THÀNH KÍNH TƯỞNG NIỆM

Cố Hòa Thượng THÍCH THIỆN NHƠN
(1931 -
2013)

BÀI PHÁP ĐẦU TIÊN
Giác Hạnh
– Lê Bích Sơn
Mỗi chúng ta gặp
vô số những con người khác nhau trên cuộc hành
trình Sanh - Tử, nhưng chỉ có một ít người lưu
lại trong ký ức chúng ta. Người mà tôi sẽ kể cho
bạn nghe hôm nay là Cố Hòa Thượng THÍCH THIỆN
NHƠN – người vừa tháo bỏ xác thân tứ đại để tiếp
tục một hành trình khác trên lộ trình đi về cõi
Tịnh.
Khi tôi viết
những dòng chữ này gởi đến bạn, bên kia bờ đại
dương xác thân của Ngài đang được tứ chúng gởi
vào lòng đất mẹ Việt Nam thiên thu.
Nhớ ngày đó - vào
năm 1987, Phật giáo quê tôi còn nhiều khó khăn,
chư Tăng nhiều chùa trong tỉnh ban ngày lao động
lo việc ruộng nương, đêm về an trú trong lời
kinh tiếng kệ, nên việc chư Tăng thuyết pháp hay
trai tăng là những từ nghe rất xa lạ vào thời
bấy giờ. Và ‘thời pháp chui’ của Ngài Thiện Nhơn
ban bố tại chùa Hưng Khánh năm ấy là bài pháp
lần đầu tiên tôi nghe trong đời. Sở dĩ tôi gọi
đó là ‘thời pháp chui’ vì nó diễn ra ‘bí mật’
trong lễ Quy Y Tam Bảo tại chánh điện chùa Hưng
Khánh; lúc đó Ngài Thiện Nhơn mới trở về từ
‘trại cải tạo’ vài năm nên chính quyền luôn theo
dõi. Chỉ có một số Phật tử thân tín của chùa
phát nguyện Quy Y Tam Bảo hôm ấy mới được tham
dự, cổng chùa đóng kín và ba chú ‘cẩu’ của chùa
làm ‘công tác báo động’, còn tôi được cử làm Thị
giả quạt hầu (thời đó chùa chưa có điện)…dù là
‘dự thính - không chính quy’ nhưng cũng nghe
được trọn thời pháp. Bài pháp Ngài nói năm ấy là
triển khai năm giới cho hàng cư sĩ hiểu với
những câu chuyện dẫn chứng rất hấp dẫn. Tôi còn
nhớ một trong những câu chuyện Ngài kể về gã
uống rượu rồi phạm các giới còn lại…
Lần thứ hai được
‘tiếp xúc chính quy’ với Ngài là giữa tháng 4
năm 2003. Lần đó tôi vừa đi khảo cứu từ Trung
Quốc trở về, Ngài xuống thăm Sư ông của tôi là
Cố Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, và dặn tôi lên Chùa
Thiên Đức trước khi trở lại Ấn Độ.
Lúc ấy Chùa Thiên
Đức đang trong giai đoạn trùng tu, Ngài hỏi tôi
có ý kiến gì không; tôi cúi đầu thưa: “Theo
con, cái gì có thể giữ lại được thì cố gắng giữ,
đừng đập phá những công trình kiến trúc do chư
Tổ khổ công tạo dựng. Nhiều ngôi chùa cổ đã bị
thế hệ trẻ đập phá không thương tiếc, trong khi
cái mới chưa thể hình thành. Trùng tu là duy trì,
làm mới cái cũ chứ không phải đập phá hết cái cũ”.
Tôi trình bày với Ngài về những cổng tam quan,
những ngôi bảo tháp của những ngôi chùa cổ là
những ‘di sản’ văn hóa vô giá. Và lý luận rằng
người ta có thể xây vô số bản sao của Chùa Một
Cột (Chùa Diên Hựu – Hà Nội) hay Tháp Phước
Duyên (Chùa Linh Mụ - Huế) nhưng không làm sao
thay thế được giá trị của ngôi tháp cổ hay ngôi
chùa gỗ nhỏ bé đã đi vào lịch sử và văn hóa dân
tộc. Ngài gật đầu…
Ngài hỏi tôi về
hiện tình Phật giáo Trung Quốc, tôi trình bày
rất nhiều về những điều chứng kiến trong chuyến
khảo cứu của mình với ngôn ngữ kính cẩn dành cho
các bậc trưởng thượng. Ngài lắng nghe một cách
chăm chú. Tôi chia sẻ rằng: ngày nay tại Trung
Quốc ‘người ta’ đã biến những tự viện Phật giáo
thành những điểm du lịch hơn là nơi tu học cho
Tăng ni và Phật tử, mỗi chùa đều có cổng bán vé
với giá từ 8 đến 40 nhân dân tệ (1 đến 5 USD)
cho mỗi Phật tử viếng chùa; Tăng sĩ tại Trung
Quốc hầu như không thấy nếu không muốn nói là
không được phép theo học tại các trường Đại học
của Trung Quốc, dường như những ngôi chùa không
được sự quản lý của chư Tăng mà do chính quyền
sắp xếp người của họ vào điều hành, và rất nhiều
chuyện không thể tin vào mắt mình. Ngài nói Ngài
cũng nghe một vài vị Tăng trở về từ Trung Quốc
trình bày như vậy. Ngài hỏi tôi có ý kiến gì cho
Phật giáo Việt Nam. Tôi kính cẩn trình bày cùng
Ngài việc ‘người ta’ sẽ cố gắng đưa những tự
viện vào danh sách ‘Di tích Lịch sử Quốc gia’
rồi sau đó đặt trạm thu phí, bán vé cho khách
viếng chùa, và từ từ kiểm soát tất cả những sinh
hoạt nội bộ của tự viện và Tăng ni. Việc này cần
cảnh giác cao độ, đó là âm mưu giết chết Phật
giáo mà Mao Trạch Đông đã từng áp dụng tại Trung
Hoa đại lục trong những cuộc ‘Cách mạng văn hóa’…
Câu chuyện lần đó
kéo dài hơn 6 giờ đồng hồ, lúc ấy trời đã tối
tôi đành phải cáo từ Ngài với lý do đường xá
không quen sợ lái xe ‘thăm’ ruộng. Sợ bất kính
với bậc Trưởng thượng, tôi thưa Ngài: “Dẫu
biết rằng kiến thức và kinh nghiệm của con còn
quá non nớt, nhưng những gì trình bày cùng Ngài
là nhiệt huyết của con. Kính xin Ngài lượng thứ
nếu có điều chi sơ xuất”. Ngài cười nói: “Hậu
sanh khả úy”; tôi vui miệng đáp lại: “Hậu
sanh khả ố thì có, thưa Ngài”.
Trước lúc từ biệt,
Ngài trao tôi một phong bì và nói: “Cái này
Thầy gởi con mang theo uống nước. Thầy biết anh
em bên ấy khó khăn, thiếu thốn mọi bề…”. Tôi
không dám nhận và thưa: “Chùa Thiên Đức đang
trong giai đoạn trùng tu, xin Ngài cho con cúng
dường để tạo phước…”, rồi lên chánh điện lạy
Phật và để lại phong bì trên Phật điện. Hai ngày
sau, Ngài đích thân sai đệ tử chở đến gia đình
của tôi ở ngã ba Phú Tài giao cho người thân và
nhờ chuyển lại tôi ‘món quà’ ấy. Sau này tôi đã
dùng lại số tiền ấy cùng qúy Tăng ni Bình Định
học tập tại Đại học Delhi thỉnh một tượng Phật
bằng đồng theo phong cách Ấn Độ cúng dường Ban
Trị sự Phật giáo Bình Định…
Năm tháng qua đi,
tôi được cơ duyên tham học nhiều nơi và có dịp
học hỏi cùng nhiều bậc trưởng thượng khả kính.
Dẫu rất ít khi tiếp xúc cùng Ngài, nhưng đạo
phong và cốt cách của Ngài làm tôi vô cùng kính
phục mỗi khi diện kiến. Đối diện với Ngài, ai
cũng phải kính nể cung cách nghiêm trang của một
bậc Long Tượng Thiền Môn, giọng nói của Ngài
trầm ấm, cử chỉ khoan thai, và đặc biệt cặp chân
mày trắng vút cao của Ngài hiện lên như một võ
tướng. Người ta thường ví Bình Định là ‘đất võ
trời văn’, riêng tôi mỗi khi có dịp chuyện trò
cùng huynh đệ thì sánh Ngài Thiện Nhơn như ‘quan
võ’ và Ngài Huyền Quang là ‘quan văn’ của Phật
giáo Bình Định.
83 năm cuộc
đời, hơn 70 năm mặc áo nhà Thiền, trải qua bao
thăng trầm của thế cuộc, nước nhà nhiều lần thay
ngôi đổi chủ, tổ quốc trải qua mấy chế độ khác
nhau, không hận kẻ đã đem mình bỏ tù – không xu
theo những lời xảo trá, Ngài uyển chuyển đi giữa
những làn đạn ác liệt của thế nhân như ‘Tượng
vương’ dũng mãnh xông lên giữa chốn hồng trần để
duy trì tâm nguyện: “Truyền Đăng Tục Diệm
– Kế Vãng Khai Lai”.
Thành kính đảnh
lễ giác linh cố Hòa Thượng thượng THIỆN hạ NHƠN
- bậc Đạo sư dõng mãnh như ‘Sư tử tần thân’ và
uy nghi như ‘Tượng vương hồi cố’!
Tri ân Ngài –
người đã để lại trong tâm con bài pháp đầu tiên
trong đời!
Atlanta, Georgia
– Hoa Kỳ, 23/4/2013
Giác Hạnh
– Lê Bích Sơn


|