Các Học Phái Phật Giáo
Nguyên tác Fabrice
Midal
Hoàng Phong
chuyển ngữ
Các học phái chính yếu trong Phật Giáo
Con đường của Đức Phật luôn nhắc nhở
chúng ta cố tránh sự suy đoán cũng như tạo dựng
ra những khái niệm, vì đấy là những gì thường
hay đánh lừa mọi người khiến cho chúng ta dễ bị
lạc hướng trong cuộc hành trình đưa đến Giác Ngộ.
Cũng thế,
nếu quan trọng hóa một cách quá đáng sự khác
biệt giữa các học phái thì điều này sẽ khiến cho
chúng ta dễ bị rơi vào sự sai lầm.
Toàn bộ các học phái cũng như các giáo
phái đều đi đúng với con đường của Đức Phật. Tất
cả đều mang tính cách đích thật.
Đạo Nguyên (Dogen), một trong các vị
sáng lập ra thiền phái Zen của Nhật Bản đã từng
nói như sau: "Bất cứ ai xem Zen như là một giáo
phái Phật Giáo và gọi đấy là "zen-shu" tức có
nghĩa "môn phái Zen", thì người ấy nhất định là
một con quỷ sứ" (có
nghĩa là Zen cũng chính là Phật Giáo như tất cả
các hình thức tu tập Phật Giáo khác, đấy không
phải là một giáo phái - sect).
Lời giảng dạy của Đức Phật không thể nào
được diễn dịch giống nhau tại mỗi nơi, và qua
từng thời đại thì những lời thuyết giảng ấy của
Ngài cũng không thể nào còn giữ nguyên vẹn và
hoàn toàn bất biến được
(Đức Phật tuy đã tịch diệt, thế nhưng hóa thân
của Ngài vẫn hiện hữu dưới nhiều thể dạng khác
nhau, xuyên qua các hình tướng thân xác khác
nhau để thuyết giảng tùy theo nhu cầu và trình
độ của mỗi chúng sinh, thuộc vào các không gian
và thời gian khác nhau. Nói cách khác là giáo
huấn của Đức Phật thích nghi với văn hóa và tâm
tính con người tại mỗi địa phương qua dòng tiến
hóa của lịch sử). Cũng thế, xuyên qua
từng bối cảnh các vị hiền nhân lần lượt xuất
hiện qua các phong thái khác nhau để nêu cao và
quảng bá Đạo Pháp của Đức Phật, thế nhưng chẳng
có một vị nào giống với vị nào cả
(Long Thụ, Thánh Thiên,
Đạo Nguyên, v.v và v.v..., và hiện nay là Đức
Đạt-Lai Lạt-ma, tất cả đều nắm tay chúng ta để
cùng ca ngợi Đạo Pháp của Đức Phật, dù đấy là
bằng một thứ ngôn ngữ nào, trong một không gian
nào hay một thời đại nào).
Một số người hình dung Đức Phật như là
một vị Giác Ngộ đang trong tư thế thiền định -
để cứ như vậy mà bắt chước theo - , trong khi đó
thì một số người khác lại quan tâm nhiều hơn đến
ý nghĩa hàm chứa trong những lời giảng huấn của
Ngài - để mang các lời giảng huấn ấy ra mà hăng
say nghiên cứu và học hỏi - , một số người khác
nữa thì lại nhìn Đức Phật như là một thể dạng mở
rộng của thực tại - để phát động những kinh
nghiệm cảm nhận qua tâm linh tỉnh thức của mình...
(tác giả tóm lược
thật ngắn gọn tất cả các đường hướng tu tập
trong Phật Giáo theo ba xu hướng khác nhau).
Riêng về phần chúng ta thì sao? Chúng ta
đang hướng nhìn vào Đức Phật dưới một khía cạnh
như thế nào?
Dù sao đi nữa nếu nhìn vào hiện trạng
thời nay thì chúng ta cũng có thể phân loại các
khuynh hướng khác nhau trong Phật Giáo dựa trên
các tiêu chuẩn địa lý.
Trong vùng Đông Nam Á thì Theravada
(có thể tạm thời xem là
đại diện cho "Phật Giáo Nguyên Thủy")
chủ trương một con đường mang tính cách khá lý
tưởng: tức là con đường của những người xuất gia.
Ở Trung Quốc và Nhật Bản thì Phật Giáo
lại mang tính cách đa dạng hơn, nhiều học phái
cùng sinh hoạt song song với nhau. Trong số này
có Thiền Học Ch'an và Zen (Zen là một thuật ngữ
Nhật Bản dịch âm từ thuật ngữ Ch'an của Trung
Quốc) và các học phái này thì lại chú trọng
nhiều hơn đến hình thức tu tập mang tính cách
đơn giản (đơn sơ,
tinh khiết) dựa vào phép thiền định.
Phật Giáo Tịnh Độ tuy rất ít phát triển
ở Tây Phương thế nhưng ở Á Châu thì từ nhiều thế
kỷ nay đã từng tạo được nhiều ảnh hưởng sâu rộng,
thí dụ như tại Nhật Bản thì Tịnh Độ chiếm giữ
một vị thế hàng đầu. Đấy là một tông phái Phật
Giáo chủ trương phải đặt hết niềm tin của mình
vào những lời ước nguyện của vị Phật biểu trưng
cho Lòng Từ Bi (Phật
A-di-đà), đấy là lời ước nguyện nhằm
cứu độ bất cứ chúng sinh nào cầu khẩn đến Ngài -
chúng ta sẽ trở lại vấn đề này trong các đoạn
sau.
Trong tất cả các quốc gia khác thuộc
vùng Hy-mã-lạp-sơn thì Phật Giáo lại phát triển
dựa vào một hình thức thụ giáo gồm có các nghi
lễ truyền giới, và được gọi là Tan-tra
(chính ở điểm này mà
nhiều người hiểu sai Phật Giáo Tan-tra và gọi
đấy "Mật Tông", thụ giới hay thụ pháp chỉ là các
hình thức nghi lễ mang tính cách thiêng liêng
biểu trưng cho lòng quyết tâm của người tu tập
bước theo con đường của Đức Phật).
Hình thức Phật Giáo này đặc biệt chú trọng đến
các nghi lễ và các biểu tượng nhằm giúp hoán
chuyển một cách thật đột ngột thể dạng u mê để
trở thành thể dạng trí tuệ. Phép tu tập của Phật
Giáo Tan-tra nhất thiết dồn tất cả nỗ lực nhằm
hướng thẳng vào sự Giác Ngộ.
Cách phân loại trên đây dù rất khái quát
nhưng cũng có thể giúp để xác định được các
đường hướng chính trong Phật Giáo là: Theravada,
Zen, Tịnh Độ và Tan-tra.
Trong khi đó thì kinh sách nói chung lại
không dựa vào cách phân loại căn cứ vào các tiêu
chuẩn địa lý như trên đây mà chỉ nêu lên hai
khuynh hướng khác nhau đấy là Tiểu Thừa (Hinayâna)
và Đại Thừa (Mahayâna). Thuật ngữ
Thừa (cỗ xe)
dùng để chỉ định các phép tu tập khác nhau trên
Con Đường.
Sự phân biệt giữa Tiểu Thừa (Hinayâna)
và Đại Thừa (Mahayâna) có thể xem
là chính đáng hay không?
Chữ Thừa (yana)
được sử dụng để biểu trưng cho giáo huấn của Đức
Phật dựa vào một hình ảnh cổ truyền và lâu đời
trong nền văn hóa Ấn Độ, đấy là hình ảnh một
người lái đò đưa khách sang sông. Người lái đò
biểu trưng cho một vị thầy tâm linh đưa chúng
sinh vượt sang bờ bên kia của con sông khổ đau
hay cõi luân hồi. Kinh Hoa Sen thì
lại ví giáo huấn của Đức Phật như là một cỗ xe
giúp chúng sinh vượt thoát khỏi một gian nhà
đang bốc cháy tượng trưng cho sự lầm lẫn.
Cách phân chia Phật Giáo thành hai
khuynh hướng là Đại Thừa và Tiểu Thừa đã thành
hình vào thế kỷ thứ I. Một nhà sư người Trung
Quốc là Yijing (Nghĩa
Tịnh, 635-713) sang Ấn Độ hành hương
vào thế kỷ thứ VII có kể lại như sau: "Những ai
tôn thờ các vị bodhisattva
(bồ-tát) và
trì tụng kinh sách mahayâna thì được gọi
là những người tu theo Đại Thừa, các người khác
là những người tu theo Tiểu Thừa. Tất cả các vị
này đều cùng sinh hoạt chung trong một ngôi chùa
và giữa họ không hề xảy ra một sự phân chia nào
cả".
Các nhà sư đại thừa vẫn tôn trọng các
nguyên tắc giáo lý do Đức Phật đã đưa ra, thế
nhưng lại giải thích một cách khác hơn bằng một
số tư tưởng mới mẻ và khá đặc thù.
Thế nhưng theo thời gian, dần dần hai
hình thức Phật Giáo này lại cho thấy có xu hướng
tách rời nhau, các vị chủ xướng Phật Giáo xưa
không chấp nhận con đường của phong trào cải
tiến.
Thật sự
ra thì thuật ngữ Hinayâna (Tiểu Thừa)
chỉ mang một ý nghĩa nào đó đối với những người
chủ trương khuynh hướng đại thừa mà thôi, bởi vì
đấy chỉ là một thuật ngữ do những người đại thừa
đặt ra nhằm phê bình và xem thường quan điểm
của những người không chia sẻ cùng một khuynh
hướng với mình, và cũng để đánh giá quan điểm ấy
là "nhỏ hẹp" (tiểu).
Thế nhưng thật sự ra thì cũng phải nói
là trên một khía cạnh khác thì sự phân biệt giữa
Hinayâna và Mahayâna lại là một
phương tiện hết sức hữu ích để giúp tìm hiểu
Phật Giáo - tất nhiên là riêng đối với những
người đứng vào phía quan điểm của Mahayâna
mà thôi (nên hiểu
rằng người "tiểu thừa" không cần biết đến "đại
thừa" là gì cả, bởi vì đấy chỉ là một chủ trương
hay một khuynh hướng "mới" trong Phật Giáo, hoặc
giả cũng có thể là một "khía cạnh" nào đó đã có
sẵn trong Phật Giáo từ nguyên thủy và chỉ được
triển khai rộng rãi hơn sau này mà thôi).
Do đó Mahayâna có thể xem như là một cách
giải thích về một số lời giáo huấn của Đức Phật
dựa vào một phép suy luận mạch lạc và khác hơn.
Vậy chúng ta hãy thử tìm hiểu hai khuynh hướng
này xem sao.
Hinayâna (Tiểu Thừa) là gì?
Thật
ra trên
thực tế thì thừa này chẳng hề đại diện cho bất
cứ một học phái thật sự và cụ thể nào cả, và sở
dĩ gọi là "con đường hẹp" bởi vì nó không hề gạt
ra một bên bất cứ gì cả
(gò bó).
Không được phép loại bỏ ra khỏi con đường bất cứ
một thể dạng nào trong cuộc sống của chính mình.
Con đường ấy luôn khuyên chúng ta phải chú tâm
thật mạnh vào từng hành động
(dù là nhỏ nhặt)
mà mình đang thực thi nhằm giúp mình không phạm
vào sự lầm lẫn (tức
là tránh được những hành động vô minh, nói cách
khác là phải luôn giữ tâm thần trong trạng thái
tỉnh thức). Đấy
là một con đường vô cùng vững chắc, cứng rắn,
kiên trì, trung thực và nghiệt ngã. Thế nhưng
đấy cũng lại là những gì thật cần thiết và không
thể thiếu sót đối với bất cứ ai thật sự muốn
bước theo con đường của Đức Phật.
Không cần phải quan tâm đến sự khổ đau
mênh mông đang chi phối mình, cũng không cần
phải câu nệ và lo lắng quá đáng đến các chủ đích
của mình, mà phải biết lắng nghe và
tuân
theo những lời giảng dạy của Đức Phật.
Hynayâna (Tiểu
Thừa) là cách chú tâm nhằm biến cải
từng chi tiết trong cuộc sống, tức không được
phép làm cho thế giới bị ô uế vì các hành vi
thiếu cảnh giác của mình, trên phương diện ngôn
từ, hành động cũng như tư duy.
Mahayâna (Đại Thừa) là gì?
Mahayâna
(Đại Thừa)
được triển khai không phải là để thay thế cho
Hynayâna (Tiểu Thừa),
mà từ căn bản tự nó đã hàm chứa sẵn các tính
cách đặc thù của nó, tương tự như một gian nhà
được xây dựng thẳng trên nền móng của chính nó.
Muốn hiểu Đại Thừa là gì thì cũng phải nắm vững
được hết ý nghĩa của chữ "Đại". "Đại" là một thứ
gì đó thật to lớn, bao hàm tất cả và có khả năng
đón nhận được tất cả
(trong Phật Giáo Đại
Thừa thì ngoài Đức Phật lịch sử là Đức Thích-ca
Mâu-ni ra còn gồm có cả vô số các vị Phật khác,
các vị Bồ-tát, các vị thánh thần địa phương -
nào là thổ địa, quan công, ông táo... và cả thần
tài. Đối với việc tu tập thì cũng gồm nhiều
phương pháp khác nhau: từ thiền định đến các
cách thực thi nghi lễ, phát động lòng từ bi,
tụng niệm hồng danh của một vị Phật, trì tụng
các câu thần chú mang tính cách linh thiêng, v.v...).
Không thể nào nắm bắt được cái "Đại" to lớn ấy
bởi vì nó vượt lên trên mọi khái niệm, thoát ra
khỏi mọi giới hạn chật hẹp thuộc lãnh vực quy
ước của chúng ta (tuyệt
vời thay một câu định nghĩa về Đại Thừa của tác
giả, chúng ta hãy nhìn vào đấy để đừng chê trách
những người thờ ông địa, ông táo... và ông thần
tài. Mở rộng lòng mình, kính trọng tất cả, yêu
thương tất cả, kể cả ông táo lọ lem đang cầm
chiếc quạt trong bếp).
Bước vào
con đường rộng lớn là cách tự chọn cho mình một
thái độ quả cảm, không để cho sự sợ hãi và cách
so đo tính toán cũng như các quyền lợi cá nhân
chi phối và kiềm tỏa mình.
Quả cũng hết sức ngạc nhiên là thế giới
Tây Phương không hề nhận thấy được khía cạnh "Vĩ
Đại" đó của con đường Phật Giáo
(Tây Phương chỉ biết
chú trọng đến tính cách khoa học, triết học và
lôgic của Phật Giáo), đấy là con
đường phản ảnh một hình thức biểu dương phong
cách "anh hùng tính"
(heroism)
tuyệt đối nhất, thế nhưng Phật Giáo dưới khía
cạnh đó lại chính là hình thức Phật Giáo phổ
biến hơn hết tại hầu hết Á Châu
(một thái độ thật "anh
hùng" tàng ẩn một cách kín đáo phía sau các thái
độ bao dung, buông xả, tha thứ, từ bi và sẵn
sàng chấp nhận tất cả... của một người quyết tâm
bước theo con đường của Đức Phật).
Cái phong cách "anh hùng" đó đã được
Tịch Thiên (Shantideva,
683-763) đề cao trong tác phẩm thật
tuyệt vời của ông là Nhập Bồ-đề Hành Luận
(Bodhicaryâvatara):
"Tôi ước nguyện xin được làm người bảo bọc
cho những kẻ lang thang,
Tìm đường cho những người đi lạc,
Được làm thân con đò, một khoang thuyền lớn, một
nhịp cầu cao,
Giúp cho tất cả những ai muốn vượt sang bên kia
dòng sông nước cuốn!
Tôi nguyện ước được làm một hòn đảo cho những ai
muốn tìm chốn dung thân,
Một ngọn đèn cho những ai đang bước đi trong tối,
Một chiếc giường cho những người mỏi mệt,
Một kẻ nô tì cho những ai cần người sai bảo!
Tôi cầu xin được làm viên bảo châu giúp thực
hiện tất cả những lời nguyện ước,
Một chiếc bình mầu nhiệm,
một câu thần chú mang lại sự viên mãn,
Một phương thuốc chữa được mọi bệnh tật, một gốc
cổ thụ để mọi người đến cầu xin,
Một con bò cho thật nhiều sữa để hiến dâng cho
cả thế giới này!"
Thoạt nhìn thì các câu thơ trên đây có
vẻ khá phóng đại! Thế nhưng
Đại Thừa
thì lại chính là như thế, luôn khuyên chúng ta
hãy thực hiện những gì vượt cao hơn khả năng của
chính mình bằng một sự quyết tâm thật mãnh liệt,
và đấy cũng là cách giúp chống lại sự dửng dưng
chỉ biết tính toán và cân nhắc vì quyền lợi
riêng tư của chính mình.
Đại Thừa là một bước nhảy xổ vào một nơi
mà không cần biết trước đấy là đâu, chỉ hiểu
rằng mình đang xông pha vào một sự rộng mở,
trung thực và không bao giờ lầm lẫn.
Sự cao quý đó chỉ đòi hỏi chúng ta một
điều kiện duy nhất là sẽ không rời bỏ thế giới
luân hồi. Vì lòng từ bi đối với tất cả chúng
sinh, chúng ta nguyện cầu sẽ mãi mãi lưu lại bên
cạnh họ trong cảnh tù đày nơi cái thế giới đó.
Sự quyết tâm ấy sẽ cắt đứt lòng tham chỉ
biết vơ vét tất cả cho riêng mình, và thúc đẩy
người tu tập đến một mức độ khiến cho họ chối bỏ
cả sự giác ngộ. Nếu nhìn dưới khía cạnh ấy thì
sự mong cầu đạt được giác ngộ cho chính mình
cũng chỉ sẽ là một niềm ước vọng quá hẹp hòi và
thấp kém. Phải dồn tất cả mọi sinh hoạt của mình
vào mục đích giải thoát tất cả chúng sinh thoát
khỏi khổ đau, và không được loại trừ một chúng
sinh nào.
Thật thế nếu mong cầu đạt được giác ngộ
cho riêng mình thì tất nhiên tự nó cũng đã là
một sự mâu thuẫn đối với ý nghĩa trên đây. Nếu
giác ngộ là một cách "loại bỏ" mọi sự bám víu
vào cái ngã tức là vào tất cả các ý đồ cá nhân,
thì làm thế nào để mà "đạt" được nó?
("loại bỏ cái ngã" nhằm
để đạt được giác ngộ, thế nhưng "mong cầu đạt
được giác ngộ" - cho mình - thì lại là một hình
thức "nuôi nấng cái ngã", sự mâu thuẫn chính là
ở chỗ ấy). Đại Thừa Phật Giáo thật
mạch lạc. Chối bỏ giác ngộ chính lại là con
đường đưa đến giác ngộ. Đấy là cách giúp chúng
ta biết mở rộng lòng mình. Có một thứ gì đó đang
réo gọi chúng ta (vậy
thì cái gì đang réo gọi chúng ta bây giờ? Đấy là
lòng từ bi, và tàng ẩn thật kín đáo phía sau
lòng từ bi vô biên ấy là sự giác ngộ của chính
mình. Tóm lại không nên đặt sự giác ngộ ra phía
trước để nhìn vào đấy làm mục tiêu mà hãy nêu
cao lòng từ bi và "cất dấu" đi cái ngã của chính
mình).
Tất cả các học phái Phật Giáo không chia
sẻ cùng một cách nhìn như thế. Tuy nhiên theo
tôi thì quan điểm ấy lại là đỉnh cao nhất và
cũng là khía cạnh tuyệt vời nhất trong toàn bộ
giáo huấn của Đức Phật. Đấy là cách giúp chúng
ta biết lắng nghe tiếng réo gọi của sự thật vang
lên từ trái tim của con người.
Nên chọn Tiểu Thừa hay Đại Thừa, và có thể bắt
đầu tu tập ngay với Đại Thừa hay không?
Tiểu
Thừa và Đại Thừa không phải là hai học phái khác
nhau mà thật ra chỉ là hai thái độ hành xử khác
nhau trên con đường. Thái độ thứ nhất
(Tiểu Thừa)
thì khuyên chúng ta phải hành xử thật chính xác
và luôn buông xả, còn thái độ thứ hai
(Đại Thừa)
là phải mở rộng con tim của mình đến vô tận.
Không thể nào thực hiện được cách thứ
hai (phép tu tập Đại
Thừa) nếu chưa đủ sức nắm vững được
cách thứ nhất (phép
tu tập Tiểu Thừa). Tuy nhiên sự
chuyển tiếp đó cũng có thể tự động xảy ra. Vào
một lúc nào đó trên con đường, tiếng réo gọi của
sự rộng mở ấy cũng chợt vang lên một cách tự
nhiên.
Sự réo gọi đó không phải chỉ xảy ra một
lần và sau đó thì im bặt. Khi đã bước theo được
con đường tiểu thừa thì đến một lúc nào đó nhất
định là các ước vọng mang tính cách đại thừa
cũng sẽ hiện ra với chúng ta
(cứ nhìn vào sự sinh
hoạt xã hội ở Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan...
thì sẽ thấy ngay là lòng từ bi Phật Giáo tuy
không được thường xuyên nêu cao và ca ngợi như
trong các quốc gia đại thừa thế nhưng luôn thấm
đượm và bàng bạc khắp nơi trong sự sinh hoạt xã
hội của các quốc gia này). Tuy nhiên
không phải vì thế mà Tiểu Thừa sẽ bị loại bỏ
(sau khi đã bước vào
Đại Thừa). Tiểu Thừa lúc nào cũng là
một căn bản tối cần thiết trên con đường mà
chúng ta đang bước đi.
Hình thức Phật Giáo Theravada như đang được phát
triển ngày nay ở Á Châu có đúng thật là Phật
Giáo xưa và trung thực nhất với giáo huấn do Đức
Phật thuyết giảng khi còn tại thế hay không?
Không!
Trước
nhất là
Theravada không hoàn toàn thừa hưởng toàn bộ
Phật Giáo xưa, mà chỉ đại diện cho một trong số
mười tám học phái xưa còn tồn tại. Tất cả các
học phái xưa khác đều đã mai một.
Phật Giáo Theravada cũng đã biến đổi rất
nhiều qua dòng lịch sử hàng nhiều thế kỷ
(đối với một người Phật
Giáo thấu hiểu được thế nào là quy luật tương
liên và vô thường thì cũng sẽ phải hiểu rằng
không có gì là bất biến cả). Phật
Giáo Theravada tự nhận là chính thống và bảo thủ
và cũng do đó đã tự cho mình là đã giữ được
nguyên vẹn giáo huấn của Đức Phật. Nhiều học giả
Tây Phương cũng có khuynh hướng chủ trương quan
điểm này - thế nhưng việc tu học của riêng họ
thì lại phản ảnh một khuynh hướng cải cách nào
đó (nhận xét này của
tác giả rất chính xác và tinh tế, bởi vì có
nhiều người Tây Phương tu tập theo Theravada thế
nhưng sự sinh hoạt và tư tưởng của họ phản ảnh
khá rõ rệt các khía cạnh đại thừa).
Dù sao đi nữa thì tất cả các học phái Phật Giáo
đều tự cho mình là theo đúng nguồn gốc giáo lý
của Đức Phật. Nếu nhìn trên khía cạnh đó thì
cũng thật khó để khẳng định giữa Theravada và
Phật Giáo Tan-tran là học phái nào theo đúng với
giáo lý hơn.
Trên phương diện lịch sử thì nhất định
Theravada không phải là Phật Giáo xưa nhất trong
các vùng Đông Á. Hình thức Phật Giáo bám rễ
trước tiên vào toàn vùng đất này là Phật Giáo
Đại Thừa và đặc biệt nhất là Tan-tra Thừa -
Theravada chỉ đại diện cho một thiểu số không
đáng kể (trong thời
kỳ khởi nguyên này).
Vào thế kỷ XII ở Tích Lan, vì lý do
chính trị chỉ có Phật Giáo Theravada là được
phép chính thức sinh hoạt, do đó đã lấn lướt tất
cả các học phái khác. Sở dĩ Theravada đã phát
triển mạnh tại Tích Lan đấy chính là nhờ vào sự
hậu thuẫn chính trị của thể chế quân chủ thời
bấy giờ và cũng vào lúc đó thì Phật Giáo đang
bước vào một thời kỳ suy thoái ở khắp nơi khác
tại Á Châu. Thời kỳ vàng son trước đây đã bắt
đầu chấm dứt (Phật
Giáo bắt đầu phát triển rất mạnh tại các vùng
Cận Đông, Ấn Độ và Á Châu từ các thế kỷ thứ III
và thứ II trước Công nguyên và đã đạt đến mức
tột đỉnh vào các thế kỷ thứ V đến VIII sau Công
nguyên, hầu hết các vị đại sư trong lịch sử Phật
Giáo đều xuất hiện trong giai đoạn tột đỉnh này:
từ Long Thụ vào thế kỷ thứ II đến Tịch Thiên vào
thế kỷ thứ VIII. Tan-tra Thừa cũng được hình
thành vào khoảng thế kỷ thứ V. Ở Trung Quốc thì
Phật giáo rất hưng thịnh dưới thời nhà Đường tức
vào khoảng thế kỷ thứ VI đến thứ VIII, Thiền Học
được hình thành vào thế kỷ thứ V và VI và đã
phát triển nhanh chóng sau đó. Phật Giáo cũng đã
được đưa vào Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI. Sau
thời kỳ hưng thịnh kéo dài khoảng mười thế kỷ
trên đây thì Phật Giáo bắt đầu suy tàn, và riêng
tại Ấn Độ thì có thể xem như hoàn toàn biến mất
sau thế kỷ thứ XII).
Dù sao thì cũng không thể nào xem học
phái Theravada (của
Tích Lan) như là một nhánh của Phật
Giáo chính thống được, bởi vì học phái này đã
dựa vào Phật Giáo Miến Điện để phục hưng và làm
sống lại truyền thống xuất gia mà trước đây đã
bị mai một ở Tích Lan
(Phật Giáo được vua A-dục
đưa vào Tích Lan vào thế kỷ thứ III trước Công
nguyên. Phật Âm (Bouddhaghosa) từ Ấn Độ đã đến
Tích Lan vào thế kỷ thứ V và là người đã trước
tác tập Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) và đấy
cũng là tập luận giải giáo lý quan trọng nhất
của Theravada. Phật Giáo Đại Thừa và Tan-tra
thừa được đưa vào Tích Lan vào thế kỷ thứ VIII
và đã phát triển tại đây đến thế kỷ thứ XI, thế
nhưng sau đó thì suy tàn. Nói chung thì sau thời
kỳ này Phật Giáo suy yếu dần và mất hết ảnh
hưởng tại Tích Lan sau khi bị các sắc dân khác -
như Tamil và Hindi - từ Ấn độ đến xâm chiếm và
sau đó thì đến lượt người Bồ-đào-nha và người
Anh đổ bộ và xâm chiếm Tích lan trong thời kỳ
thuộc địa. Phật Giáo Theravada tại Tích Lan ngày
nay chỉ là một sự phục hồi với ít nhiều vay mượn
từ Phật Giáo Miến Điện. Cũng xin nhắc thêm là
chính người Anh đã mang Tam Tạng Kinh bằng tiếng
Pa-li từ Tích lan về Anh Quốc để dịch ra tiếng
Anh và bản tiếng Anh này đã tạo được nhiểu ảnh
hưởng lớn trong các quốc gia Phật Giáo Theravada
ở Á Châu, trong đó có cả Tích lan, Miến Điện và
Thái Lan, và đồng thời cũng đã góp phần vào sự
quảng bá Phật Giáo trên toàn thế giới. Lý do là
trước đó Tam Tạng Kinh hầu như đã chìm vào quên
lãng vì không có mấy ai đọc được tiếng Pa-li kể
cả những người sinh sống trên đảo Tích Lan).
Có thể đồng hóa Theravada với Tiểu Thừa hay
không?
Nói chung thì từ kinh sách cho đến một
số các quan điểm liên quan đến các khái niệm đặc
thù về giáo lý, kể cả các phương pháp tu tập của
Theravada..., tất cả đều mang ít nhiều khía cạnh
rất gần với cách định nghĩa về Tiểu Thừa.
Thế nhưng khái niệm về "Tiểu Thừa" thì
lại chỉ nhất thiết mang một số ý nghĩa nào đó
khi được sử dụng để làm nổi bật các đặc tính cá
biệt của "Đại Thừa", và do đó không thể nào nêu
lên để biểu trưng cho bất cứ một học phái Phật
Giáo nào cả. Thật vậy trên thực tế không có một
học phái nào lại tự nhận mình là thuộc Tiểu Thừa.
Dù sao đi nữa thì đối với một vài khái niệm nhất
định nào đó - chẳng hạn như cách hiểu về cái ngã
- thì cả hai, Theravada và Đại Thừa, đều đưa ra
các cách giải thích khác nhau
(xin mạn phép tóm lược
lại là thuật ngữ
Tiểu
Thừa chỉ được sử dụng trong trường hợp khi phải
định nghĩa Đại Thừa là gì và trên thực tế thì
không hề đại diện cho một học phái nào cả.
Theravada là một học phái phát xuất từ một trong
số 18 học phái xưa và do đó không thể hoàn toàn
đại diện cho toàn bộ học phái Phật Giáo "Nguyên
Thủy" được).
Nếu xét trên mặt thực tế và phương pháp
tu tập thì sẽ nhận thấy ngay là Theravada cũng
không phải là không mang một vài khía cạnh huyền
bí và diệu kỳ nào đó như chúng ta đã từng hiểu
sai. Phật Giáo Theravada đôi khi cũng cho thấy
một vài ảnh hưởng từ Tan-tra, kể cả việc tôn thờ
các thần linh địa phương. Do đó không thể nào
xem Theravada như là Phật Giáo xưa của Ấn Độ
được, và cũng không thể xem đấy là một hình thức
Phật Giáo tuyệt đối tôn trọng ý nghĩa của khái
niệm Tiểu Thừa, mà đúng hơn đấy chỉ là một hình
thức Phật Giáo đã thu nhập thêm nhiều tập quán
địa phương sau khi bành trướng ở Đông Nam Á
(tại các nước như
Campuchia, Tích Lan, Thái lan, Miến Điện người
ta cũng nhận thấy một vài hình thức dị đoan và "thờ
cúng" nào đó trong sự sinh hoạt dân gian, thế
nhưng đấy không phải là Phật Giáo, mà đúng hơn
chỉ là những ảnh hưởng phản ảnh "văn hóa" và "phong
tục" địa phương, chẳng khác gì với trường hợp
của Đại Thừa).
Nếu muốn bước theo con đường Đại Thừa thì phải
làm thế nào?
Trong khi Phật Giáo xưa
nhất thiết chủ trương phải rời bỏ gia đình, phải
cắt đứt mọi sự ràng buộc và bám víu vào thế tục
để bước vào một cuộc sống biệt lập với thế giới,
thì Đại Thừa lại chủ trương một lối tu tập thật
dũng cảm, tức là phải phục vụ cho toàn thể nhân
loại và giúp đỡ tất cả chúng sinh có giác cảm,
tức biết cảm nhận được sự khổ đau.
Phải thật dũng cảm
Bất cứ những ai khi đã bước theo vết
chân của Đức Phật thì đều có thể được xem là
những vị anh hùng, quan điểm này cũng khá giống
với quan điểm về người hiệp sĩ trong văn hóa Tây
Phương. Người hiệp sĩ vừa phải xả thân để giúp
đỡ người khác, lại vừa phải rèn luyện hầu giúp
mình có thể vượt lên trên sự sợ hãi và yếu hèn,
tính ích kỷ và sự lười biếng.
Đôi khi chính Đức Phật cũng được xem như
là một vị Anh Hùng. Nhiều câu chuyện dân gian
gọi là Jataka (được
gom góp trong Bổn Sinh Kinh) thuật
lại các tiền kiếp của Đức Phật. Trong các câu
chuyện này tiền thân của Đức Phật thường mang
hình tướng thú vật và trong mỗi câu chuyện thì
Ngài đều hy sinh mạng sống của mình. Thí dụ như
trong một tiền kiếp Ngài là vị vua của các loài
hươu nai và đã hy sinh mạng sống của mình vì sự
an lành của toàn thể thần dân của mình tức là
tất cả hươu nai; hoặc trong một câu chuyện khác
thì Ngài từng là một con cọp cái và đã hy sinh
thân xác mình để làm thức ăn nuôi đàn con giúp
cho chúng không bị chết đói.
Khi đã bước theo con đường Đại Thừa thì
người tu tập lúc nào cũng phải ước mong sẽ hóa
thành chính con đường của Đại Thừa hầu giúp mở
rộng "con tim giác ngộ" của chính mình, một con
tim biết yêu thương, sẵn sàng hy sinh tất cả
nhằm giúp cho lòng từ bi của mình có thể bùng
lên khiến cho mọi khổ đau phải chấm dứt.
Tuy nhiên chúng ta cũng nên thận trọng
vì lòng từ bi không phải là một cách cố gắng tỏ
ra tử tế hay phát lộ sự thương hại. Không có gì
tủi nhục hơn khi cảm thấy rằng người khác tìm
cách giúp mình chỉ vì họ thương hại mình. Theo
Đức Phật thì đấy không phải là một con đường
chính đáng. Một thái độ anh hùng đích thật không
phản ảnh một cảm tính phân biệt nào giữa mình và
người khác, cũng không mang một hậu ý phân chia
thứ bậc nào giữa người giúp đỡ và người được
giúp đỡ.
Hồi hướng công đức của mình cho sự tốt lành của
tất cả chúng sinh
Những gì tối quan trọng chính là động cơ
thúc đẩy trong lòng người tu tập: đấy là sự
quyết tâm đặt sự tốt lành của tất cả chúng sinh
lên trên hết, vượt hơn cả quyền lợi của chính
mình. Cách hành xử đó không hẳn chỉ giản đơn là
một thứ mục tiêu để cho "người anh hùng mong cầu
tìm được giác ngộ" hướng vào đấy mà chính người
anh hùng phải xem đấy là tất cả lẽ sống của đời
mình.
Ngoài ra người anh hùng chẳng những phải
tuân thủ các giới luật chi phối từ bên ngoài
cuộc sống của mình như đã được quy định trong
các kinh sách xưa, mà còn phải quan tâm đến nội
tâm của mình nữa, và điều này thật hết sức quan
trọng. Phải loại bỏ tất cả các ý nghĩ tự xem
mình là trung tâm, đấy là cách giúp mình tập
trung nghị lực để kiên quyết hướng vào người
khác. Đồng thời đấy cũng là cách giúp mình loại
bỏ được tận gốc rễ thái độ ích kỷ tự cho mình
luôn phải gánh chịu cảnh thiếu thốn mọi thứ và
thiệt thòi đủ điều, trong khi các người khác thì
lại được hưởng đủ mọi thứ ưu đãi. Theo Phật Giáo
thì thái độ ấy hoàn toàn phi lý và nhất thiết
chỉ mang lại khổ đau cho mình mà thôi
(đấy là một cách suy
nghĩ phát sinh từ sự ganh tị và không hề nghĩ
đến quy luật nhân quả cũng như không hiểu gì về
sự vận hành tự nhiên của mọi hiện tượng).
Tại sao lại phi lý? Bởi vì tất cả chúng
ta đều tương kết với nhau - nếu một người nào
đó làm thương tổn đến một người khác thì đấy
cũng chính là cách mà mình tự làm thương tổn đến
chính mình.
Tại sao lại đau buồn? Bởi vì chúng ta
luôn tìm đủ mọi cách để xông vào những cuộc xung
đột bất tận chống lại toàn thể nhân loại
(đau buồn tại vì ganh
tị với tất cả mọi người khác và tự xem mình là
trung tâm và xem tất cả nhân loại không phải là
mình). Trong khi đó thì hạnh phúc lại
là một thể dạng thư giãn thật sâu xa, vì thế
trạng thái căng thẳng trong lòng sẽ không thể
nào mang lại cho mình cái thể dạng an vui ấy
được.
Trên khía cạnh đó nếu muốn trở thành một
người anh hùng thì phải thật sự phát huy được
một tấm lòng yêu thương thật bao la.
Phải thực hiện được sáu điều hoàn thiện (Lục
Ba-la-mật)
Muốn bước theo con đường Đại Thừa thì
phải thực hiện cho bằng được sáu điều hoàn thiện
là: rộng lượng (bố
thí), giữ giới, nhẫn nhục, nghị lực,
thiền định (sự chú
tâm), sự hiểu biết đúng - tức là trực
giác - mang tính cách siêu nhiên
(prajna / trí tuệ).
Đấy là các phẩm tính giúp vượt qua con sông của
sự lầm lẫn để đến được bờ bên kia.
Trong số sáu điều hoàn thiện chúng ta
thử tìm hiểu xem điều thứ nhất tức là sự rộng
lượng có nghĩa là gì
(vì đây là một quyển
sách nhập môn nên tác giả Fabrice Midal chỉ giải
thích về một trong sáu điều hoàn thiện như một
thí dụ điển hình, vì nếu phải giải thích tất cả
sáu điều hoàn thiện thì biết đâu cả một quyển
sách cũng không đủ. "Sáu Điều Hoàn Thiện" hay "Lục
Ba-la-mật" của Đại Thừa Phật Giáo cũng có thể
xem như tương đương với "Con Đường Của Tám Điều
Đúng Đắn" hay "Bát Chánh Đạo" của Phật Giáo
Theravada, chỉ khác ít nhiều trên phương diện
trình bày).
Rộng lượng biểu trưng cho sự bố thí đích
thật, có nghĩa là bố thí mà không chờ đợi hồi
đáp, một sự buông xả thật sự. Nếu cho mà còn chờ
đợi một sự biết ơn hay một thứ lợi lộc nào đó
thì đấy chỉ là một cách hối lộ. Hành động ấy
không thể biểu trưng cho một sự hiến dâng đích
thật được mà đấy chỉ là một hình thức buôn bán.
Sự hào phóng đó đương nhiên liên hệ đến
ý nghĩa của tánh không. Đối với sự bố thí đích
thật thì không hề có ai cho bất cứ gì mà cũng
chẳng hề có ai nhận bất cứ gì - không có ai là
con nợ mà cũng chẳng có ai là chủ nợ cả. Bố thí
chỉ vì yêu thương Đại Thừa, giúp mình hòa nhập
với sự chuyển động của Đại Thừa, và nhất là
không nên để cho bất cứ một hành động nào của
mình có thể khiến cho ý nghĩa của hành động bố
thí ấy bị giới hạn đi. Chúng ta bố thí với những
xúc cảm thật tròn đầy hiện ra trong lòng, và đấy
cũng chẳng khác gì một cách làm hiển lộ sự phong
phú của chính mình.
Đại Thừa gồm có rất nhiều học phái khác
nhau và tất cả đều chọn cho mình con đường từ bi
của người anh hùng. Tuy nhiên cũng có thể chia
Đại Thừa thành ba nhóm chính là: Thiền Học Zen,
Phật Giáo Tịnh Độ và Phật Giáo Tan-tra (đôi khi
còn được gọi là Tan-tra Thừa, hay Kim Cương Thừa).
Thiền Học Zen là gì?
Vị thiền sư Zen là Shou Shan
(Thủ Sơn - còn gọi là
Thủ Sơn Tịnh Niệm - một vị thiền sư Trung Quốc,
926-993) cầm một cành tre đưa lên và
hỏi các đệ tử như sau: "Này các Tăng, nếu gọi
đây là một cành tre thì hãy nhìn vào nó cho thật
kỹ nhé (để xem có
đúng hay không, bởi vì cũng có thể xem đấy là
một ảo giác, một cấu hợp gồm nhiều thành phần,
v.v...). Nếu các tăng không cho rằng
đấy là một cành tre thì có nghĩa là các tăng
chống lại một sự kiện hiển nhiên nào đó
(chống lại một sự thật
nào đó: tức là cành tre trước mặt mình).
Vậy hãy nói cho ta biết, tức khắc phải nói ngay
cho ta biết: "Đây là cái gì?".
Thiền Học Zen thường hay đưa ra
các thí dụ hoặc các câu chuyện đại loại như thế
(apologue)
để chứng minh hay để gợi lên sự thật hay một ý
nghĩ nào đó, thay vì sử dụng cách giảng giải
dông dài. Đấy là cách mà Thiền Học Zen chặt đứt
tận gốc rễ cái tâm thức nhỏ hẹp và thiển cận bên
trong mỗi con người chúng ta, cái tâm thức đó
luôn tìm cách chia cắt và phân loại tất cả mọi
thứ và đấy là cách khiến cho chúng ta không thể
nào hòa nhập được với thực tại
(chia cắt, quy định,
diễn đạt các thành phần của hiện thực bằng tâm
trí mình là một cách làm biến thể hay phá vỡ
hiện thực).
Học phái Zen được hình thành ở
Trung Quốc và gọi là Ch'an
(Thiền). Học
phái này cho rằng các hình thức lễ lạc cầu kỳ,
các phương pháp biện luận phức tạp cũng như các
phép tu tập khổ hạnh khắc nghiệt không đúng là
con đường, mà chỉ có thiền định mới chính là con
đường đích thật. Thiền định không đơn giản chỉ
là một phép tập luyện, mà đúng hơn đấy là cả một
phương pháp tu hành đưa đến giác ngộ, tương tự
như cách mà chính Đức Phật đã mang ra thực hiện
cho mình. Tuy nhiên cũng nên hiểu rằng thiền
định không phải là một phương tiện giúp thực
hiện một chủ đích nhất định nào cả - chẳng hạn
như sự giác ngộ - mà thật ra thì tự nó cũng đã
trực tiếp biểu trưng một cách cụ thể cho sự giác
ngộ ngay trong cuộc sống của chúng ta trong hiện
tại (thiền định
không phải là phương tiện tìm kiếm sự giác ngộ
mà tự nó và chính nó cũng đã là sự giác ngộ).
Có một huyền thoại kể lại rằng
một hôm Đức Phật dùng tay phải cầm một cánh hoa
đưa lên nhưng lại không thốt ra một lời nào.
Trong số các đệ tử chỉ duy nhất có một vị là Ca
Diếp vụt mỉm cười và quán nhận được bản chất của
con đường. Câu chuyện này biểu trưng cho cốt tủy
của Thiền Học Zen. Sự truyền thụ
(giáo lý, sự hiểu biết,
quán thấy...) xảy ra một cách bất
thần, các hình thức khúc mắc
(bí hiểm, mang tính
cách biểu trưng...) chỉ là các cách
giúp khám phá ra bản chất đơn sơ của sự truyền
thụ mà thôi. Không nên ôm đồm và phức tạp một
cách vô ích. Ngài Ca-Diếp còn mang tên là Ma-ha
Ca-Diếp (tiếng Phạn
Maha có nghĩa là Đại hay Lớn) được
xem là vị tổ thứ nhất của học phái Ch'an
(Thiền Học)
Ấn Độ.
Bồ-đề Đạt-ma (Bodhidharma) là
vị tổ Ấn Độ thứ 28 sau Ma-ha Ca-diếp, và chính
ông đã mang phép tu tập này sang truyền bá ở
Trung Quốc.
Thiền Học Zen nhất thiết chú
trọng đến sự kiện ngôn từ phải thật trung thực
với bầu không gian mở rộng của hiện thực. Thiền
Học Zen không hề chú ý đến các tập luận giải
tràn giang đại hải mà chỉ chú trọng đến các
quyển sách nhỏ gom góp một số lời phát biểu của
các vị đại sư trong lịch sử. Các tập sách này
phần lớn được trình bày dưới dạng các câu vấn
đáp, hoặc tường thuật lại các cuộc tranh biện
với những câu đối đáp cực mạnh nhằm chủ đích làm
bùng dậy những kinh nghiệm cảm nhận trực tiếp và
chính xác khi tiếp cận với hiện thực
(nếu nắm bắt được ý
nghĩa tàng ẩn trong các công án và trong các câu
chuyện thiền thì sẽ hiểu rằng Thiền Học không
phải là một phép tu tập bí hiểm hay cầu kỳ gì cả,
ít nhất là trên phương diện lý thuyết, thế nhưng
rất tiếc là nhiều người thường đem các công án
hay các câu chuyện thiền ra để diễn giải dông
dài qua sự phán đoán và hiểu biết cá nhân của
mình, kể cả đôi khi sự diễn giải ấy còn mang ít
nhiều tính cách tưởng tượng nữa. Đấy là những gì
hoàn toàn đi ngược lại với chủ đích của Thiền
Học, tức là một sự cảm nhận trực tiếp hiện thực
bằng trực giác. Thí dụ mục đích ngồi thiền của
phái Tào Động là "cứ thế mà ngồi", cứ chú tâm
vào tư thế ngồi cho thật đúng, không chiêm
nghiệm gì cả, không phân tích gì cả, không tìm
hiểu gì cả và cũng chẳng chờ đợi gì cả. Nếu bị
xao lãng thì quay về với hơi thở của mình, hoặc
nhìn lại xem tư thế ngồi của mình có thật đúng
hay không. Không nên thấy các vị thầy trợn mắt,
thét to lên một tiếng hay lấy gậy đập học trò mà
khiếp sợ hay bị mặc cảm, đấy chỉ là cách biểu lộ
những gì không nói ra được bằng các ngôn từ quy
ước. Phía sau những cử chỉ hay tiếng thét ấy chỉ
tàng ẩn một sự kiện duy nhất: hiện thực là như
thế, không tên tuổi, không đẹp xấu, không luân
hồi cũng chẳng giác ngộ, nó là như thế!).
Thiền Học cách xa hàng ngàn dặm với cách đối đáp
theo kiểu của triết gia Platon
(triết gia thời cổ đại
Hy Lạp, 428-347 trước kỷ nguyên), đấy
là cách chỉ biết đẩy chúng ta đến ranh giới tột
cùng của sự biện luận. Tóm lại vấn đề then chốt
trong Thiền Học là phải làm bùng lên Sự Thật
tương tự như một tia sáng, loé lên một cách bất
thần. Sự quán nhận trực giác nhanh như chớp, đến
độ có thể làm rách toạc cả tấm "màn ảnh chiếu
phim" và đánh tan cả mọi sự mong đợi
(tấm màn ảnh chiếu phim
tượng trưng cho những biểu hiện ảo giác luôn
biến động của thế giới hiện tượng, người hành
thiền bằng một tia chớp của trực giác nắm bắt
được hiện thực tàng ẩn phía sau những ảo giác đó
và thực hiện được tức khắc sự giác ngộ, ngoài cả
sự mong đợi của chính mình. Thế nhưng cũng cần
phải hiểu rằng sự giác ngộ ấy cũng thật "ngắn
ngủi" như một tia chớp, bởi vì ảo giác sẽ tràn
ngập trở lại trong tâm thức người hành thiền. Vì
thế tu tập Zen là phải làm thế nào để các tia
chớp ấy xảy ra thường xuyên hơn, kéo dài lâu hơn,
ngày càng loé sáng mạnh hơn, cho đến một lúc nào
đó chúng sẽ không còn phải là các tia chớp bất
thần của trực giác nữa mà trở thành ánh sáng bền
vững của trí tuệ giúp người hành thiền đánh tan
cái ngã của mình và quán thấy hiện thực trong
thể dạng tinh khiết, an bình và trong sáng nhất
của nó).
Một khi con người hiểu được một
điều gì đó thì tức khắc sẽ không còn thắc mắc về
điều ấy nữa và nó sẽ bị gạt bỏ ra khỏi sự chú
tâm của của người ấy. Sự tò mò cũng theo đó mà
chấm dứt.
Chính vì thế mà Thiền Học Zen
đã gán cho ngôn từ một vai trò thật lớn
(một lời phát biểu thật
mạnh, chính xác và đúng lúc biểu trưng cho một
phản ứng của trực giác, không phải là một lời
giải thích). Người thầy thúc dục
người đệ tử phải mở miệng ra để nói ngay lên một
điều gì đó. Phải thật linh hoạt ngay trong thời
điểm đang xảy ra nhằm giúp vượt thoát khỏi sự
chi phối của các thứ tư duy quy ước, vì đấy là
những gì vừa tầm thường lại vừa gây ra thêm sự
mệt mỏi.
(Thiền
Học Zen có vẻ khá khó hiểu cho một số người chưa
quen vì thế cũng xin mạn phép đưa thêm một vài
thí dụ điển hình khác với hy vọng có thể làm
sáng tỏ hơn về học phái này. Đức Phật cầm một
cành hoa đưa lên và không nói gì cả. Trong thí
dụ do tác giả Fabrice Midal nêu lên thì thiền sư
Thủ Sơn (Shou Shan) cầm một cành tre đưa lên và
hỏi các đệ tử đấy là gì và phải trả lời ngay tức
khắc. Fabrice Midal dừng ở đấy và không kể tiếp
vì có thể ông đã nghĩ rằng như thế cũng đã đủ để
hiểu Zen là gì. Sau đây là một thí dụ khác dông
dài hơn một chút, một vị thiền sư Trung Quốc là
Bách Trượng Hoài Hải (Baizhang huaihai, người
Nhật gọi là Hyakujo ekai, 724-814) lúc ấy đã lớn
tuổi và muốn chọn một đệ tử lên thay mình, ông
bèn đặt một cái bình nước giữa chính điện và hỏi
các đệ tử như sau: "Nếu ta không cho phép gọi
đấy là một cái bình nước thì các tăng sẽ gọi đấy
là gì?". Chỉ có một vị tăng trẻ là Quy Sơn Linh
Hựu (Guishan lingyou / Wei Shan / Tung Shan,
người Nhật gọi là Isan reizu hay Tozan, 771-853.
Sở dĩ dông dài về một số chi tiết ấy là để giúp
các người đọc nào muốn tra cứu thêm, lý do là vì
các sách nêu tên các nhân vật có khi khác nhau,
kể cả các chi tiết trong các câu chuyện đôi khi
cũng có vài điểm không giống nhau) không tìm
cách trả lời loanh quanh như các vị khác mà chỉ
đưa chân đá văng chiếc bình, nước bắn tung tóe
và bước ra khỏi chính điện. Quách Trượng gọi
giật lại và giao phó cho trọng trách thay ông
quản lý ngôi chùa và tăng đoàn.
Công án là như thế, thiền học là như thế:
sự quán thấy bộc phát bằng một lời nói, một
tiếng thét hay bằng một cử chỉ, chẳng hạn như vớ
một chiếc gậy để đánh hay đá vào một vật gì đó...
Bởi vì sự quán thấy hiện thực bằng trực giác
không thể giữ im lặng được mà cũng không thể
giải thích bằng các ngôn từ quy ước được.
Tóm lại là hầu hết các công án được nêu
lên trong Thiền Học đều nhằm vào chủ đích cắt
đứt dòng tư duy và các phản ứng mang tính cách
quy ước luôn chi phối và trói buộc chúng ta. Nếu
thấu triệt được chủ đích của các công án và các
câu chuyện thiền... thì Zen cũng chẳng có gì là
khó hiểu cả).
Đối với Thiền Học Zen, những gì
trung thật nhất chính là bầu không gian của Hiện
Thực trước khi nó bị nắm bắt và phân tích bởi
các thứ ngôn từ thông dụng
(tức có nghĩa là lúc mà
bầu không gian nguyên sinh của Hiện Thực chưa bị
nắm bắt, diễn đạt và định nghĩa bởi tri thức hạn
hẹp, quy ước của mỗi cá thể, nói cách khác là
chưa bị biến thể bởi ảnh hưởng của giáo dục,
kinh nghiệm cảm nhận cá nhân và cũng chưa bị tô
đậm bởi đủ thứ màu sắc của nghiệp tồn lưu trên
dòng tri thức của mỗi cá thể. Muốn tiếp cận được
với bầu không gian nguyên sinh ấy của hiện thực
thì phải gạt bỏ được cái ngã của chính mình
trước đã). Thiền Học Zen dưới khía
cạnh đó đã đạt được đỉnh cao nhất của vòng quay
thứ hai của bánh xe Đạo Pháp - tức là tánh không.
Chúng ta luôn có khuynh hướng vật thể hóa
(chosifier, réifier /
reify / chuyển bất cứ gì hiện hữu thành một vật
thể, tức có nghĩa là hình dung những gì trông
thấy qua một hình tướng nào đó dựa vào kinh
nghiệm và sự hiểu biết cá nhân và quy ước của
mình). Trong khi ấy thì Thiền Học Zen
lại tìm cách hòa nhập với sự tuyệt đối
(không diễn đạt "thành
hình tướng" bất cứ gì cả - xin người đọc liên
tưởng đến một câu bất hủ trong Kinh Bát Nhã: "sắc
tức thị không, không tức thị sắc", có nghĩa là "hình
tướng là trống không, trống không là hình tướng",
nếu người đọc liên tưởng xa hơn nữa thì biết đâu
cũng sẽ hiểu rằng tại sao Đức Phật lại tự xưng
mình là " Như Lai". "Như Lai" trong Hán Ngữ có
nghĩa là không từ đâu đến và cũng không đi về
đâu cả, "Hiện Thực" là "Như Thế", "Như Lai" là "Như
Thế", "Như Lai" đã đến với chúng ta hơn hai mươi
lăm thế kỷ trước và "Như Lai " vẫn là "Như Thế"
trước mặt chúng ta hôm nay. "Như Thế" gọi là Zen
và Zen cũng có nghĩa là "Như Thế").
Không bao giờ nên đánh giá một người nào đó một
lần duy nhất và sau đó thì cứ giữ nguyên cách
đánh giá ấy, mà chỉ nên tiếp cận với người ấy
đúng với thực tại của họ, phù hợp với từng
khoảnh khắc đang xảy ra, và trong mỗi khoảnh
khắc ấy đều tạo ra cho mình một sự cảm nhận mới
mẻ, tươi mát, sinh động và đầy bất ngờ
(có nghĩa là một chủ
thể nhìn vào sự biến động của đối tượng trước
mặt bằng sự chuyển động trong tâm thức của chính
mình xuyên qua sự chuyển động chung của tất cả
mọi hiện tượng trong vũ trụ. Tóm lại cái thể
dạng "Như Thế" mô tả trên đây không bất biến hay
khô cứng mà luôn chuyển động với "Thực Tại"
trong từng giây phút một. Tác giả tu tập theo
Phật Giáo Tây Tạng thế nhưng mô tả cái nhìn của
một người tu thiền thật tuyệt vời).
Thiền Học Zen không chấp nhận
sự phân biệt giữa phàm tục
(để loại bỏ)
và thiêng liêng (để
cầu xin) mà chỉ chú tâm vào từng hành
động của mình nhằm hướng chúng vào việc hành
thiền. Do đó người tu thiền thường hay dành ra
một phần lớn sự sinh hoạt thường nhật của mình
vào các công việc chân tay. Trong các tu viện
Nhật Bản lao động chân tay được xem như thuộc
vào thành phần giáo trình đào tạo thiền sinh,
đấy là cách giúp người tu thiền luôn hội nhập
với thực tại qua từng giây phút một trong cuộc
sống của họ.
Phật Giáo Tịnh Độ là gì?
Thuở xa xưa có một vị tu hành,
tại Ấn Độ thì mang tên là Amitabha và tại Nhật
thì mang tên là Amida
(tại Việt Nam là A-di-đà. Thật ra theo kinh A-di-đà - Sukhavathivyuhasutra
- thì vị này là một nhà vua, và khi xuất gia thì
mang pháp danh là Dharmakara / Pháp Tạng).
Vị này phát nguyện rằng nếu ngày nào thành Phật
thì sẽ nhất định cứu độ bất cứ chúng sinh nào
thành kính cầu khẩn đến mình. Ngài sẽ tiếp dẫn
các chúng sinh ấy về cõi Tịnh Độ - một cõi toàn
thiện nhất không có gì có thể cản trở việc tu
tập và nghe Pháp
(nếu chú ý thì ngay trong
câu dẫn nhập về Tịnh Độ tác giả cũng đã nhắc
khéo cho chúng ta biết là Đức Phật A-di-đà không
phải là một vị Phật lịch sử và cõi Tịnh Độ chỉ
là "một nơi" giúp cho việc tu tập và nghe Pháp
được dễ dàng). Sau thật
nhiều kiếp hành trì tu tập thì vị này đạt được
sự giác ngộ, và nhờ đó mà lời ước nguyện của
Ngài trước đây cũng đã trở thành hoàn toàn hiệu
lực.
"Lời nguyện ước nguyên thủy"
đó là một cách biểu lộ lòng từ bi hướng về sự
giác ngộ. Câu phát biểu : "Tôi tự nguyện sẽ
không bước vào thể dạng đại phúc hạnh khi nào
vẫn còn một cái hố ngăn cách giữa tôi và các
chúng sinh khác, không cho phép họ đạt được thể
dạng đại phúc hạnh", là một cách thực hiện sự
nối kết giữa lòng từ bi và sự tuyệt đối
("Lời nguyện ước nguyên
thủy" của Đức Phật A-di-đà mà tác giả đặt trong
hai dấu ngoặc kép cho thấy đấy là một cách biểu
lộ lòng từ bi vô biên của Ngài đối với chúng
sinh, và đấy là một phép tu tập giúp mình hòa
nhập với sự tuyệt đối của hiện thực - tóm lại là
một phương tiện thiện xảo (upaya). Thế nhưng một
số người lại mượn câu phát biểu ấy để phát lộ sự
thúc dục của cái ngã của chính mình nhằm hướng
vào một chủ đích hoàn toàn ngược lại, tức là chờ
đợi Đức Phật A-di-đà "tiếp dẫn" cái "ngã" của
mình đến cõi Cực Lạc).
Lời nguyện ước trên đây của
Phật Giáo Tịnh Độ đã giữ một vai trò tương tự
như sự hy sinh của Chúa Giê-Su đối với Ki-tô
Giáo. Đấy là hành động giúp giải thoát tất cả
nhân loại (thật ra
thì có thể hình dung Tịnh Độ theo hai khía cạnh
khác nhau. Khía cạnh thứ nhất là phát lộ lòng
tin tưởng vững chắc của mình nơi Đức Phật A-di-đà
và để cầu khẩn Ngài, dưới khía cạnh này thì Tịnh
Độ rất gần với Ki-tô Giáo. Khía cạnh thứ hai là
nhìn vào Đức Phật A-di-đà để bắt chước Ngài và
làm như Ngài, tức là phát lộ lòng từ bi vô biên
và mong cầu khi nào đạt được giác ngộ thì mình
cũng sẽ cứu độ tất cả các chúng sinh còn vướng
mắc trong cõi luân hồi. Nếu nhìn dưới khía cạnh
đó thì Tịnh Độ sẽ hoàn toàn khác hẳn với Ki-tô
Giáo).
Những người tu tập theo học
phái này quan niệm rằng thời đại của chúng ta
ngày nay là một thời đại đầy hoang mang và lầm
lẫn do đó con người không thể nào hiểu được giáo
huấn của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni là gì nữa. Vì
thế khẩn cầu Đức Phật A-di-đà là con đường đơn
giản nhất cho họ.
Trong thế giới Tây Phương rất
ít người chú ý đến Phật Giáo Tịnh Độ, thế nhưng
Phật Giáo này lại hết sức phổ biến tại Á Đông và
đã vạch ra một con đường dựa vào sự hy vọng và
các niềm tin tưởng như là một phương tiện nhằm
giúp xóa bỏ cái ngã của chính mình, và sự buông
xả đó sẽ giúp người tu tập hòa nhập vào giáo
huấn của Đức Phật.
Ở Nhật người ta thường so sánh
học phái Zen với học phái Tịnh Độ. Thiền học cho
rằng sở dĩ thực hiện được sự giác ngộ ấy là do
sự tu tập của chính mình, nhờ vào "sức mạnh của
chính mình", vì thế phải thật chuyên cần luyện
tập thiền định và giữ giới.
Học phái Tịnh Độ thì lại cho
rằng giác ngộ chỉ có thể đạt được nhờ vào tha
lực tức là là nhờ vào Đức Phật A-di-đà. Con
người không thể tự giải thoát cho mình được, bởi
vì thực chất của con đường là phải loại bỏ cái
tôi tự xem mình là trung tâm
(có nghĩa là cái ngã
không thể tự loại bỏ được nó, "cái tôi" không
thể tự loại bỏ được "cái tôi", "chủ thể" không
thể tự loại bỏ được "chủ thể" mà chỉ có thể loại
bỏ được "đối tượng". Thế nhưng cũng có thể hình
dung sự giác ngộ như là một sự quán thấy và
không cần phải loại bỏ bất cứ gì cả).
Sự phân biệt trên đây
(giữa Zen và Tịnh Độ)
dù sao thì cũng chỉ mang tính cách bề ngoài. Học
phái Zen ý thức một cách minh bạch là hành động
buông xả chính thực là cốt tủy của phép tu tập
Tịnh Độ, và hành động thì không mặc nhiên có
nghĩa là không sử dụng đến phép luyện tập thiền
định và cũng không đương nhiên có nghĩa là không
cần phải biến cải con tim của chính mình.
Hơn nữa cả hai học phái đều
được phát triển song hành với nhau tại Nhật Bản,
và ngoài những khác biệt như vừa kể thì cả hai
đều hướng chung vào một hình thức Phật Giáo đã
được đơn giản hóa tối đa bằng cách chỉ nhờ vào
một hành động duy nhất. Đối với học phái Zen thì
hành động ấy là tư thế ngồi thiền, và đối với
Tịnh Độ thì đấy là việc niệm hồng danh của Đức
Phật A-di-đà. Cả hai học phái đều tìm cách gạt
ra một bên vai trò của kinh sách và các cách suy
luận khúc triết của lý trí.
Phật Giáo Tan-tra là gì?
Đấy là cách lắng nghe lời giảng huấn của Đức
Phật với tất cả ý nghĩa thật toàn vẹn của nó.
Chúng ta có ba giải pháp để đối
phó với một loại cây chỉ cho ra toàn quả độc
biểu trưng cho sự lầm lẫn
(lầm lẫn ở đây có nghĩa
là vô minh, thế nhưng trong quyển sách nhập môn
này tác giả có khuynh hướng tránh bớt các thuật
ngữ đặc thù trong giáo lý nhà Phật nhằm giúp cho
các người đọc chưa quen với các thuật ngữ Phật
Giáo dễ theo dõi hơn) và cảm tính tự
xem mình là trung tâm
(tức cái ngã của mình).
Cách thứ nhất là thực thi việc
giữ giới thật nghiêm ngặt, đấy là một cách giúp
mình hái bỏ đi tất cả các quả độc do cây sinh
ra. Công việc ấy thật công phu và kiên trì, và
đấy cũng chính là phương pháp tu tập theo cách
định nghĩa của Tiểu Thừa (Hynayâna)
(hay Theravada).
Cách thứ hai là vận dụng sự
quán thấy tánh không và phát động lòng từ bi để
nhổ bỏ tận gốc rễ cây ấy, có nghĩa là phải chặt
bỏ mọi sự bám víu đưa đến sự lầm lẫn
(vô minh).
Phương pháp này mang tính cách triệt để hơn - và
đấy cũng chính là phép tu tập của Đại Thừa (Mahayâna).
Cách thứ ba là phép tu tập của
Tan-tra, phép tu tập này chủ trương cứ hái và ăn
các quả độc sinh ra từ cây ấy, thế nhưng tức
thời sau đó sẽ phải biến chúng trở thành một
phương thuốc trường sinh. Không hái bỏ gì cả,
cũng không chặt bỏ gì cả. Chính vì thế mà cách
tu luyện này cũng thường được so sánh với "phép
luyện kim" nhằm biến chì - tức mọi thứ phiền não
- trở thành vàng ròng - tức là thể dạng đại phúc
hạnh. Đối với Tan-tra thì cả hai phép tu tập vừa
trình bày trên đây (Tiểu
và Đại Thừa) cho thấy chưa hội đủ khả
năng giúp chúng ta đặt hết được lòng tin vào
tinh thần giáo lý của Đức Phật. Hai cách tiếp
cận ấy còn mang nặng tính cách nhị nguyên, có
nghĩa là chưa loại bỏ được một hình thức thật
tinh tế nào đó của bạo lực, bởi vì đối với cả
hai học phái này thì người tu tập vẫn còn phải
cố gắng để tìm cách loại bỏ sự lầm lẫn
(vô minh)
hầu đạt được sự giác ngộ
(cái tôi tức chủ thể
phải phấn đấu để loại bỏ vô minh tức là đối
tượng nhằm giúp mình đạt được sự giác ngộ tức là
chủ đích. Sự phấn đấu giữa chủ thể và đối tượng
để hướng vào một chủ đích nào đó chính là một
hình thức bạo lực, có nghĩa là chưa đạt được
tinh thần bất-bạo-động tuyệt đối hay thể dạng an
bình thật tinh khiết do Đức Phật nêu lên).
Phật Giáo Tan-tra quán thấy
được sự hiện diện của Đức Phật trong từng sự
kiện đang xảy ra (dù
là bất cứ một sự kiện nào). Thí dụ
Tan-tra có thể giúp chúng ta quán nhận được một
hành động dù là mang tính cách hung hãn thế
nhưng phía sau nó vẫn tàng ẩn thật kín đáo một
sự mong muốn sao cho mọi sự phải được minh bạch
và trong sáng hơn, thế nhưng chỉ vì không đủ khả
năng để quán thấy được cội nguồn của thể dạng
tốt đẹp ấy nên đã khiến cho hành động của chúng
ta trở thành hung hãn
(thể dạng hung hãn phản
ảnh một cách thật sâu kín một sự ước mong nào đó
muốn cho mọi sự phải tốt đẹp hơn, thế nhưng chỉ
vì không quán thấy được cội nguồn tốt đẹp đó nên
đã khiến cho chúng ta hành động hung hãn và sai
lầm. Khi nhìn vào một người hung dữ chúng ta
cũng nên cố gắng quán thấy một ước vọng thiện
tâm nào đó tàng ẩn phía sau những hành động của
người ấy). Tan-tra có vẻ thiếu thận
trọng là ở chỗ ấy: thay vì dập tắt đám cháy thì
lại cứ xô chúng ta vào đấy để thiêu đốt chúng
ta, thế nhưng thực ra thì đấy lại là cách nhằm
giúp chúng ta buông xả tất cả hầu để hòa mình
với vô tận (người tu
tập Tan-tra không e ngại hay khiếp sợ gì cả, họ
chấp nhận sự nhịn nhục, sợ hãi, hận thù, giận dữ,...
thế nhưng họ hoán chuyển tất cả những thứ ấy trở
thành một sức mạnh vô song để hướng họ vào sự tu
tập. Sự giận dữ chẳng hạn có thể tạo ra một sức
mạnh thật khủng khiếp thế nhưng thay vì cứ để
cho nó thiêu đốt mình thì hãy lợi dụng sức mạnh
ấy để chuyển nó trở thành quyết tâm và nghị lực
của chính mình).
Tuy nhiên điều ấy cũng có thể
khiến cho chúng ta phải lo sợ bởi vì chúng ta e
ngại sẽ không kiểm soát được nó. Thế nhưng có
một lời chỉ dạy quan trọng nhất trong trong giáo
huấn nhà Phật: đấy là dù bất cứ thứ gì đi nữa
thì cũng đều có thể buông xả được cả. Sự buông
xả ấy không có nghĩa là một sự buông tay hay là
một sự lơ là, mà thật ra nó có thể giúp chúng ta
đạt được sự toàn thiện.
Tan-tra là một hình thức thách
đố đối với lòng tin của chúng ta khi phải đối
đầu với sức mạnh của sự sinh tồn, Tan-tra vừa
khuyến khích lại vừa tập cho chúng ta biết tin
tưởng hơn vào sức mạnh đó của sự sống. Phải xông
thẳng vào sự vinh quang. Và nếu đã gọi là xông
thẳng thì cũng chẳng cần phải đắn đo gì nữa. Đến
lúc cần phải nhảy vọt thì cứ nhảy, và chỉ có thế
thôi.
Tan-tra là con đường hướng thẳng vào các biểu
tượng
Tan-tra giúp chúng ta hòa nhập
với thế giới trong từng thể dạng của nó, và nhất
là giúp chúng ta vượt thoát khỏi mọi sự căng
thẳng và xung đột bằng cách tập cho chúng ta
tiếp cận trực tiếp với các biểu tượng không cần
phải dựa vào một sự "quy chiếu" nào cả
(non reference - tức có
nghĩa là các biểu tượng tự chúng trở thành sự
thật không nhờ vào một sự cố gắng gượng ép hoặc
một hình thức trung gian - quy chiếu - nào cả.
Thí dụ quán tưởng đến biểu tượng của một vị thần
linh thì biểu tượng ấy tự nó trở thành sự thật
tức là sự hiện diện trực tiếp của vị thần linh
ấy).
Vậy thì một biểu tượng không
cần thông qua một sự "quy chiếu" nào thì có
nghĩa là gì?
Đấy là một phương tiện trực
tiếp và không màu mè nhằm giúp chúng ta hòa nhập
vào sự vận hành của mọi hiện tượng đúng như
chúng hiện ra. Mặt trăng không phải là một biểu
tượng của lòng tốt căn cứ vào một dữ liệu
(corpus)
mang tính cách lý thuyết cần phải phân tích để
tìm hiểu, mà đấy là tiếng réo gọi trực tiếp từ
cội nguồn của một sự mở rộng hướng chúng ta vào
thế giới (thí dụ mặt
trăng biểu trưng cho lòng nhân từ, và mỗi khi
nhìn vào mặt trăng thì đấy không phải là một dịp
để nhắc nhở chúng ta nên phát lộ lòng nhân từ,
mà mặt trăng chính là lòng nhân từ đang hiển lộ
trong nơi sâu kín của lòng mình để réo gọi con
tim của chính mình). Biểu tượng thật
ra cũng chẳng phải là gì khác hơn là sự tỏa rộng
cái vẻ đẹp của chính nó.
Biểu tượng tỏa rộng sự toàn vẹn
của nó dưới tất cả mọi thể dạng, thí dụ như biểu
tượng gọi là mạn-đà-la chẳng hạn. Mạn-đà-la biểu
trưng cho sự quán thấy về thế giới trong thể
dạng đồng nhất của nó.
(mạn-đà-la là một thuật
ngữ dịch âm từ tiếng Phạn mandala, có nghĩa là
một vòng tròn, nếu hiểu rộng ra thì có thể xem
đấy là một bầu không gian biểu trưng cho một sự
thiêng liêng mang tính cách vừa tượng hình lại
vừa trừu tượng, dùng làm nền tảng trợ giúp cho
việc thiền định hay sự quán thấy).
Trong cuộc sống thường nhật của chúng ta
các sự nhận thức, các cảm tính cũng như tư duy
thường xảy ra rất rời rạc và lệch lạc, đôi khi
cũng rất bất nhất. Chúng ta nghĩ thế này nhưng
lại làm thế kia; đang suy nghĩ chuyện này lại
vụt quay sang suy nghĩ chuyện khác; nghĩ trước
thì lại quên sau. Chủ đích của mạn-đà-la là giúp
chúng ta biết tận hưởng những kinh nghiệm cảm
nhận thoát ra từ một thể dạng mà tất cả đều hợp
nhất với nhau. Chẳng hạn như trong lúc đang đi
tản bộ giữa thiên nhiên đôi khi chúng ta cũng
cảm nhận được thể dạng nhất thể đó. Chúng ta
trực tiếp tương kết mình với tất cả những gì
đang là như thế, từ tiếng gió thổi bên tai cho
đến cả hơi mát thấm vào da thịt, từ màu xanh của
cành lá cho đến cái thân xác nặng nề của mình,
của một con thú vụt chạy ngang ... Đấy là các
kinh nghiệm cảm nhận phản ảnh từ biểu tượng
mạn-đà-la: và đó cũng chính là cách giúp chúng
ta hòa nhập với tâm điểm của thế giới. Phép tu
tập về mạn-đà-la trên đây giúp duy trì được sự
cảm nhận trong tất cả mọi sự sinh hoạt của chúng
ta.
Trên quan điểm đó mạn-đà-la hàm chứa một
bản chất đầy thi vị và thật hài hòa, biểu trưng
cho một thế giới trung thực nhất, và trong cái
thế giới đó mỗi vật thể đều tương liên với các
vật thể khác và hiện ra qua sức mạnh của sự hiện
hữu của chính chúng ta cũng trong cái thế giới
đó.
Tan-tra có phải là một phép luyện tập mang tính
cách tính dục hay không?
Sở dĩ Tan-tra bị hiểu lầm là mang tính
cách tính dục là vì có nhiều học giả thiếu thận
trọng không đủ sức thấu triệt được sự tinh khiết
của Tan-tra nên đã rơi vào sự lầm lẫn to lớn đó.
Tan-tra thật ra là một phương pháp giúp bước
theo vết chân của Đức Phật một cách đúng đắn
nhất, và nếu muốn thực hiện được điều ấy thì
trước hết phải buông xả. Tất cả các học phái
Phật Giáo đều nhất trí với nhau trên một điểm
thật căn bản là chỉ có thể thật sự quay về với
chính mình khi nào đã tẩy xóa được cái ngã của
mình, và nếu muốn thực hiện được điều đó thì
phải loại bỏ được tất cả mọi hình thức bám
víu vào thân xác và tâm thức của chính mình.
Nếu biến Tan-tra thành một mớ kỹ thuật luyện tập
nhằm để cải thiện sự thích thú bệnh hoạn của
mình (tức là tính
dục) thì đấy quả thật là một sự xúc
phạm đến tính cách thiêng liêng của cả Phật Giáo
(tính dục là một
hình thức phát lộ hay một thể dạng cụ thể hóa
của tình trạng kích thích phát sinh từ bản năng
truyền giống. Thay vì gánh chịu tác động của sự
kích thích ấy thì Tan-tra chuyển nó thành một
hình ảnh biểu trưng cho sự kết hợp giữa Từ Bi và
Trí Tuệ giúp vào việc thiền định).
Trong
các cách
biểu tượng hóa của Tan-tra thì sự kết hợp giữa
một người nam và một người nữ quả đúng đã giữ
một vai trò quan trọng. Biểu tượng đó phản ảnh
sự kết hợp giữa trí tuệ - tức nữ tính - với sự
sinh hoạt đúng đắn và tràn ngập từ bi - tức nam
tính, và đấy cũng là cách biểu thị cho
tánh không, một thể dạng mà mỗi chúng ta đều
phải thực hiện cho chính mình.
Tính dục có thể là một bối cảnh giúp
chúng ta tiếp cận được với kinh nghiệm cảm nhận
ấy (tức tánh không),
tuy nhiên
đấy cũng là một dịp giúp cho một sự chuyển động
thật cởi mở nào đó của sự buông xả và không bám
víu có thể bùng dậy trong tim ta. Dục tính dưới
thể dạng mãnh liệt nhất của nó có thể khiến cho
chúng ta bị mù quáng và bấn loạn, luôn xúi dục
chúng ta chạy theo sự thỏa mãn. Ngược lại, nếu
biết tự giải thoát mình ra khỏi sự thúc dục của
nó thì dục tính sẽ là thể dạng căng tràn của
phúc hạnh hướng chúng ta vào không gian mở
rộng của thế giới.
Tan-tra luôn tìm cách thả lỏng năng lực
dục tính nhằm không để cho nó biến thành một sự
căng thẳng hay rối loạn. Dù sao đi nữa thì cũng
phải công nhận rằng không phải ai cũng thực hiện
được điều đó, muốn thành công thì trước hết phải
nắm vững được các nguyên tắc thật tinh tế trong
phép ngồi thiền, đấy là cách giúp chúng ta đạt
được khả năng trên đây mà không gây ra một sự
nguy hiểm nào, và cũng nên hiểu rằng phép luyện
tập ấy không liên hệ gì với sự khoái lạc mù
quáng, mà thật ra thì đấy chỉ là một sự mở rộng
thật quả quyết và triệt để
(một cách hóa giải các
xung năng của dục tính).
Tan-tra có thể giữ một vai trò như thế nào đối
với thế giới Tây Phương ngày nay?
Sau khi đọc qua những gì tôi vừa trình
bày về tất cả các học phái trên đây thì quý vị
cũng có thể hình dung được sự chọn lựa cũng như
lòng quyết tâm của tôi trong việc quảng bá và
giảng dạy Tan-tra. Tôi tin rằng thế giới Tây
Phương thật hết sức cần đến Tan-tra
(không phải chỉ có Tây
Phương mà cả Đông Phương nữa, tất cả chúng ta
đều cần phải tìm cho mình một con đường thật
hiệu quả để giúp mình quay về với chính mình).
Tan-tra lúc nào
cũng là
mũi lao bén nhọn của Phật Giáo. Chính nhờ mũi
lao ấy mà Phật Giáo đã khắc phục được những đám
man rợ biểu trưng bởi sự lầm lẫn, dị đoan, hung
bạo và bướng bỉnh, hận thù cũng như mọi thứ đức
tin sai lầm khác hầu giúp cho đóa sen của lòng
nhân từ có thể nở rộ. Trái với những gì mà
một số lớn các học giả thường đưa ra, Tan-tra
không hề là một học phái thứ yếu, chỉ phản ảnh
được ít nhiều tính cách chính thống, và sự quảng
bá của Tan-tra thì chỉ giới hạn trong một vài
nơi nào đó, chẳng hạn như Tây Tạng. Thật ra Tan-tra
là một trong những viên bảo châu quý giá nhất
trong giáo huấn của Đức Phật. Chính nhờ Tan-tra
mà Phật Giáo đã bành trướng khắp Á Châu. Ngôi
đền Borobudur, một kiến trúc khổng lồ được xây
dựng theo mô hình của mạn-đà-la trên đảo Java
(Inđônêxia / Nam Dương),
di tích Pagan (Myanmar
/ Miến Điện) và Angkor
(Campuchia)
là những bằng chứng cụ thể nhất.
Một phần lớn Á Châu theo Tan-tra cho đến
thế kỷ thứ XIII, và sau thế kỷ này thì mới bắt
đầu thoái lùi khắp nơi và ngày nay thì chỉ còn
tồn tại ở một vài nơi thật giới hạn.
Thế nhưng đối với thời đại của chúng ta
ngày nay thì dù cho nó có huy hoàng cách mấy đi
nữa thì vẫn thấy có một sự "man rợ"
(phi lý, điên rồ, không
thương tiếc) nào đó đang chi phối nó.
Xu hướng phải biến tất cả trở thành thành đồng
nhất, thí dụ như chánh sách toàn cầu hóa chẳng
hạn, là một trong những bằng chứng thật hiển
nhiên cho thấy sự hiện diện của sự hung hãn đó.
Chủ trương này áp đặt con người trên khắp hành
tinh phải ăn mặc cùng một thứ quần áo, nghe cùng
một thứ âm nhạc, ăn cùng một thứ thực phẩm do kỹ
nghệ sản xuất với một số lượng khổng lồ...
Thế giới chúng ta ngày nay luôn nêu cao
các giá trị về một số sự thật nào đó, thế nhưng
các sự thật ấy thật ra thì chỉ là những thứ tin
tưởng vào một huyền thoại nêu lên một thế giới
đã chết. Cái huyền thoại đó nghĩ rằng và tin
rằng sự sống chỉ đơn giản là một sự vận hành
mang tính cách cơ học. Nó đẩy con người văng ra
khỏi sự sống! Đối với cái huyền thoại ấy thì từ
địa cầu cho đến một gốc cây hay một con vật...,
tất cả đều không hàm chứa một sự sống thật nào
cả, vì thế cứ tha hồ mà hủy hoại chúng hoặc chế
tạo ra chúng tùy theo sở thích của mình.
Một con sông không còn biểu trưng cho sự
hiện hữu của một quê hương trong sự toàn vẹn
nguyên sinh của nó nữa, tương tự như những gì mà
thi hào Hölderlin từng ca ngợi trước đây
(Friedrich Hölderlin,
1770-1843, là một thi hào và triết gia người Đức
từng sáng tác rất nhiều bài thơ ca ngợi các con
sông lớn ở khắp Âu Châu). Ngày nay
con sông đã trở thành một nguồn năng lượng được
đánh giá bằng con số kilôwatt mỗi giây do các
con đập thủy điện cung cấp. Một khu rừng đối với
chúng ta không còn là một nơi lý tưởng để nô đùa
mà chỉ là một kho dự trữ gỗ và phải quản lý nó
như thế nào để mức thu hoạch đạt được tối đa.
(cũng xin lưu ý là rừng
ở Âu Châu thường là một nơi hoang dã để tản bộ,
du ngoạn và vui chơi thế nhưng ngày nay người ta
thường có khuynh hướng bảo trì rừng chỉ nhằm vào
mục đích giúp việc khai thác gỗ được hiệu quả
hơn). Thân xác con người trở thành
một bộ máy và chỉ cần chờ thêm một thời gian
ngắn nữa thì tất cả các bộ phận trong cơ thể đều
có thể thay thế được.
Thật hết sức khó để tìm thấy một lẽ sống
đúng nghĩa của nó trong một thế giới đã chết
(cái thế giới đang nhộn
nhịp, náo loạn và sinh đẻ không kịp đếm này mà
tác giả bảo là đã chết thì quả thật là một sự
liều lĩnh. Cái nhìn thiền quán thật sâu sắc và
tinh tế ấy quả cũng có khác với cái nhìn thiển
cận, thô thiển, u mê và đầy dục vọng của những
con người thế tục). Thật thế không
phải là vô cớ mà ngày nay 27% dân chúng Âu Châu
phải sử dụng thuốc an thần và một phần lớn người
Pháp để ra trung bình ba giờ mỗi ngày để xem
truyền hình (đấy là
những phản ứng giúp tránh né và quên đi cái thế
giới khủng hoảng và bất định hướng này. Tuy
nhiên người Pháp xem truyền hình ba giờ mỗi ngày
thì vẫn còn thua các dân tộc Á Châu xem "phim bộ"
của Hàn Quốc, Hồng Kông, Trung Quốc hết ngày này
sang ngày khác... Con người ngày càng đánh mất
đi tiềm năng quý giá nhất của mình, ấy là khả
năng biết suy nghĩ và trầm tư giúp để mình quay
về với chính mình).
Tan-tra là những lời giảng phù hợp nhất
do Đức Phật đưa ra nhằm ứng phó với tình trạng
đó. Những lời giảng ấy giúp chúng ta đối đầu với
các khó khăn do nó gây ra và phát huy các khả
năng sẵn có của chúng ta. Tan-tra là những lời
giảng của Đức Phật giúp để viết lên những vần
thơ và để đưa chúng ta bước vào sự rộng mở đầy
thi vị của thế giới, qua âm hưởng của các nguyên
âm và phụ âm, qua sự tỏa rộng của muôn màu nghìn
sắc. Tan-tra biểu trưng cho sự tự tin rộng lớn,
sự nóng bỏng của một thứ tình thương đích thật.
Bất cứ nơi nào vang lên âm hưởng của Tan-tra thì
nơi đó sẽ không có một thứ đạo đức giả nào còn
có thể tồn tại được nữa.
Thật thế Tan-tra khiến chúng ta phải
hoảng sợ và luôn thách đố chúng ta, thế nhưng nó
lại rất cần thiết bởi vì vào thời buổi này thì
nào mấy khi chúng ta có dịp được nghe một bài
thuyết giảng thuộc lãnh vực tôn giáo nêu lên các
giới luật đạo đức và các thái độ hành xử phải
tuân theo đâu. Thật thế khổ đau đang lan tràn
khắp nơi, do đó cũng cần phải gióng lên tiếng
trống của sự thật nhằm kêu gọi tất cả chúng ta
hãy quay về với Đạo Pháp và không nên chần chờ
gì nữa.
Chúng ta quá yếu hèn, mù quáng và đang
khổ đau, trong khi trí thông minh tuyệt vời của
chúng lại không thiếu, các niềm ước vọng luôn
sâu xa, và nỗi thất vọng thì lại ngày càng to
lớn, đấy chính là những lý do cho thấy tại sao
Tan-tra đã trở nên thiết yếu hơn bao giờ cả.
Không biết bao nhiêu thế kỷ đã trôi qua trong
lịch sử con người thế nhưng chưa bao giờ cái nhu
cầu đó lại tỏ ra thật cần thiết như ngày nay.
Phật Giáo Tây Tạng là gì?
Phật Giáo bành trướng từ lâu đời trong
hầu hết các vùng Nam Á và đã được truyền vào
Trung Quốc từ đầu kỷ nguyên, thế nhưng mãi cho
đến thế kỷ thứ VII thì Tây Tạng mới bắt đầu mở
cửa để đón nhận tín ngưỡng này
(lý do chính yếu nhất
cho sự chậm trễ đó là địa thế quá hiểm trở của
quốc gia này).
Tuy nhiên
sau đó Tây Tạng lại hết sức tích cực trong việc
tìm kiếm và gom góp kinh sách thuộc giáo huấn
của tất cả các học phái còn tồn tại ở Ấn Độ.
Nhiều người Tây Tạng không ngại hiểm
nguy tánh mạng đã vượt Hy-mã-lạp-sơn sang Ấn Độ
nhằm tìm kiếm các vị danh sư để tu học
(cách nay hơn mười thế
kỷ vượt Hy-mãHy-m-lạp-sơn
là cả một sự liều lĩnh vì những ngọn đèo trên
dãy núi này thật hiểm trở và thường gây ra tai
nạn, đấy là chưa kể đến đói khát, bệnh tật, giặc
cướp, v.v...). Họ học hỏi được nhiều
phép tu tập và gom góp được thật nhiều kinh sách
thuộc đủ mọi khuynh hướng, và sau đấy thì kiên
trì và nỗ lực dịch thuật.
Tóm lại Phật Giáo Tây Tạng đã bao gồm và
phản ảnh được tất cả các học phái, từ Phật Giáo
xưa đến Phật Giáo Đại Thừa, và ngày nay Tây Tạng
cũng đại diện cho một trong những nơi cuối cùng
mà Phật Giáo Tan-tra còn lưu truyền qua các thể
dạng chính thống và nguyên thủy nhất của nó. Sự
thành công sáng chói của Phật Giáo Tây Tạng ngày
nay quả là một phép lạ. Thật thế người ta có thể
tự hỏi tại sao Phật Giáo của một quốc gia nhỏ bé
như thế (cũng xin
mạn phép nhắc lại là xứ Tây Tạng tuy nhỏ bé trên
phương diện dân số : gồm 5 triệu dân Tây Tạng và
1,5 triệu người Hán di dân, thế nhưng lại rất
lớn về mặt diện tích đất đai: 2.500.000 km², tức
7 lần lớn hơn diện tích nước Việt Nam)
lại vượt lên hàng đầu
(tại Âu Châu)
so với với vô số các học phái Phật Giáo khác?
Trên dòng lịch sử, một số biến cố bất
ngờ đã liên tiếp xảy ra vào giữa các thế kỷ thứ
XI và XIII đã khiến cho Phật Giáo biến mất ở Ấn
Độ, một phần là do sự xâm lược của các đạo quân
Hồi Giáo. Vì các biến cố đó mà Tây Tạng đã trở
thành một mảnh đất lánh nạn cho rất nhiều học
phái Phật Giáo khác nhau. Chính nhờ thế mà rất
nhiều kinh sách quan trọng còn lưu giữ được đến
nay đều là các bản dịch sang tiếng Tây Tạng -
các bản gốc của Phật Giáo Ấn Độ đã bị thất
truyền.
Qua
hàng bao
thế kỷ các học giả uyên bác cũng như các vị thầy
Tây Tạng đã dồn tất cả tâm trí mình vào việc
nghiên cứu và tìm hiểu sự mạch lạc trong toàn bộ
khối kinh sách khổng lồ trên đây. Họ quả thật là
những vị xuất chúng trên con đường, đã phân loại
và sắp xếp kinh sách thành một hệ thống vô cùng
mạch lạc, chính xác và minh bạch.
Hơn nữa họ còn biết mang giáo huấn của
Đức Phật ra để tu tập và đã biến xứ sở họ trở
thành một lò hun đúc vô số các thánh nhân và
những người giác ngộ, mặc dù trong lịch sử các
thể chế của Tây Tạng đã tỏ ra khắc nghiệt hơn ở
bất cứ một nơi nào khác. Tóm lại họ là những
người đã vạch ra cho chúng ta một con đường vô
cùng hiệu quả.
Năm 1959
người Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng. Một chính
sách diệt chủng và tiêu diệt văn hóa đã được
thực hiện nhằm xóa bỏ tất cả các tàn tích lịch
sử cũng như các truyền thống lâu đời của xứ sở
này. Người Trung Quốc đốt phá gần 95% chùa
chiền, giết hại Tăng sĩ, đày những người chống
đối đi lao động tại các trại tập trung...
Ước tính có đến hơn một triệu rưỡi người trong
số sáu triệu dân đã bị giết
(tổng số tử vong do
chiến tranh và sau đó là chính sách diệt chủng).
Một vài vị thầy chạy thoát và đến được Tây
Phương. Họ mang ra giảng dạy những gì
mà họ đã được thừa hưởng từ nơi quê hương họ và
nhờ đó đã mở ra cả một thời đại mới trong lịch
sử Phật Giáo. Sự can đảm và lòng mộ đạo của họ
đã làm thay đổi hẳn quan điểm bất nhất của Tây
Phương trước đây đối với Phật Giáo - nếu chúng
ta nhớ lại những gì mà Foucher đã tuyên bố và đã
được trích dẫn trong chương I của quyển sách này
- thì cũng có thể bảo là họ đã tạo ra cả một
phép lạ (mạn phép
xin trích dẫn lại như sau: A. Foucher là một học
giả lỗi lạc người Pháp đã viết vào năm 1949 một
quyển sách nói về cuộc đời của Đức Phật và đã
tiên đoán trong quyển sách này như sau: "Ngoại
trừ một số người đặc biệt hiếu kỳ thích quan tâm
đến những thứ ngoại lai ra thì Phật Giáo rồi
cũng sẽ chỉ thu nạp được một số tín đồ thật ít
ỏi trên đất nước của chúng ta". Thế nhưng trên
thực tế thì chỉ nửa thế kỷ sau đó tại Pháp cũng
như trong thế giới Tây Phương, Phật Giáo đã trở
thành một tín ngưỡng thật tân tiến, khoa học,
tạo được một uy tín lớn lao và một vị thế vững
chắc trong các xã hội hoàn toàn thất vọng trước
những truyền thống tín ngưỡng lâu đời của mình).
Đức Đạt-lai Lạt-ma là ai và Ngài đã giữ một vai
trò như thế nào đối với Phật Giáo?
Đức
Đạt-lai
Lạ-ma không phải là vị giáo hoàng của Phật Giáo.
Uy danh của Ngài là do chính Ngài đã tạo ra cho
mình và không liên hệ gì đến tước vị sẵn có của
Ngài. Thật vậy Ngài chỉ là một vị lãnh đạo
tạm thời (tức có
nghĩa là trên lãnh vực chính trị, và thật ra thì
Ngài cũng đã chính thức từ bỏ chức vụ này vào
ngày 22 tháng 11 năm 2010, và quyển sách này thì
đã được xuất bản trước đó vào năm 2008)
của một quốc gia nhỏ bé đã bị sáp nhập vào Trung
Quốc, và cũng biết đâu cái xứ sở đó rồi đây với
thời gian cũng sẽ chìm vào sự quên lãng trong
cái hố sâu của lịch sử.
Sở dĩ Đức Đạt-lai Lạt-ma đã tạo được cho
mình một uy danh lừng lẫy ấy là nhờ vào phong
cách sống của Ngài và các công trình quảng bá
Phật Giáo mà Ngài đã thực hiện được, và cũng nhờ
vào thiện chí của Ngài luôn tìm cách đối thoại
với các vị thầy Phật Giáo khác đang đảm trách
việc hoằng Pháp trên toàn thế giới, và nhất là
Ngài đã can đảm nêu cao tính cách vững chắc của
tín ngưỡng của mình để thách đố với mọi chỉ
trích dù trên phương diện nào - quả đấy là một
sự kiện hết sức hiếm hoi trong lịch sử tôn giáo
nói chung. Phật Giáo Tây Tạng sẵn sàng mở rộng
để đối thoại với khoa học và các tôn giáo khác
của nhân loại, nhất là đối với Thiên Chúa Giáo,
đấy là những bằng chứng hùng hồn đã chứng minh
cho những điều vừa nêu lên.
Câu bé Tenzin Gyatso chào đời vào năm
1935 trong một gia đình nông dân thật khiêm tốn
trong một nông trại thuộc tỉnh Amdo tại miền
đông Tây Tạng. Dựa vào các tập quán lâu đời, cậu
bé này khi vừa được ba tuổi đã được chính thức
công nhận là một vị Đạt-lai Lạt-ma. Từ ba thế kỷ
nay các vị Đạt-lai Lạt-ma đã luân phiên cai trị
xứ Tây Tạng, một quốc gia có một diện tích năm
lần lớn hơn nước Pháp, thế nhưng dân số thì lại
ít hơn đến mười lần.
Cuộc xâm lăng của người Trung Quốc đã
phá tan cái thời gian dài êm ả trên quê hương đó.
Năm 1949,
Trung Quốc dưới thời của Mao Trạch Đông đã xua
quân tràn vào Tây Tạng với danh nghĩa là để giải
phóng xứ này. Thế nhưng người dân Tây Tạng thì
lại cứ xem họ như là kẻ thù của mình. Quân lính
Trung Quốc sử dụng bạo lực thật tàn nhẫn. Họ
muốn người Tây Tạng phải tin rằng nền văn minh
cộng sản của Trung Quốc rồi đây sẽ mang lại cho
họ một khung cảnh xã hội thoát khỏi các tín
ngưỡng cổ hủ và lâu đời, và sẽ đem thay vào đó
bằng những tiến bộ rực rỡ của nhân loại. Thế
nhưng thật oái oăm, người Tây Tạng thì lại cứ
kháng cự lại. Họ chỉ muốn bảo tồn tập quán,
truyền thống, ngôn ngữ và tín ngưỡng của mình mà
thôi. Người Trung Quốc thất bại với chiêu bài ý
thức hệ bèn quay sang sử dụng bạo lực, họ bèn
đốt phá chùa chiền, giết hại dân lành và nhất là
truy lùng các nhà sư để tàn sát (năm
1959 Tây Tạng có 100.000 sư sãi và 6.000 ngôi
chùa, năm 1990 chỉ còn 400 sư sãi sống sót và 30
ngôi chùa còn nóc - tài liệu trích trong "Atlas
of the World 's Religions", chủ biên Ninian
Smart, nhà xuất bản Calmann & King, London,
1999). Một kế hoạch diệt chủng thật
khủng khiếp được phát động và đã tàn sát một
phần sáu dân số Tây Tạng tức gần một triệu người
(đây là con số tử
vong trong lúc đang chiến tranh, con số này còn
tiếp tục gia tăng sau đó trong các trại cải tạo
và trong các vùng kinh tế mới).
Vì tánh mạng bị hăm dọa nên Đức Đạt-lai
Lạt-ma đành phải trốn sang tị nạn ở Ấn. Tại đây
trong khi mọi người chờ đợi những lời tuyên bố
căm phẫn đối với kẻ thù đang đàn
áp xứ sở mình, hay ít ra thì cũng phải là những
lời hứa hẹn sẽ phục thù thì Đức Đạt-lai Lạt-ma
lại đọc lên một bài diễn văn chan hòa tình
thương và nêu cao chủ trương hòa bình. Để đối
đầu với hận thù Ngài không hề đáp lại bằng hận
thù. Với tư cách một vị lãnh đạo tôn giáo Ngài
luôn giữ cách hành xử phù hợp với tín ngưỡng
của mình!
Thông điệp của Ngài lúc nào cũng nhắc
nhở mọi người phải mở rộng lòng từ bi, và đó
cũng là những gì đã khiến cho nhiều người Tây
Phương phải mủi lòng vì đấy là chính những thứ
mà họ đang thiếu thốn, và nhất là đã khiến cho
họ phải kính phục một tín ngưỡng phi giáo điều.
Đức
Đạt-lai Lạt-ma không hề khuyên bất cứ ai theo
Phật Giáo, mà chỉ nhắc nhở họ nên biết yêu
thương nhiều hơn và hãy quan tâm đến sự an vui
của tất cả mọi người. Những lời giảng huấn
của Ngài đều nhắm vào việc chỉ dạy mọi người
phải làm như thế nào để có thể thực hiện được
điều ấy, và cũng chính nhờ thế mà đã đạt được
nhiều thành quả lớn lao.
Hoàng Phong
chuyển ngữ
|