá chừng
vài trăm ngàn đô; nhưng tất cả đều do mồ hôi
nước mắt của người Phật Tử đóng góp vào mà có
được để sưởi ấm lòng người khi phải sống xa quê
hương trong nghìn trùng xa cách.
Cách đây chừng 5 năm, khi Hòa Thượng Thích Minh
Tuyền đã ở vào tuổi 70 (thất thập cổ lai hy);
nhưng Ngài lại chọn cách lập chùa ở đất Nhật.
Khi nghe tin ấy, chúng tôi những người cựu sinh
viên Tăng Ni du học tại Nhật rất vui, vì từ xưa
nay (hơn 50 Tăng Ni du học) chưa có ai phát được
Đại Nguyện ấy; nhưng cũng rất lấy làm lo là
không biết Hòa Thượng có thành tựu được chăng?
Một mặt vì tuổi lớn, mặt khác vì lẽ Thầy ấy đơn
chiếc có một mình sau 45 năm lưu trú tại Nhật.
Thế rồi Ngài sang Hoa Kỳ, rồi Âu Châu, Úc Châu,
Canada để vận động tài chánh, để rồi năm 2011 đã
hình thành với hình dáng một ngôi chùa tại tỉnh
lỵ Kanagawa nằm gần Tokyo. Đây là một niềm hãnh
diện vô biên, vì ước nguyện của Ngài cũng như
Phật Tử Việt Nam tại Nhật đã thành tựu.
Vào ngày 11 tháng 3 năm 2011 vừa qua, 5 tỉnh ở
miền Đông nước Nhật như Fukushima (Phước Đảo),
Sendai (Tiên Đài), Chiba (Thiên Diệp) v.v… đã bị
một cơn Tsunami ụp đến làm cho thế giới phải
bàng hoàng, kinh động. Có hơn 15.000 người chết
và nhà cửa tài sản bị cuốn trôi vào lòng đại
dương chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ. Thế mà
cả năm sau những vùng đất nầy vẫn chưa hoàn hồn
như cũ. Đây cũng là cơ hội để cho chúng tôi
thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
Liên Châu sang thăm và ủy lạo Nhật Bản vào cuối
tháng 5 năm 2011 vừa rồi. Lúc ấy Phái Đoàn chúng
tôi đã ghé thăm Chùa Việt Nam của Hòa Thượng
Thích Minh Tuyền, thấy chùa xây còn dang dở;
nhưng cũng mong được thành tựu sớm; nên chúng
tôi mỗi người một ít đóng góp vào và mong sao
năm 2012 sẽ có lễ Khánh thành đợt 1. Đây là nhân
duyên và là kết quả vậy.
Ai trong chúng tôi trong Đoàn hành hương kỳ nầy
cũng khen người Nhật sạch sẽ, người Nhật trầm
lặng, người Nhật đúng giờ, nhà vệ sinh của Nhật
sạch và đẹp nhất thế giới; nhưng cũng có người
chê Nhật nói tiếng Anh dở và vật giá thì khỏi
chê. Một củ khoai lang nướng giá 6 đô la Mỹ, một
quả xoài, một trái táo Fuji không dưới 3 đô la.
Còn nhiều loại đắc khủng khiếp; nói ra chắc ít
người tin; nhưng ai ai cũng phải tin những điều
nầy.
Người Nhật rất đúng giờ; không bao giờ họ sai
hẹn và trễ năm phút. Trong khi đó người Việt Nam
chúng ta phải xét lại vấn đề nầy. Nếu không tin
nhau thì không thể làm được việc gì cả, nhất là
vấn đề hẹn hò giờ giấc. Người Nhật hẹn ở nhà
gare hay công viên đều đúng giờ. Nếu đến giờ
phải đi, người ta có tấm bảng tại đó ghi lại
những điều muốn ghi để người đến sau theo đó mà
tìm đến.
Nếu nói nước nào sạch nhất thế giới, thì phải
nói rằng nước Nhật. Họ sạch từ trong nhà ra
ngoài ngõ; từ cửa sổ lên tận trần nhà; từ dưới
đất ra ngoài đường và ngay cả những nơi công
cộng như chùa chiền, nhà gare, xa lộ v.v… chẳng
thấy nơi nào có rác cả. Hỏi tại sao được như
vậy? Câu trả lời là: Do ý thức của người dân. Họ
trình độ dân trí cao, không làm những việc không
có ý thức, mà trách nhiệm thuộc về mình; nên ít
thấy một tàn thuốc nằm vô tình đâu đó. Tất cả
đều lớp lang và thứ tự. Ngay cả khi đi mua vé
tàu hay vào phòng vệ sinh công cộng, tất cả phải
xếp hàng; nhưng rất nhanh và lễ phép, lịch sự.
Khi mua hàng không vừa lòng trả lại, họ vẫn vui
vẻ cúi đầu chào, không bao giờ tỏ ý bất bình nơi
khóe mắt hay nét mặt. Người Nhật nghe nhiều hơn
nói. Điều nầy đúng với người xưa đã dạy cho
chúng ta rằng: Chúng ta chỉ có một cái miệng, mà
có đến hai lỗi tai. Khi mở miệng ra phải đắn đo;
nếu không, sẽ bị vấp phải lỗi“.
Điều vô cùng quan trọng của người Nhật là tạo
niềm tin tưởng với nhau. Hầu như họ không nghi
kỵ gì với người đối diện. Vật của ai, thuộc về
người ấy; không ai tham lam của cải của người
khác. Qua trận Tsunami vừa rồi, thế giới đã phải
cúi đầu trước sự nhẫn nại và lòng tin yêu của
người Nhật khi họ phải đối diện với khổ đau,
chết chóc và con đường hy vọng đã bị chôn vùi.
Thế mà họ đã đứng vững hai chân sau đệ nhị thế
chiến (1945) để ngày nay họ là một cường quốc
sánh vai với các nước Âu Mỹ. Họ thất bại sau đệ
nhị thế chiến qua chiến tranh Daitoa (Đại Đông
Á) của Nhật Hoàng Hirohito; nhưng ngày nay họ đã
thành công trên thương trường và ngoại giao đối
với quốc tế. Đúng với câu tục ngữ của chúng ta
là : „thất bại là mẹ đẻ của thành công“. Hoặc
người xưa cũng đã dạy rằng: „té xuống mặt đất và
hãy lấy hai tay chống đất để đứng dậy“. Người
Nhật đã thể hiện trọn vẹn những lời dạy nầy của
Thánh Hiền; nên họ đã thành công một cách phi
thường và trên thế giới nầy khó có một dân tộc
nào sánh kịp.
Nhưng tại sao người Nhật nói tiếng Anh dở, mặc
dầu những nghiên cứu của họ từ tiếng Anh qua
tiếng Nhật hay ngược lại, thế giới nầy chẳng có
ai sánh bằng? Lý do đơn giản thôi. Vì lẽ tiếng
Nhật mẫu tự nhiều mà tử âm ít. Cho nên khi nhấn
dấu, họ ít thành công. Ví dụ như chữ Ohaijo
Gozaimasu (chào buổi sáng). Trong chữ nầy có 14
âm, mà có đến 8 mẫu âm và tử âm chỉ có 6 chữ.
Trong khi tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức,
tiếng Hoa, tiếng Việt tử âm nhiều hơn và có dấu
nhấn nhiều hơn; nên người những nước nầy học và
phát âm ngoại ngữ rõ cũng như nhanh hơn người
Nhật nhiều. Riêng phần gọi thức giấc buổi sáng
tại khách sạn như: „morning Call“ hay „Wake up“
mà họ đánh vần cũng rất khó nghe. Đa phần họ
phát âm theo chữ Katakana; chứ không phát âm
theo phiên âm của Anh ngữ học. Do vậy họ rất ít
dùng tiếng Anh để giao dịch. Tuy nhiên có nhiều
người học ở ngoại quốc về hay phục vụ tại công
sở hay phi trường và các cơ quan quốc tế thì
tiếng Anh rất giỏi.
Tại sao vật giá tại Nhật đắt đỏ thế? – Có lẽ vì
giá trị của sự lao động cao; không như các nước
Đông Nam Á khác; nên vật giá mới cao như vậy.
Người Nhật dạy cho con họ rằng: „Quê hương ta
chẳng có gì ngoài sông và biển cũng như núi cao,
rừng rậm; đất đai không có bao nhiêu. Các con
khi lớn lên hãy nỗ lực tự sức mình để xây dựng
quê hương đất nước nầy. Nhờ đó các con được an
phận để sống“. Người Nhật không dạy cho con cái
họ là: „Quê ta có tiền rừng bạc biển hoặc là hòn
ngọc của viễn đông, các con cứ thế mà tiêu xài“;
nên quê hương họ mới vững vàng trên giá trị của
con người và thiên nhiên là vậy.
Đoàn của chúng tôi đi thăm tượng Đại Phật A Di
Đà (cao 120 mét, lớn gấp 4 lần tượng Nữ Thần Tự
Do ở New York) do Phái Tịnh Độ Chơn Tông của
Ngài Thân Loan xây dựng tại tỉnh Ibaragi; gọi
đây là Ushiku Daibutsu, rồi đến Hoàng Cung của
Nhật Hoàng. Asakusa nơi Đức Quan Âm linh thiêng.
Sau đó di Nara và Kyoto để thăm chùa Đông Đại,
chùa Pháp Long, chùa Thanh Thủy, chùa Kim Các,
chùa Đông Bổn Nguyện và đến Hiroshima để đảnh lễ
Đức Địa Tạng không có đầu (Fuchu) và nơi kỷ niệm
quả bom nguyên tử đã nổ vào ngày 8.9.1945. Tất
cả đều là một giấc mơ, mà mọi người đã thực hiện
được.
Chùa Việt Nam tại tỉnh Kanagawa ở Nhật Bản đang
sừng sững đứng đó, chờ đợi những bàn tay trẻ
trung tiếp tục gây dựng và tài bồi. Vì thế hệ
của chúng tôi đã đi qua một chặng đường của lịch
sử. Tất cả đều là một dấu ấn, mà chúng ta không
hổ thẹn với tiền nhân. Vì chúng ta đã làm được
những gì trong khả năng của chúng ta và lịch sử
vẫn còn đó. Ngày mai đây trên bước chim Di của
đàn con Việt về sau nầy, có thể là 1.000 năm hay
2.000 năm nữa, họ sẽ nhắc lại ngày xưa ở thế kỷ
thứ 21 nầy đã có những con người như thế; cũng
giống như ngày nay chúng ta nhắc lại vào năm 752
(nghĩa là cách nay 1.260 năm) lễ khai nhãn cúng
dường tượng Tỳ Lô Giá Na Phật ở chùa Đông Đại
tại Nara do Thánh Vũ Thiên Hoàng mời gọi, mà
Thần Tăng của Ấn Độ là Ngài Bồ Đề Tiên Na và
Danh Tăng của xứ Phù Nam Lâm Ấp (Việt Nam) Ngài
Phật Triệt đã đến đây ngày ấy. Các Ngài đã dạy
cho dân Nhật những điệu múa Vu Lan và các bài
tán tụng cho Tăng Chúng, mà ngày nay vẫn còn lưu
lại tại chốn nầy. Ngày 1 tháng 11 năm 2012 người
đứng ghi tên cúng ngói để tu bổ chùa Đông Đại
cũng đã nhắc lại sự tích nầy cho chính tác giả
nghe. Nghe xong cảm thấy ngậm ngùi và cúi đầu
bái tạ ân đức của người xưa đã gieo rắc hương
thơm cho đến hậu thế cả gần 1.300 năm vẫn còn
phảng phất nơi trần gian nầy.
Sáng ngày 5 tháng 11 năm 2012, Phái Đoàn chúng
tôi đi thăm tượng Đại Phật tại Kamakura, sau đó
tiến ra phi trường Narita, rồi Haneda để lần
lượt chia tay, người về Âu Châu, kẻ đi Mỹ hay đi
Á. Tất cả những dặm đăng trình nầy đã ghi lại
một nỗi niềm, một tâm sự mà mọi người trên
chuyến hành hương lịch sử nầy đã nói cho nhau
nghe hay nghe nhau nói suốt trên các tuyến xe
Bus từ Tokyo đi Hiroshima cả hai chuyến đi về và
tâm sự đầy vơi tại chánh điện nơi Đức Địa Tạng
không đầu tại Fuchu vào một chiều thu lộng gió
với lá vàng rơi lả tả khắp tháp chuông chùa;
khiến cho ai nấy đều tự nhớ lại việc sanh tử của
mình, để rồi từ đó bước đi, không ngại ngùng
gian lao thử thách giữa chốn Ta Bà nầy.
Riêng tôi xin cảm ơn tất cả 85 tấm lòng. Trên từ
quý Thầy, quý Sư Bà, quý Sư Cô; dưới đến những
người Phật Tử Thân thương và những người theo
Đạo khác đã tháp tùng chung Đoàn đi trong lần
nầy. Nếu không có quý vị, tôi đã chẳng có thể
phục vụ được gì cả trên phương diện ngôn ngữ,
giao dịch, trao đổi cũng như giới thiệu về phong
tục, tập quán của xứ nầy đến quý vị, mà hơn 40
năm trước, tôi đã thọ nhận ân nghĩa của xứ nầy;
nên lần nầy hai ông bà Akiyama, người bảo lãnh
tôi vào Nhật, khi mình còn là một sinh viên Tăng
và Iyoda, người bạn học cùng Phân khoa Giáo dục
tại Đại Học Teikyo (Đế Kinh) từ năm 1973-1977
cũng đã hiện diện trong lễ Khánh thành Chùa
Việt Nam tại Nhật Bản vào ngày 4 tháng 11 năm
2012 vừa qua. Tất cả đều là những ân nghĩa nghìn
trùng.
Từ Bangkok đi Delhi, rồi Gaya. Từ Gaya đến
Singapore, rồi Sydney, Adelaide từ ngày 6.11 đến
ngày 19.11.2012 tôi một mình lẻ bóng với Đoàn;
nhưng bước đường còn lại cũng đáng nói nhiều
điều và tôi có ý ghi lại cặn kẽ để ngày sau có
người tìm hiểu có căn cứ mà dò tìm.
Đến Bồ Đề Đạo Tràng lần nầy không có người đi
đón; ngoại trừ tài xế Taxi mang bảng đón Sư Phụ.
Như vậy cũng đã an tâm rồi. Lần đi vào ngày 12
tháng 11 cũng không có người đưa tiễn. Từ từ rồi
tôi cũng quen dần với sự trống vắng nầy. Nhiều
lúc tôi cũng tập để chẳng bận lòng ai; dầu cho
đó là đệ tử xuất gia hay tại gia, muốn đi lúc
nào thì đi, muốn đến lúc nào thì đến; muốn ở bao
lâu cũng được; đến lúc không thích ở nữa thì đi.
Đời vốn tự tại như vậy, tại sao ta lại bị trói
buộc bởi chính mình để làm gì? Nhiều vị Tôn Túc
bảo tôi rằng: Ngày xưa đi đâu có cả đoàn đệ tử
đi cùng, mà sao nay lại chỉ một mình? Tôi nhoẻn
miệng cười đáp lễ bằng những chữ „nhân duyên như
vậy biết nói sao đây!“. Đã gọi là nhân duyên thì
chẳng có gì để trói buộc cả. Cái gì phải đến để
cho nó đến; cái gì đi hãy để cho nó đi. Hãy tập
bình tâm khi mọi việc thay đổi đến với mình. Lúc
ấy ta sẽ chẳng có gì để hy vọng và cũng chẳng có
gì để thất vọng cả. Đời vốn là thế, thì Đạo cũng
không ra khỏi sự chi phối của vô thường, sanh,
trụ, dị, diệt được.
Mỗi lần đến Ấn Độ trong 10 năm qua, tôi có những
công việc như: Tiếp xúc Tăng Ni sinh Việt Nam
nhận học bổng của Chùa Viên Giác và họ đang du
học tại Ấn Độ. Đảnh lễ nơi Đại Tháp hoặc tụng
kinh cầu nguyện. Làm phước bố thí cho những
người nghèo và cúng dường Trai Tăng. Chỉ chừng
ấy công việc thôi cũng tốn ít nhất là một tuần
lễ cho đến 10 ngày. Lần nầy có việc rải tro cốt
của Đạo Hữu Diệu Anh và con gái của Đạo Hữu
Thiện Phương nên tôi đã kết hợp việc lễ tam bộ
nhất bái lần thứ 2 vào ngày 10 tháng 11 năm 2012
vừa qua. Từ chân núi Linh Thứu lên đến đỉnh;
chúng tôi lạy con đường mà vua Tần Bà Sa La thuở
xưa cách đây 2556 năm về trước đã xuống ngựa, để
lên hương thất đảnh lễ Đức Thế Tôn. Tổng cộng
gồm 1.860 bước và 620 lạy của 36 người, cả Tăng
lẫn tục. Chúng tôi lạy một cách an lạc. Trong đó
có nhiều vị tu thiền như Ni Sư Giải Thiện đến từ
Việt Nam và đa phần là những người tu theo Tịnh
Độ và Mật. Khi lạy xuống đất, nhiều khi gặp cả
phân và nước tiểu của bò rừng; nhưng chúng tôi
đều vô ngại. Lúc ấy mình cũng hóa thân làm bò để
được bình đẳng với mọi loài như câu phục nguyện:
„Tình dữ vô tình đồng viên chủng trí“.
Sau 3 tiếng đồng hồ, kể cả ngơi nghỉ 2 lần tại
hóa thành nơi Linh Sơn kiều và hang động của
Ngài Xá Lợi Phất; cuối cùng rồi chúng tôi cũng
lạy đến đỉnh cao, vào đến Hương Thất của Ngài để
đảnh lễ. Trên đường đi cũng có lắm kẻ tò mò đứng
lại xem; nhất là những người theo Ấn giáo và Hồi
giáo; nhưng những người Phật Tử Thái Lan thì họ
quỳ xuống, cung kính lễ bái lại đoàn người lạy
tam bộ nhất bái, thật cảm động vô cùng. Cũng có
người đi lên không nổi phải dùng kiệu 2 người
khiêng; nhưng tất cả đều tâm thành thanh tịnh.
Những giọt mồ hôi nhễ nhại của tuổi 64 khi lạy
lên Hương Thất của Đức Phật, tôi thấy mình hạnh
phúc vô biên. Vì mình đã được tu, được học, được
hành trì và bên cạnh mình có không biết bao
nhiêu người cũng đang hưởng được những pháp vị
nhiệm mầu ấy. Đời người ngắn ngủi lắm. Tại sao
người ta không biết dành thời giờ để tu niệm mà
cứ thị phi nhơn ngãi, để rồi cuối cùng chúng ta
vẫn phải chôn xác dưới đám cỏ xanh rì, đâu có ai
ngó ngàng tới. Thế mà mấy ai biết được chữ ngờ.
Trung Tâm Tu Học Viên Giác tại Bồ Đề Đạo Tràng
có một thư viên xinh xinh, chứa độ 2.000 – 3.000
cuốn sách và tự điển gồm các ngôn ngữ như: Việt,
Anh, Đức, Nhật, Hán, Tây Tạng, Pali, Sanscrit
v.v... ai đó có thời giờ; nên ghé ngang qua đây
để thưởng thức những giá trị văn học Phật Giáo
được ghi lại thành văn nầy.
Chiều ngày 6 tháng 11 năm 2012 tôi ghé vào thư
viện và nhìn lên kệ sách thấy có quyển „Kim Các
Tự“ khá dày, đóng bìa cứng, độ 600 trang. Sách
được in năm 1970 và tác giả là Kimura; người
dịch sang tiếng Việt không cho biết là dịch từ
tiếng Anh hay tiếng Nhật; nhưng văn phong quá
tuyệt vời. Tôi say mê đọc trong 3 ngày thì xong.
Đây là một tác phẩm văn chương giới thiệu về vị
trí của ngôi chùa Kim Các ở Kyoto trải qua 4 mùa
mưa nắng trong lòng người Phật Tử. Có một Tiểu
Tăng con của một nhà Sư ở quê được gởi đến đây
để đi học. Vì thân phụ của chú Tiểu nầy và vị Sư
trụ trì là bạn đồng song ở Tỷ Duệ Sơn thuở còn
sanh tiền. Cuộc đời của chú Tiểu trải qua nhiều
giai đoạn khác nhau từ thiếu niên đến thanh
niên, rồi sa đọa, rồi trưởng thành. Tiểu nầy bị
Sư trụ trì la rầy về những hành vi bất chính;
nên chú ta chỉ có một tâm niệm là nên đốt chùa
thì vị Thầy kia không có cơ hội để trú ngụ tại
đó và la rầy chú nữa. Ngoài ra chú ta cũng muốn
thiêu rụi hình ảnh ngôi chùa biểu tượng của
Hoàng Gia Nhật và công chúng Phật Tử, để không
còn ai nhớ tưởng đến nữa. Tuy đã tìm đủ mọi
cách; nhưng kế hoạch bất thành và ngay cả người
Mỹ thả 2 quả bom nguyên tử tại Nagasaki và
Hiroshima vào ngày 6 và 8 tháng 9 năm 1945 để
ngày 15 tháng 9 năm 1945 Nhật Hoàng phải đầu
hàng vô điều kiện. Thế mà họ cũng chưa bao giờ
nghĩ đến việc đốt cháy Kyoto. Vì nơi đây những
ngôi chùa cổ hiện diện trên cả nghìn năm nay là
một giá trị văn hóa vô ngôn của quốc gia nầy.
Câu chuyện không có gì ly kỳ mấy; nhưng văn
chương thật là sáng sủa nhẹ nhàng, khiến cho
người đọc không muốn dừng. Đây là sự thành công
của tác giả và dịch giả. Ngày nay đa phần người
ta xem văn chương, văn hóa trên Internet, giống
như nấu mì ăn liền; cho nên tìm ra một hương vị
của văn hóa, thật là khó khăn vô cùng.
Những ngày nằm ở Trung Tâm Tu Học Viên Giác ở Bồ
Đề Đạo Tràng cũng là những ngày nhớ lại những kỷ
niệm lúc đi hành hương tại Nhật Bản từ ngày
29.10 đến ngày 5.11.2012 vừa qua. Chiều ngày 4
tháng 11 sau lễ khánh thành, trên đường về khách
sạn tại Atsugi bằng xe Bus, có học giả Đỗ Thông
Minh đi cùng xe và anh ta giới thiệu cũng như
trả lời nhiều câu hỏi thật là cặn kẽ cho những
kẻ phương xa đến Nhật. Có người đặt câu hỏi với
anh ta là: Nước Úc, nước Ấn Độ bị người Anh cai
trị hay nói chung những nước nào bị ảnh hưởng
với người Anh đều đi bên tay trái; riêng nước
Nhật, từ trước đến nay không bị người Anh cai
trị, tại sao họ vẫn đi bên tay trái mà không đi
bên tay phải? – Anh trả lời rằng: Ngày xưa các
võ sĩ đạo cỡi ngựa hay đi bộ, họ đều đeo gươm
bên tay trái và dùng tay mặt để tuốt kiếm khi
giao chiến với nhau. Nếu cả hai người đi đối
diện đều đi bên tay mặt thì kiếm sẽ dễ bị đụng
vào nhau. Cho nên người Nhật chọn bên tay trái
để đi. Như vậy cả hai bên đối diện nhau, kiếm
không va chạm vào nhau được. Có lẽ đây là cách
nghiên cứu riêng của học giả Đỗ Minh Thông. Mới
nghe qua cũng có lý; nhưng chúng ta chờ đợi thời
gian sẽ trả lời.
Có người hỏi tôi rằng: Bạch Thầy! Theo con thấy
hầu như các bức hình hoặc tượng của Tây Phương
Tam Thánh, Đức Phật A Di Đà đều dùng tay mặt
duỗi xuống để cứu độ lục phàm; nhưng tại sao tôn
tượng Đức Phật A Di Đà tại Chiangmai nơi Cực Lạc
Cảnh Giới Tự và tượng Đại Phật Ushiku ở Ibaragi
Nhật Bản, Ngài dùng tay trái để tiếp dẫn? Câu
hỏi nghe dễ mà trả lời đâu có dễ. Tôi trả lời ví
von cho mọi người cười là: Có lẽ người Thái và
người Nhật đều đi bên tay trái; nên Đức Phật A
Di Đà duỗi tay trái ra để dễ tiếp độ. Tuy nhiên
theo Thầy Hạnh Nguyện thì cho rằng: trong hình
cực lạc thế giới đồ, Đức Phật A Di Đà cũng tiếp
dẫn tay trái.
Điều tôi muốn trình bày ở đây với quý vị là ngày
10.11.2012 vừa qua, trước đó cũng như sau đó
trời mưa tầm tã; nhưng vào ngày nầy khi Phái
Đoàn của chúng tôi lạy tam bộ nhứt bái thì trời
quang mây tạnh lạ thường. Đây là kết quả của sự
linh thiêng qua 4 chặng đường đã đi và chặng
đường thứ 5 ở Adelaide, Úc Châu, cũng như vậy.
Quả là „Phép Phật nhiệm mầu“.
Lần nầy vào Úc, tôi gặp một chút trở ngại ở phi
trường New Delhi. Ngày nay New Delhi đã trở
thành bộ mặt chính của đất nước nầy. Từ phi
trường quốc nội sang ngoại quốc, hoặc ngược lại,
sự di chuyển thật thuận lợi không như Sydney của
Úc. Vả lại Ấn Độ mới xây lại sau; nên nhiều
phương tiện công cộng rất tiện lợi. Tuy nhiên
nếu so với các phi trường Singapore, Âu Châu và
Mỹ Châu thì có nhiều điều chưa bằng.
Những người có quốc tịch Âu Châu khi vào Mỹ và
Úc không cần đến Sứ Quán sở tại để xin Visa;
nhưng văn phòng du lịch phải xin Visa loại bằng
điện tử ETA trước khi vào đây. Visa thì có nhưng
ngày sinh của tôi sai; nên phải bỏ một chuyến
tàu, đến sáng hôm sau ngày 13 mới lên máy bay và
ngày 14.11 mới đến Sydney để ngày 15 đi
Adelaide. Thay vì quá cảnh tại Kuala Lumpur của
Mã Lai thì phải quá cảnh qua Singapore để đi
bằng máy bay của hãng Qantas. Lâu lắm tôi mới
trở lại Singapore. Lần nầy thấy lạ vô cùng. Có
đến cả 3 Terminal. Mỗi Terminal rộng lớn gấp
nhiều lần của những năm trước. Nếu Việt Nam muốn
bằng Singapore, chắc cũng phải chừng 50 năm nữa
mới theo kịp họ ở mọi phương diện, nhất là về
phương diện tự do.
Ngày 19, 20 và 21 tháng 11 năm 2012 là những
ngày trọng đại của Tăng Ni và Phật Tử Việt Nam
tại Adelaide nói riêng và nước Úc nói chung. Đó
là ngày Hiệp Kỵ Chư Lịch Đại Tổ Sư (Về Nguồn 6),
lễ Khánh thành Bảo Tháp Tam Bảo và lễ chúc thọ
Bát Tuần thượng thọ của Hòa Thượng Phương Trượng
Chùa Pháp Hoa Thích Như Huệ.
Thời tiết ở đây vừa hết xuân sang hè. Khí hậu
ngược lại với Âu Mỹ. Vì nước Úc nằm ở Nam Bán
Cầu; do vậy ở đây Đông thì ở kia Hạ; ở đây Xuân
thì ở kia Thu. Trước khi những buổi lễ bắt đầu,
đài truyền hình qua việc dự báo thời tiết cho
hay là suốt cuối tuần ấy thời tiết âm u, mưa gió
nặng hạt. Thế nhưng đã chẳng có hạt mưa nào rơi;
thỉnh thoảng chỉ có một vài cơn gió lạnh mang
đến từ vùng biển. Bầu trời quang đãng và đẹp
nhất là vào sáng ngày 18 tháng 11 năm 2012 vừa
qua; ngày khánh thành Bảo Tháp Tam Bảo, có cả
hằng trăm Tăng Ni, hàng ngàn Phật Tử và hơn 100
quan khách đại diện chính quyền Úc, kể cả đảng
đối lập đến tham dự và chúc mừng những ngày lễ
quan trọng nầy của đồng bào Phật Tử Việt Nam
chúng ta hiện cư ngụ tại Nam Úc.
Lễ chúc thọ của Hòa Thượng Thích Như Huệ vào tối
ngày 17.11.2012 là cơ hội để Môn đồ, Pháp quyến
bày tỏ tấm lòng của người học trò, Đệ tử đối với
Thầy mình qua một chặng đường dài suốt 80 năm
ấy. Không ai lại không mủi lòng khi nghe nhắc
đến những chuyện xưa. Tuy đơn thuần chất phác
nhưng đậm đà tình nghĩa Thầy trò sư đệ. Thật
đúng với câu:
Ơn giáo dưỡng một đời nên huệ mạng
Nghĩa Tôn Sư muôn kiếp khó đáp đền.
Đại diện cho môn phái Lâm Tế Chúc Thánh Hải
Ngoại, Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, chúng tôi,
Thượng Tọa Thích Hạnh Tuấn đi tặng Ngài 4 chữ:
HẠNH QUẢ VIÊN DUNG.
Đại diện môn phái Lâm Tế Chúc Thánh quốc nội Hòa
Thượng Thích Như Tín, Hòa Thượng Thích Giả
Trọng, Hòa Thượng Thích Như Thọ, Đại Đức Thích
Hạnh Minh đi chữ THỌ đậm nét màu vàng.
Các Châu Mỹ, Châu Âu, Châu Á và Canada đều có
quà tặng đến Ngài.
Phần tôi đã nhắc lại kỷ niệm gần 50 năm về
trước, khi Ngài còn làm Tuyên Úy (1964-1966) của
quân đội thuộc các đơn vị Phật Tử ở miền Trung;
rồi làm Giám đốc Trường Trung Họ Bồ Đề Hội An
(1966-1968), lúc ấy tôi đang theo học đệ ngũ và
đệ tứ. Đến năm 1969 tôi đi vào Sàigòn tạm trú
tại Chùa Hưng Long và sau khi đậu Tú Tài I
(1970), Tú Tài II (1971), tôi lên đường sang
Nhật du học năm 1972. Kể từ đó về sau tôi chưa
có dịp gặp lại Hòa Thượng một lần nào nữa. Thế
rồi vào một chiều thu gió lộng tại xứ Đức, cách
đây 32 năm về trước bỗng nhiên tôi nhận được
điện thoại của Ngài gọi đến từ Nhật Bản. Thầy
cho biết là Thầy được tàu của Na Uy vớt và Thầy
muốn đến Đức hay Na Uy để định cư.
Tôi thưa rằng: Bạch Thầy! Không nên, vì ở đây có
2 cái khó. Cái khó thứ nhất là ngôn ngữ Đức
không dễ dàng với người ngoại quốc; cái khó thứ
hai đối với tuổi già không kham nổi; đó là cái
lạnh và băng giá vào Đông, đôi khi trừ 20°C.
Nghe như vậy Thầy hỏi tôi. Vậy bây giờ nên đi
đâu?
Tôi thưa rằng: Ở Adelaide tại Úc, Hội Phật Giáo
Việt Nam đã được thành lập; nhưng chưa có Thầy;
nếu Thầy đồng ý, con gọi điện thoại qua ông Hội
Trưỡng Nguyễn Văn Tươi, nói ông ta làm thủ tục
bảo lãnh Thầy; giống như trường hợp của Thầy Bảo
Lạc cách đây một hai năm thì Thầy sẽ toại
nguyện.
Thầy hỏi ở Úc có gì?
Tôi thưa: Ở Úc có những tia nắng ấm vào hè mà Âu
Châu sẽ không có. Ở Úc có chôm chôm, ổi, mít,
rau muống v.v…
Thầy bảo: Như vậy thì hãy nói người bảo lãnh tôi
qua đó.
Độ chừng 3 tháng sau thì Thầy đã được Tòa Đại Sứ
Úc tại Nhật cấp Visa vào Úc. Từ đó ngôi Chùa
Pháp Hoa lần lượt trải qua các giai đoạn như:
thuê mướn, tạo mãi và trước đây 30 năm Ngài đã
chủ trương mua đất cất chùa. Năm nay kỷ niệm 30
năm Chùa Pháp Hoa hiện diện nơi miền Nam nước
Úc; tất cả đều do sự lãnh đạo của Ngài mà thành
tựu.
Đầu tiên khi tôi đến miền nầy vào năm 1979 họ là
những người Phật Tử làm việc chung trong một
Hội, lấy tên là Hội Phật Giáo Đông Dương (Việt,
Miên, Lào); nhưng qua nhiều đề nghị và phản ảnh;
nên tôi đã khuyên quý Phật Tử lúc bây giờ là hãy
nên tách rời Phật Giáo Việt Nam ra. Vì lẽ chúng
ta theo Phật Giáo Đại Thừa; những ngày chay tịnh
cần thể hiện rõ ràng. Còn 2 xứ kia theo Phật
Giáo Nam Tông tụng kinh tiếng Pali và việc dùng
tam tịnh nhục không hợp với Phật Giáo Việt Nam
mình mấy. Thế là thay đổi nội quy và bầu Ban
Chấp Hành mới. Giờ đây mời dự lễ kỷ niệm 30 năm
chùa Pháp Hoa, các vị Sư người Miên và người Lào
vẫn đến chung vui tham dự. Đúng là tinh thần của
người Úc, không phân biệt sắc dân và Tông Phái.
Điều nầy cũng ứng hợp với tinh thần trong quyển
Kim Các Tự mà tác giả Kimura đã viết như sau:
Vấn đề quan trọng không phải là dùng bạo lực để
thay đổi thế giới nầy, mà chính là tâm thức thay
đổi của con người. Trong quyển sách dầy cộm hơn
600 trang ấy tôi đã đón nhận thêm một ý tưởng
mới nữa. Đó là: Khi chiếc xe chuyển bánh thì con
người ngồi yên trong xe. Khi xe dừng lại thì con
người lại tiếp tục di chuyển. Đây chính là pháp
duyên sanh trong Đạo Phật vậy.
Bốn cây thạch trụ của Thiền Gia xứ Quảng cách
đây 50 năm về trước đó là: Cố Hòa Thượng Thích
Như Vạn, trụ trì Tổ Đình Phước Lâm tại Hội An;
Sư Phụ tôi Cố Hòa Thượng Thích Long Trí, trụ trì
chùa Viên Giác Hội An; Hòa Thượng Thích Chơn
Phát, trụ trì chùa Long Tuyền và Hòa Thượng
Thích Như Huệ, trụ trì chùa Tỉnh Hội Hội An kiêm
Giám đốc Trường Trung Học Bồ Đề Hội An. Trong 4
vị nầy, Thầy Như Huệ là người có nhiều phước báu
nhất; mặc dầu cuộc đời của Thầy cũng không bằng
phẳng mấy; nhưng khi càng lên dốc cao, mới thấy
được khả năng của người leo núi. Lúc ma chướng
bủa vây; chính là lúc chúng ta thể hiện lòng
kham nhẫn. Có như vậy „Phật Pháp mới nhiệm mầu“.
Tôi về lại Sydney ngày 19.11 và ngày 20 chúng
tôi hành trang lên núi đồi Đa Bảo để tịnh tu,
nhập thất và năm nay tôi cùng Hòa Thượng Sư
Huynh Thích Bảo Lạc sẽ viết chung một tập sách
để kỷ niệm trong 10 năm, sau khi không còn trụ
trì chùa Viên Giác Hannover, Đức quốc nữa, tôi
trở về ngôi Phương Trượng, cố gắng đóng góp phần
mình cho vấn đề dịch thuật, viết lách nhằm góp
phần tài bồi cho nền văn hóa Phật Giáo nước nhà
có thêm nhiều tư liệu mới bằng tiếng Việt.
Tôi rất vui khi mọi việc đã được thành tụu;
nhưng cũng sẽ chẳng buồn khi nhân duyên không
hội đủ. Với tôi, tất cả đều có ý nghĩa, dẫu cho
chỉ là một chiếc lá vụng về rơi lả tả đâu đó
trong sân chùa, trên sân gare hay ở một vùng quê
nào hẻo lánh. Tất cả đều là ân nghĩa. Tất cả đều
là phước
báu. Nếu không có họ thì sẽ không có mình. Trong
mình có họ, trong họ có mình. Ý nầy rút ra từ
bài „Lạy Mẹ Con Đi“ của Gia Huy đã hát trên
chuyến xe Bus từ Kyoto đến Nara và đây cũng là
một bài hát, một ý tưởng rất hay khi Gia Huy hát
tặng quý Thầy Cô nhân lễ Hiệp Kỵ lần thứ 6 tổ
chức tại chùa Pháp Hoa ở Adelaide từ ngày 16 đến
18 tháng 11 năm 2012 vừa qua.
Khép lại một trang văn, diễn tả sự nhiệm mầu qua
việc cầu nguyện, để những ngày tháng và lễ lộc
tại xứ người có được nhiều niềm hỷ lạc và chính
đây là động cơ đã giúp cho tôi viết xong bài nầy
trong một thời gian rất ngắn trên núi đồi Đa Bảo
qua 5 sự kiện vừa nêu trên.
Kỷ niệm lần tịnh tu nhập thất thứ 10
trên núi đồi Đa Bảo
vùng Blue Mountain ngày 22 tháng 11 năm 2012
THÍCH NHƯ ĐIỂN


|