Quê người, nhìn lại thời thơ ấu và tuổi đôi
mươi
Huy-Lực Bùi
Tiên Khôi

Tôi
sinh ra trong một gia đình trung lưu chỉ được
vài chục mẫu ruộng, nhưng từ thời ông nội, tất
cả gia sản đã dồn lại đầu tư vào một ngôi nhà
ngói tương đối rộng rãi đồ sộ nhìn ra cánh đồng
Lạc Điền, trải dài về phía nam tỉnh Bình Định,
nơi tôi mở mắt chào đời giữa sự hân hoan tột
cùng của mẹ tôi. Bởi vì “bất hiếu hữu tam, vô
hậu vi đại”, bất hiếu có ba điều, tội không có
con trai nối dòng là lớn nhất, nếu mẹ tôi sinh
con gái nữa, ông tôi bắt buộc ba tôi rước nàng
hầu. Sau này khi ba tôi đã sáu mươi tuổi, tôi
tinh nghịch hỏi cảm tưởng của ông trong thời
gian hồi hộp hể hả ấy, ba tôi chỉ mỉm cười mắt
nhìn vào dĩ vãng xa xăm nhớ lại cơ hội quý báu
của sự hợp thức hóa quyền uy nam tính trong lạc
thú đa thê mà vẫn êm ấm gia đình. Còn mẹ tôi, bà
hãnh diện bồng bế tôi đi lại trong gian nhà đầy
ắp đồ cổ bình sứ, đồ đồng rực rỡ sáng lóng lánh,
trên tường treo la liệt liễn đối hoành phi, giữa
những áng sách cao, những nghiên bút, chỉ có ông
tôi và ba tôi lúi húi tra khảo, tìm tòi. Lên năm
tuổi tôi bắt đầu gào lên: thiên là trời, địa là
đất trong sách Tam Thiên Tự, trước khi cầm bút
sắt học Quốc ngữ và Pháp văn. Lên mười tuổi, ban
ngày học lớp nhất trường tiểu học với một vị
thầy cầm thước bảng đánh vào mông học trò rướm
máu, nếu ai không đọc trôi chảy bài học thuộc
lòng Pháp ngữ récitation, đêm về vẫn phải nhồi
vào óc những “Tri nhơn, Ái nhơn” học cách biết
người và yêu người trong sách Luận Ngữ, một
quyển sách quan trọng trong bộ Tứ Thư, mà ba tôi,
vị thầy dạy tôi cả Pháp ngữ, lẫn Hán văn, bắt
tôi trèo lên kệ sách kính cẩn lấy xuống để trước
mặt người, rồi vòng tay đứng nghe ông giảng,
ngoan ngoãn hơn cả Bá Ngư, người con yêu của Đức
Khổng Tử đang hầu sách với cha. Hằng đêm tôi vẫn
phải ra rả đọc làu làu như vẹt kêu những câu như:
“Quân tử cầu chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân”,
người quân tử cầu nơi mình, căn bản do mình, kẻ
tiểu nhân cầu nơi người chỉ dựa theo người;
tiếng gào Nho giáo thống thiết lúc thiếu thời
quả thật chỉ giúp tôi có được một cái giọng tốt
sang sảng để hùng hồn ăn nói cho quãng đời bắt
đầu đi làm việc về sau...
Năm
1956, tôi thi đậu cả ba cuộc thi tuyển vào ba
trường chuyên môn: Sư Phạm, Y Tế và Canh Nông.
Ba tôi để cho tôi tự do quyết định, bởi vì “Nhậm
trọng đạo viễn” trách nhiệm thì nặng, đường thì
xa. Sự lựa chọn một nghề nghiệp để đi suốt cuộc
đời mình, để lập thân hữu dụng, để gây hứng khởi
trên con đường thi ca sáng tạo, quả là một suy
tư nhức óc cho cậu học trò mười tám chỉ quen với
sách vở và mơ mộng đầy trời nhưng thực tế chông
gai cuộc sống chưa bao giờ thực sự bước qua. Chị
tôi và bầy em nhỏ bé nai tơ theo dõi sự lấy
quyết định quan trọng của tôi trong bầu không
khí thật khẩn trương. Cuối cùng tôi đã chọn lựa
nghề nghiệp, sự lựa chọn này không dựa trên
những lượng giá quan trọng như ba tôi mong muốn,
nếu biết được ông sẽ vô cùng thất vọng cho đứa
con hời hợt, nông cạn, đã uổng công rèn luyện
đào tạo để bất cứ làm việc gì đều phải cân nhắc
với tất cả trí tuệ cùng sự hợp lý khôn ngoan.
Mùa
hè 1956, khi bài vở nhà trường cùng triết lý Nho
giáo đã ớn lên đến cổ họng làm điêu đứng cái
thân thể còm cõi gầy yếu của tôi, tôi lén ba tôi
mướn đọc quyển “Bàn tay máu” của Phi Long, một
quyển sách gây cảm giác mạnh hồi hộp kinh dị,
tác giả viết cho những người đọc dễ tính mua vui
trong lúc trà dư tửu hậu. Câu chuyện nhiều tình
tiết éo le bất ngờ sôi động, nhưng nếu tôi gặp
được tác giả để thảo luận thêm bớt chi tiết,
khiến câu chuyện trở nên hợp lý hơn, hấp dẫn lôi
cuốn hơn, và hy vọng quyển “Bàn tay máu” sẽ là
sách bán chạy nhất trên thị trường tiểu thuyết
trinh thám Việt Nam.
Trong
danh sách những thí sinh trúng tuyển vào trường
Quốc Gia Nông Lâm Mục khóa hai, tôi đọc trên một
tờ báo, có tên Lê Hữu Trung tự Phi Long, ắt hẳn
tác giả “Bàn tay máu”. A! Hắn đây rồi, còn đợi
gì nữa, không còn cách nào từ chối nữa cái cơ
hội để thảo luận ít nhất trong ba năm, viết lại
cho hay hơn quyển "Bàn Tay Máu".
Thế
là tôi khăn gói lên đường đi Blao nhập học.
Nhờ
cái tên Lê Hữu Trung có ghi thêm chữ tự Phi
Long, nhờ cái lý do không hợp lý nông cạn trong
việc chọn trường chuyên môn, đã mang đến cho tôi
vô số cái may hợp lý làm thỏa mãn những ước mơ
sâu xa của một tâm hồn phiêu lưu lãng tử, cuộc
sống thèm đi, thèm học hỏi với sao thiên di
thuận theo định mệnh ý trời. Chỉ riêng trước năm
1975, nhờ làm việc tại Bộ Canh Nông, tôi đã đặt
chân trên 15 quốc gia của quả đất này, mỗi ngày
dường như nhỏ bé hơn.
Thiên
nhiên và con người đã ảnh hưởng sâu xa đến tâm
hồn son trẻ mộng mơ của thời niên thiếu. Tuổi
lên mười, ngoài những ngày đi học, những bình
minh hồng tươi đẹp, tôi băng qua cánh đồng leo
lên đồi cát quê hương nhìn về hướng đông, biển
bao la xanh ngát một màu, mặt trời từ từ nhô lên,
đồi cát phơn phớt hồng dàn trải về xa, rực rỡ
lóng lánh. Gió mơn man khích động tâm hồn. Ngàn
liễu vi vu mơ hồ thánh thót. Tôi ngồi bất động
hàng giờ đắm chìm giữa trời nước bao la, tâm hồn
bay lên, bay lên mơ màng lảng đảng. Gió biển
nắng hồng quyện ướp thiên nhiên vào thân thể tôi,
ru cậu bé lên mười tan loãng vào vũ trụ bao la,
hư vô kỳ diệu. Ngày tháng trôi qua, ngoài thời
gian cắp sách đến trường, tôi chỉ tìm lại được
tôi, tôi chỉ thật sự sung sướng khi một mình đối
diện với thiên nhiên, đắm chìm trong trời nước
xanh biếc mênh mông, ngàn liễu ngân nga thì thầm
réo gọi. Và một ngày trong năm tháng tuổi thơ
tuyệt vời đó, trong một phút xuất thần, tôi bỗng
khẽ ngâm nga.
Bình
minh cười rực biển
Trăng
sao trốn cuộc đời
Hòn
bi hồng ai liệng
Nằm
trên cát chơi vơi
Bóng
đêm chạy trốn cuối trời
Gió
lên ngàn liễu tiếng đời vi vu…
A!
Tôi làm thơ và đó là bài thơ đầu đời của tôi,
của cậu bé lên mười.
Năm
mười tám tuổi, tuổi tràn trề nhựa sống ngập lụt
hoài bão ước mơ; cùng với hơn năm mươi bạn hữu
bốn phương tôi về trường Quốc Gia Nông Lâm Mục
Blao học tập. Trong ba năm trời, những chuyến đi
thật sâu vào núi rừng, đi đến những nơi ngỡ là
chưa bao giờ có người đặt chân tới, nằm trên
thảm lá mục nhìn lên vòm cây đan kín trên cao,
tiếng núi rừng âm ỉ dâng lên, trong cảnh tượng
hùng vĩ bát ngát, tôi đã say sưa ngây ngất quên
đời. Tình yêu thiên nhiên trong tôi càng thêm
sâu sắc phong phú hơn lên, với thời ấu thơ say
mê biển cả, tuổi đôi mươi ngây ngất đắm đuối với
núi rừng. Tôi thường ngắm biển như một người đẹp
trong bộ áo mong manh, tươi hồng thoải mái sau
khi tắm mát tẩy sạch bụi đời, và tôi thưởng thức
núi rừng như chiêm ngưỡng một giai nhân trong y
phục lộng lẫy màu thiên thanh, rực rỡ mời gọi
thế nhân về vui dự hội.
Ba
năm trời tại trường Quốc Gia Nông Lâm Mục, những
buổi chiều lang thang trên đồi trà, nhìn nắng
chiều dần dần chìm khuất, đồi trà mênh mông dàn
trải chạy tít mù xa, lớp lớp hàng hàng cây trà
xanh đổi màu xanh sẫm rồi bóng đêm chụp xuống
đen đậm, tôi đi giữa thiên nhiên bao la biến đổi
huyền diệu kỳ ảo, lòng rung lên muôn điệu, ngân
vọng theo đuổi cả đời tôi, chất ngất nỗi niềm
....
Một buổi chiều trong giảng đường vắng lặng, các bạn đã ra về
sau buổi học, riêng một mình tôi ngồi lại thưởng
thức tạp chí Bách Khoa vừa mới nhận còn thơm mùi
mực, trong đó có đăng bài thơ “Những nẻo đường
đất nước” của tôi. Chiều cao nguyên êm ả, con
người như quyện vào mây gió bay bổng lên cao,
nắng mịn màng như một giải lụa quấn quít đôi
chân, tiếng guốc gõ nhịp tiến dần đến giảng
đường nơi tôi đang ngồi nhìn chiều rơi, rung
động ... Áo dài màu trắng tinh khiết, dáng đi
uyển chuyển dịu dàng, tiếng guốc gõ đều theo
nhịp chân có chủ định, linh cảm báo cho tôi biết
giai nhân đang tiến về hướng tôi. Tôi từ tốn
đứng lên, đôi tay thừa thãi khoanh trước ngực,
mắt trong mắt đứng nhìn. Đôi má hồng bừng đỏ lên,
khóe thu ba chợt hạ xuống ngừng trên trang báo
Bách Khoa in đậm nhan đề bài thơ “Những nẻo
đường đất nước”, trong giây lát tiếng nói theo
hơi thở nồng xao xuyến:
-
Em đã đọc bài thơ "Những nẻo đường đất nước",
một bài thơ hay, một tuyệt tác của nhà thơ lớn.
Cám ơn thiên tài Huy Lực, cám ơn Anh...
Chỉ
có thế thôi.
Tiếng guốc xa dần, tà áo trắng mờ ảo chơi vơi
trong nắng chiều sắp tắt. Tôi thấy mình lớn dần,
vĩ đại bay bổng lên, phiêu bồng mênh mông hạnh
phúc. Cảm giác ấy lồng lộng choáng ngập trong
tôi hàng tháng, hàng năm ... Cho đến bây giờ,
khi đã vào tuổi sáu mươi, tuổi “lục thập nhi nhĩ
thuận”, đã từng nhận giải Văn Chương Nghệ Thuật
của Việt Nam Cộng Hòa, trị giá mười lạng vàng,
đã từng nhận nhiều giải thưởng tại Hoa Kỳ, có
giải thưởng lên đến gần trăm ngàn Mỹ kim, nhưng
chưa bao giờ tôi có cái cảm giác sung sướng hạnh
phúc bao la choáng ngợp tràn ngập mênh mông
trong tâm hồn như buổi chiều đẹp ru mơ ngày xưa
ấy ... Sự việc xảy ra thật ngắn ngủi, nhưng đúng
thời đúng lúc, hằng in sâu đậm vào tâm hồn niên
thiếu, thúc đẩy, khích lệ tôi bay bổng lên, rạng
rỡ tiến vào đời.
Những nẻo đường đất nước
(Đã được đưa vào chương trình Giảng văn
Trung học Việt Nam Cộng Hòa) - Huy
Lực Bùi Tiên Khôi
Tôi
đã đi
Từ Cà Mau ra Bến Hải
Tôi đã dừng lại
Khắp các nẻo đường
Nước xanh màu bát ngát đại dương
Hay trùng điệp núi rừng cao nguyên đất đỏ
Tôi đã qua
Khắp các đô thành nguy nga to, nhỏ
Bãi bể đồi thông
Lúa Hậu Giang bát ngát ngập đồng
Dừa Bình Định tô xanh miền cát trắng
Tôi đã gặp
Cô gái sông Hương tóc thề bay trong nắng
Vành nón nghiêng nghiêng che cả bầu trời
Tôi đã về
Miền quê nhỏ xa xôi
Trưa buồn tẻ theo tiếng gà eo óc
Tôi đã theo xe
Qua những quãng đường gian nan khó nhọc
Đà Lạt, Pleiku
Đất đỏ lên hương gió bụi mịt mù
Cảnh xơ xác hay thần tiên quái dị
Tôi đã nghỉ lại
Đêm trăng rằm Quảng Trị
Nằm nghe sông Bến Hải khóc chia đôi
Một chiếc cầu mà hai nhịp xa xôi
Vầng trăng xẻ đôi phần ngăn cách
Tôi đã ghé
Đồng U Minh qua bao bụi bờ sông lạch
Nước phèn chua bụi rậm quấn chân giày
Đêm
không mùng mặc cho muỗi no say
Sao
thổn thức trên đọt cây rừng cô quạnh
Tôi ở
lại
Thủ
đô chiều mưa tạnh
Đời
dâng lên những làn má căng tròn
Bàn
tay gầy xoay mạnh chiếc ly con
Bao
mộng tưởng ngất ngây cùng hớp rượu
Tôi
đã về
Phan
Rang với Tháp Chàm kỳ cựu
Canh
trường say trong giấc ngủ ru con
Giọng
hời... hời… não nuột héo hon
Nghe
nức nở tưởng chừng như đứt ruột
Tôi
đã lang thang
Giữa
đồn điền Ban Mê Thuột
Ly cà
phê chôn tiếng gọi lên đường
Trống
bập bùng đêm hội trên truông
Hoang
sơ quá lõa lồ cô gái thượng
Tôi
đã ngồi
Trên
đập đồng Cam khi nắng chiều đổ xuống
Theo
nước về cho đồng ruộng thêm tươi
Đôi
vợ chồng tát nuớc hò ơi!
Gầu
nước đổ theo tiếng lòng hối hả
Những
nẻo đường đã qua
Làm
sao tôi nhớ cả
Từ
quanh co khúc khuỷu ở thôn quê
Hay
đại lộ phẳng phiu tấp nập kẻ đi về
Thơm
biết mấy những nẻo đường đất nước
Những
người tôi gặp được
Dầu
lạ hay quen
Dầu
kẻ giàu sang hay lam lũ nghèo hèn
Dầu
cụ già bảy mươi, cô gái ngây thơ mười tám
Dầu
chị sinh viên trắng xanh
Hay
bác nông dân đen xạm
Dầu
Bắc Nam Trung
Ôi
đẹp làm sao duyên thắm vô cùng
Tôi
yêu cả những con người đất Việt
Những
chuyến đi qua rồi tôi rất tiếc
Làm
sao sống lại những con đường
Làm
sao về gặp lại kẻ yêu thương
Tôi
ao ước chuyến đi dài bất tận....

Năm
1954, hiệp
định Genève chia đôi đất nước, Việt Nam Cộng Hòa
từ Bến Hải đến Mũi Cà Mau là một nước nông
nghiệp, 90% dân số làm nghề nông nên Chính phủ
ưu tiên mở trường Cao Đẳng đào tạo chuyên viên
nông nghiệp và được vị nguyên thủ quốc gia đích
thân cắt băng khánh thành vào năm 1955.
Xin
được hồi tưởng về ngôi trường chuyên môn của tôi
sau 40 năm tốt nghiệp, bốn mươi năm thời gian bể
dâu sương khói đã nhòa nhạt xuôi giòng, riêng
tôi, sau khi giã từ Blao, đã qua nhiều ngôi
trường khác, nhưng xúc cảm và ấn tượng tốt đẹp
về ngôi trường xưa vẫn choáng ngập đậm nét hơn
bất cứ một ngôi trường nào đã trải qua sau này.
Sau
khi tỵ nạn ở Hoa Kỳ, tôi thường được mời đi
thuyết trình cho các sinh viên muốn lấy văn bằng
về môn Comparative Literature, tỷ giảo văn
chương, nên từ sự so sánh trong văn chương tôi
bị ảnh hưởng hay liên tưởng so sánh ngôi trường
mới với ngôi trường cũ rực rỡ hình ảnh ba năm
nội trú tuyệt vời.
Ngôi
trường Quốc Gia Nông Lâm Mục quả thật là ngôi
trường số một, chẳng những là ngôi trường vĩ đại
đầu đời của tuổi đôi mươi, mà còn là ngôi trường
dân sự chuyên môn đầu tiên vĩ đại nhất của Quốc
gia thời bấy giờ. Các bạn đừng cho tôi vì quá
yêu trường mà lộng ngôn đâu nhé! Tôi sẽ lần lượt
chứng minh từng điểm về ngôi trường đã đào tạo
ra những môn sinh làm cộng đồng nhân loại gần
gũi nhau hơn, hiểu biết nhau hơn, nhân ái tốt
đẹp hơn.
Miền
Nam Viêt Nam trong năm 1955, đâu có một ngôi
trường Cao Đẳng chuyên môn nào được cấp học bổng
$1,500 đồng một tháng. Khi tôi vào Tòa Hành
Chánh tỉnh Bình Định để lấy sư vụ lệnh và thông
hành đi máy bay miễn phí ra Huế, cô thư ký đánh
máy công nhật đưa giấy tờ chúc tụng tôi lên
đường: “Học bổng hằng tháng của trường Nông Lâm
Mục anh học còn lớn hơn tháng lương của em chỉ
$1,200 thôi”. $1,500 một tháng lúc bấy giờ mua
được nửa lượng vàng, hoặc 15 tạ gạo.
Nằm
bên tay trái quốc lộ 20, tại cây số 187 từ Sài
Gòn đi Đà Lạt, ngôi trường trải dài từ xã Tân
Bùi đến chợ Blao, rồi kế tiếp ranh giới sở trà
Pitchené. Diện tích ngôi trường kể cả khu ngũ
cốc, vườn cỏ (grass collection), thí điểm cây ăn
trái, vườn ương, vườn rau, vườn cam và đồng cỏ
(pasture) rộng đến 200 ha mẫu Tây tức là 494
acres mẫu Hoa Kỳ, rộng hơn bất cứ một ngôi
trường văn hóa chuyên môn nào trên nước Việt Nam
và rộng hơn cả đại học Rice ở Houston (300
acres), một trong những đại học tốt nhất Hoa Kỳ.
Du
khách đi Đà Lạt, khi xe tiến vào cây số 186 nhìn
qua tay trái những dãy biệt thự xinh xắn của
giáo sư Nông Lâm Mục, màu tường trắng nổi bật
trên khung cảnh xanh biếc của cây cỏ núi rừng.
Một số giáo sư của Đại học Sài Gòn và nhiều vị
giáo sư đại học khác, khi qua đây đã từng nhìn
bầu trời xanh, mơ ước được vào dạy ở nơi đây,
mỗi sáng ngồi trong biệt thự tiện nghi, uống trà
tươi nghe tiếng cỏ cây trăn trở thì thầm.
Cổng
vào trường được xây cất kiên cố, mang tấm bảng
hiệu to lớn chữ đỏ chói, đập vào nhãn quan gây
một ấn tượng bao quát vĩ đại cho du khách viếng
trường. Ba khu giảng đường nằm kế bên nhau lùi
dần về phía sau, nằm dưới những tàng cây xanh
biếc, ấp ủ khung trời thân yêu của ba năm sách
vở trong tay đến lớp học hành. Mỗi giảng đường
có ba bốn lớp học và phòng thí nghiệm. Những
chiếc ghế có gắn liền mặt bàn đánh vẹt ni bóng
lộn, hai bên tường kính mỹ thuật, ngồi trong lớp
có thể nhìn thấy đàn bướm chập chờn trên những
luống hoa sặc sỡ trước biệt thự của các giáo sư
hoặc nhìn qua phải, tầm mắt có thể đến tận khu
rừng xanh ngát trải dàn ra. Tôi bảo đảm với các
bạn là không có lớp học nào tiện nghi, thoải mái,
thơ mộng thú vị như lớp học của trường Nông Lâm
Mục Blao, kể cả so sánh với những đại học danh
tiếng nhất Hoa Kỳ.
Tháng
sáu năm 1987, tôi được mời dự lễ ra trường tại
đại học Harvard, cùng vui chơi với class
re-union, ngày họp mặt khóa của một đại học đã
thành lập cách nay 350 năm, đại học danh tiếng
nhất, lâu đời nhất tại Hoa Kỳ. Những cây cổ thụ
tàng lá sum sê, đầy những chú sóc chạy nhảy đùa
giỡn tung tăng trên thảm cỏ, những tòa nhà cổ
xưa kiến trúc kiên cố với những bức tường quấn
phủ đầy những cây trường xuân xanh thẫm, đến
những công trình kiến trúc của khu Carpenter
Center do kiến trúc sư nổi danh người Pháp Le
Corbusier vẽ kiểu mẫu mà bất cứ dân Harvard nào
đều hãnh diện giới thiệu với du khách. Tôi đã
thuyết trình trước bốn trăm sinh viên Harvard,
hơn một phần mười là người Việt về đề tài thi ca
Việt Nam, tại căn phòng mà thi sĩ Monroe Engel
đã đến đây để giảng về văn chương hiện đại. Sau
đó tôi đã yêu cầu các sinh viên Việt Nam hướng
dẫn tôi đi xem những lớp học từ nhỏ nhất có thể
chứa mươi người đến đại giảng đường có thể mời
hàng ngàn khán giả. Tôi phải hết sức thành thật
nhận định rằng không có một lớp học nào ở đại
học Harvard mà hội đủ những tiêu chuẩn, tiện
nghi, thoải mái, thơ mộng, thú vị như lớp học
của trường Nông Lâm Mục Blao.
Rời
khu giảng đường Nông Lâm Mục tiến qua cột cờ, ba
tòa nhà phòng ngủ của sinh viên, đầy tiện nghi,
tân kỳ nằm soai soải bên nhau nhìn ra mặt lộ,
mặt tiền mỗi tòa nhà được xây cất nhô ra, hai
cánh tả hữu hai bên, mỗi bên 6 phòng, mỗi tòa
nhà 12 phòng nơi sinh sống của 48 sinh viên.
Phòng rửa mặt cầu tiêu nằm chính giữa tầng dưới
và trên lầu là phòng tắm, phòng tập thể dục với
lan can để nhìn mặt trời dần dần chìm khuất,
hoàng hôn lặng lẽ bao trùm, đêm tối dâng đầy
tiếng rì rầm của núi rừng ngàn cây xao xác.
Phòng ngủ đó, cựu sinh viên chúng tôi đã có vô
vàn kỷ niệm và tôi phải một lần nữa chứng minh
không có một dormitory nào, kể cả những đại học
tốt nhất tại Hoa Kỳ như MIT (Massachusetts
Institute of Technology) có thể sánh được.
Đại
học MIT có một thủ tục đặc biệt, không có ở bất
cứ đại học nào khác. Trong năm thứ nhất sinh
viên chỉ cần học vừa phải để đậu, khỏi phải bị
đánh hỏng là đủ, giáo sư không phê điểm A,B,C,D
chỉ ghi rõ Pass hoặc Fail mà thôi. Nhất là thời
kỳ hoạt động độc lập, The Independant Activities
Period (IAP) là thời gian sau khi thi xong các
môn trong năm thứ nhất, sinh viên liên hoan, tổ
chức party, ăn chơi nhảy nhót thả dàn. Tôi được
mời đến thuyết trình tại MIT vào đúng thời kỳ
IAP năm 1989 với đề tài “Rượu và đàn bà trong
thi ca Việt Nam”, do hội Asian Student
Organization trả mọi chi phí, đây là một hội
hoạt động nổi tiếng nhất trong 280 hội đoàn tại
MIT, một đại học đào tạo ngành kỹ sư tốt nhất
trên quả đất này. Tôi còn nhớ rõ chuyến đi bộ
hàng giờ kỳ thú trong “hành lang vô tận” “The
Infinite Corridor”, một trong những con đường
hành lang liên tục dài nhất thế giới, từ dãy
dinh thự số 7 đưa đến dãy dinh thự số 3, 10, 4,
8, 16, 56 và cuối cùng vượt qua tòa nhà số 66
đến giảng đường, nơi đó đã có khoảng 300 sinh
viên hơn phân nửa là người Á Châu đang chờ đợi
tôi trong một căn phòng thật ấm cúng, trang trí
theo kiểu cách đông phương. Tôi đã đứng trên bục
gỗ chào mừng cử tọa và hổn hển thưa rằng: “Sau
chuyến đi bộ qua hành lang vô tận của MIT, tôi
đã kiệt sức và bây giờ nếu Eva có xuất hiện tôi
cũng đành chịu, tôi chỉ cần một ly rượu thôi…”
tức thì 300 sinh viên đồng đứng dậy vỗ tay hò
hét vang lừng cả vài phút, sau đó một nữ sinh
viên Việt Nam mang đến cho tôi một ly nước suối
trong lành. Uống xong tôi quay lại đặt ly nước
suối xuống bàn, định khởi sự thuyết trình thì
thấy trên bảng ai đã viết sẳn mấy chữ IHTFP, đây
là năm chữ đầu viết tắt của khẩu hiệu bán chính
thức tại trường MIT mà từ sinh viên đến giáo sư,
khoa trưởng mọi người đều biết, đều công nhận,
truyền khẩu từ trăm năm trước đến nay, để mô tả
cách thức tranh đua học hành gay gắt, học trối
chết thật đáng ghét, thật đáng chửi thề tại đại
học danh tiếng này. Tôi cầm viên phấn trên kệ
bảng, viết tiếp cho đầy đủ trọn chữ của câu này:
I Hate This Fucking Place (Tao ghét chỗ đéo kiếp
khó học này). Khi tôi quay lại cả 300 sinh viên
sững sờ vài giây rồi reo hò ầm ĩ la vang “Ông
đúng là giảng sư MIT vì đã biết rõ trường chúng
tôi".
Đêm hôm
đó, tôi nghỉ lại một trong mười tòa nhà ngủ của
MIT. Chỉ có một tòa nhà ngủ gồm toàn nữ sinh
viên và số còn lại nam nữ sinh viên sống chung
lẫn lộn. Điều lệ nam nữ sinh viên sống chung có
thể thay đổi từ tòa nhà này đến tòa nhà khác, có
tòa nhà nam nữ sinh viên sống riêng biệt phòng
với nhau, có nơi nam nữ sinh viên sống chung,
chỉ ngăn cách bằng một lối đi, hoặc bằng một bức
tường mong manh, cùng chia xẻ với nhau cầu tiêu,
phòng tắm. Tôi ngủ qua đêm vào loại phòng ngủ
cuối cùng này. Khi đặt lưng trên chiếc giường
nệm, sự thoải mái êm ấm thua xa bộ giường nệm
mới toanh tại căn phòng nội trú Blao, tôi thầm
nghĩ đây có thể là căn phòng nội trú của người
bạn khóa 2 Phí Minh Tâm thời Blao xa xưa của
chúng tôi và tôi muốn mời Phí Minh Tâm, cựu sinh
viên Nông Lâm Mục và MIT cùng lên tiếng xác
nhận rằng không có một toà nhà ngủ của sinh viên
bất cứ đại học nào, dù là những đại học tốt nhất
Hoa Kỳ như MIT, mà hội đủ tiêu chuẩn: tiện nghi,
thoải mái, thơ mộng, thú vị như phòng ngủ của
trường Nông Lâm Mục chúng ta.
Marcel Proust,
nhà văn bậc thầy của nước Pháp, đã dành 17 năm
chót của đời người để đi tìm thời gian đã mất
trong bộ trường thiên tiểu thuyết gồm 16 quyển,
4000 trang giấy, với nhan đề “À la recherche du
temps perdu” (Remembrance of things past). Đối
với tôi, trên con đường đi tìm lại ngôi trường
nông nghiệp của tuổi đôi mươi đã mất, xin ghi
lại bài thơ “Chúng Tôi” được cảm xúc nhân ngày
tốt nghiệp 1959, vài chữ trong 4 câu cuối được sửa
đổi cho hợp với hoàn cảnh bạn học cũ gặp lại ở
quê người.
CHÚNG TÔI
Chúng
tôi
những
người tám hướng
siết
tay nhau trên con đường lý tưởng
học
viện ba năm
chung
bước đường mòn
những
mái đầu non
bóng
đổ bên nhau chung đèn học tập
những
ngày vui dồn dâp
những
chiều buồn đuổi theo
thu
trên lộ hoa vàng
nắng
trải lụa gió reo ...
Tôi
nhớ
ngày
khai trường bỡ ngỡ
hè
cao nguyên
chiều
nhẹ vút lên không
những
chàng trai say gió núi mây hồng
tay
nặng sách đưa mắt tình theo ghé
nhiều
chị
giữa
đồi núi bao la thu mình nhỏ bé
làn
tóc xanh
giòng
suối óng ả bình minh
trời
xanh cao nắng gió dâng tình...
Những
sáng âm u
sương
mù lành lạnh
dấu
hai tay trong túi quần tà áo
đi
cạnh bên nhau
hạt
bụi đỏ bên đường
thổn
thức bước chân mau…
Những
chuyến thám du
trùng
điệp mênh mông núi rừng bát ngát
nối
vòng tay ôm non cao ca hát
mơ
ngày mai nước giàu mạnh an vui
chị
đi chăn nuôi
anh:
rừng núi
tôi:
ruộng đồng
chúng
mình cùng phục vụ non sông ....
Đêm
ngồi nghe thác Pongour vĩ đại
tấu
khúc thiên nhiên dào dạt xuân đời
tiếng
rừng đêm hoang dại
hồn
bay lên ngây ngất chơi vơi...
Đồi
trà mở hội hoa đăng
đêm
tốt nghiệp trăng khuya
chia
tay đường về run bóng
rượu
trong ly cùng nỗi buồn nổi sóng
nhưng
không bao giờ ngăn cách chúng tôi
chút
nắng thu rừng
vẫn
ấm mãi trên môi ...
Nhớ
về chúng tôi
những
hoa nông nghiệp mãn khai
dâng
đời nguyên vẹn
bốn
mươi năm sau không hẹn
gặp
nhau trên xứ lạ quê người
tìm
nhau trong đôi mắt buồn
vùng
trời Bảo Lộc nắng vàng tươi ...
Huy-Lực Bùi Tiên Khôi


|