Cốt Lõi Của Cội Bồ Đề
nguyên tác
Buddhadasa Bhikkhu
Hoàng Phong
chuyển ngữ
Lời giới thiệu của người dịch:
Vào những ngày cuối năm 1961 bước sang
đầu năm 1962, một nhóm tu học Phật Pháp của nhân
viên bệnh viện Siriraj ở Bangkok có mời một nhà
sư Thái Lan là Buddhadasa Bikkhu đến thuyết
giảng trong ba ngày. Nội dung của ba buổi thuyết
giảng được ghi lại và in thành một quyển sách
nhỏ. Mãi đến năm 1983 tức là 21 năm sau đó thì
quyển sách này được dịch sang tiếng Anh
với tựa đề là "Heartwood of the Bodhi tree"
(Cốt lõi của cội Bồ-đề).
Từ đó đến nay quyển sách này ngày càng được
nhiều người biết đến và đã được liên tục tái bản,
đồng thời cũng đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ
khác. Năm 2011 quyển sách này được bà Jeanne
Schut một đệ tử người Pháp của vị đại sư Ajhan
Chah dịch sang tiếng Pháp với tựa đề "Le
coeur du message du Bouddha" (Tâm điểm
thông điệp của Đức Phật) với một văn phong
sáng sủa và bóng bẩy. Bản chuyển ngữ tiếng Việt
được dựa vào cả hai bản tiếng Anh và tiếng Pháp
trên đây.
Mãi đến năm 2006, tức là bốn mươi bốn
năm sau khi ấn bản tiếng Thái được phát hành và
cũng là mười ba năm sau khi Buddhadasa qua đời
thì quyển sách này đã được cơ quan UNESCO chính
thức đưa vào danh sách các tác phẩm thuộc gia
tài văn hóa của nhân loại. Đồng thời cũng vào
dịp này UNESCO đã vinh danh và thừa nhận
Buddhadasa là một nhà tư tưởng thượng thặng và
uyên bác về Phật Giáo.
Buddhadasa
xuất gia năm 1926 khi vừa được hai mươi tuổi.
Sau vài năm tu học trong một ngôi chùa tại
Bangkok ông nhận ra rằng "sự tinh khiết không
thể nào tìm thấy ở những thành phố lớn", nên bèn
rời chùa và trở về quê ông ở miền nam Thái Lan.
Ông dốc lòng sửa lại một ngôi chùa hoang phế và
đến năm 1932 thì biến ngôi chùa này thành một
trung tâm giảng dạy Phật Pháp rất nổi tiếng tên
là "Suan Mokkhabalarama" (có nghĩa là
"Khu vườn Giác Ngộ" và thường được gọi tắt
là "Suan Mokkh"), một trong những nơi đầu
tiên tại Thái Lan giảng dạy về thiền Minh Sát
(Vipassana).
Buddhadasa rất nhiệt tâm và bền chí
trong việc nghiên cứu Tam Tạng Kinh và các tập
sách bình giải bằng tiếng Pa-li. Ông chủ trương
phải tìm lại sự tinh khiết nguyên thủy cho Phật
Giáo. Tuy nhiên ông cũng nghiên cứu và tìm hiểu
các tôn giáo khác và giữ một mối bang giao rất
cởi mở với các tôn giáo này.
Trên phương
diện thuyết giảng và quảng bá Đạo Pháp thì
Buddhadasa chủ trương chỉ nêu lên những điều chủ
yếu, thiết thực và thật cần thiết nhằm giúp
người tu tập loại bỏ được khổ đau và đạt được
giác ngộ một cách trực tiếp và nhanh chóng. Ông
không nêu lên các khái niệm mang tính cách triết
học hay đơn thuần tín ngưỡng, vì theo ông đấy là
những gì không thiết thực. Chính vì điểm này mà
nhiều người thường hiểu lầm và xem Buddhadasa
thuộc vào nhóm các học giả và các người tu tập
Tây Phương chủ trương "duy lý hóa" và "khoa học
hóa" Phật Giáo, mà người đầu đàn của khuynh
hướng này là một thiền sư người Anh tên là
Stephen Bachelor.
Quyển sách gồm ba phần, ghi lại nội dung của ba
buổi thuyết giảng như sau:
Phần I: Những điểm chính yếu nhất
trong giáo huấn của Đức Phật
Phần II: Tánh không là gì
Phần III: Phải luyện tập như thế nào
để thường trú trong tánh không.
Trong phần thứ nhất Buddhadasa nêu lên mục đích chủ
yếu nhất của Đạo Pháp là giúp con người loại bỏ
khổ đau. Thế nhưng tại sao con người lại khổ đau?
Chẳng qua bởi vì con người luôn tìm cách nắm bắt
và bám víu vào "cái tôi" và cái "của tôi", và sự
nắm bắt và bám víu sai lầm đó đã làm phát sinh
ra một căn bệnh trầm kha mang tính cách bản năng
và nội tại nơi mỗi con người. Buddhadasa gọi căn
bệnh ấy là "căn bệnh tâm linh" và phương thuốc
chữa trị là cách luyện tập nhằm giúp mỗi người
thực hiện được bản chất vô ngã của chính mình và
của mọi sự vật.
Vì thế, theo một cách nhìn nào đó nếu chúng ta một
mặt thì tu tập Đạo Pháp và một mặt thì lại cứ
khư khư bám víu vào "cái tôi" và cái "của tôi"
hay bất cứ một thứ gì khác - dù đấy là niết-bàn,
sự giác ngộ hay sự giải thoát - thì đấy cũng chỉ
là cách tự tạo ra cho mình một tình trạng mâu
thuẫn với chính mình để rồi lại đưa đến mọi thứ
khổ đau khác mà thôi. Những thứ khổ đau ấy đôi
khi rất tinh tế và kín đáo khiến chúng ta không
ý thức được sự hiện diện và các tác động do
chúng gây ra mà cứ tưởng rằng đấy là con đường
đích thật giúp thực hiện được những ước vọng tâm
linh của mình. Chúng ta mong cầu đạt được một sự
giải thoát nào đó, thế nhưng thật ra thì đấy
cũng chỉ là một sự lừa phỉnh, bởi vì sự mong cầu
ấy cũng chỉ đơn giản là một hình thức bám víu
vào cái ngã của mình.
Phần thứ hai của quyển sách giải thích về tánh không,
là khái niệm chủ yếu và căn bản nhất của Đạo
Pháp. Dù rằng có ít nhiều khác biệt trong cách
hiểu và cách giải thích về tánh không giữa các
tông phái và học phái, thế nhưng tất cả đều nhất
loạt chấp nhận và nêu cao khái niệm cốt lõi này
trong Đạo Pháp. Cũng nên hiểu rằng bất cứ một
hình thức tu tập nào không căn cứ vào khái niệm
này đều có thể xem như không phải là chính Pháp.
Không có một
nền văn minh nào, một hệ thống tư tưởng nào, một
triết học nào, một tôn giáo nào, một khoa học
nào nêu lên khái niệm này ngoài Đạo Pháp của Đức
Phật. Thật vậy khái niệm về tánh không do Ngài
đưa ra vượt lên trên tất cả các tôn giáo, kể cả
"Phật Giáo" dưới các hình thức "tín ngưỡng" mang
tính cách đại chúng. Tánh không hay vô ngã dù
thuộc lãnh vực cá thể con người hay bao gồm tất
cả mọi hiện tượng trong vũ trụ, và dù mang tính
cách tâm thần hay ngoại cảnh thì cũng đều biểu
trưng cho một sự "hiểu biết" siêu việt trong
lãnh vực triết học và một "phương tiện" thực
dụng góp phần vào việc "điều chế" phương thuốc
công hiệu nhất nhằm chữa trị "căn bệnh tâm
linh", là nguyên nhân mang lại những thứ "khổ
đau" dai dẳng và sâu kín nhất của con người.
Phần thứ ba của quyển sách trình bày rõ ràng và cụ
thể các phép luyện tập giúp chữa trị căn bệnh
tâm linh, hay nói cách khác là giúp chúng ta
đình chỉ mọi sự nắm bắt và bám víu vào "cái tôi"
và cái "của tôi" là nguyên nhân cội rễ khiến tạo
ra căn bệnh ấy. Nếu thực hiện được sự đình chỉ
đó một cách tuyệt đối thì đấy cũng sẽ là sự Tắt
Nghỉ toàn diện, là Niết-bàn, là Tánh Không đích
thật, là Đạo Pháp, là Đức Phật.
Nghe qua thì có vẻ dễ hiểu thế nhưng tánh không lại
là một khái niệm rất khó thấu triệt. Vậy phải
làm thế nào để giúp cho tất cả mọi người với khả
năng lĩnh hội không đồng đều, đều có thể quán
thấy được tánh không hầu mang lại cho mình một
sự đình chỉ tuyệt đối hay là sự giải thoát? Vì
nếu chỉ biết tụng niệm liên miên và mượn những
hình thức lễ lạc màu mè để che dấu những khổ đau
dai dẳng, nội tại và sâu kín của mình, hoặc nói
một cách khác là tự đánh lừa mình thì chúng ta
cũng sẽ chẳng giải quyết được gì nhiều, nếu
không muốn nói tất cả chỉ sẽ đưa đến một sự bế
tắc. Để vượt lên khó khăn này Buddhadasa hướng
chúng ta vào sự quán thấy tánh không dưới những
thể dạng thật đơn giản hiện ra trong cuộc sống
thường nhật của mình. Dù rằng thể dạng trống
không hay tánh không trong các trường hợp sơ
khởi ấy chưa được toàn vẹn đi nữa, nhưng cũng đã
đủ để giúp chúng ta "nếm được" một chút "tiền vị"
nào đó của niết-bàn đích thật sau này.
Thật vậy,
Buddhadasa đã từng bảo rằng bất cứ ai, dù đấy là
các cụ già hay những người chất phác không được
học hành nhiều, kể cả đám trẻ con còn cắp sách
đến trường, nếu họ thật sự muốn loại bỏ khổ đau
thì tất cả cũng đều có thể thừa hưởng được hiệu
quả mang lại từ tánh không: "Nếu không đủ sức
hiểu được vô ngã và tánh không là gì thì ít ra
các bạn cũng phải hiểu được thế nào là không ích
kỷ chứ! Và nếu không ích kỷ thì cũng đủ để mang
lại một sự giải thoát nào đó cho mình và giúp
mình đến gần với Đức Phật hơn". Thật thế, không
ích kỷ cũng là một hình thức gián tiếp không bám
víu vào "cái tôi" và "cái của tôi", một thể dạng
thật đơn giản nào đó của tánh không.
Khái niệm về tánh không mang hai khía cạnh khác biệt
nhau. Khía cạnh thứ nhất biểu trưng cho bản chất
của hiện thực, nêu lên sắc thái triết học siêu
hình, liên quan ít nhiều đến khoa hiện tượng học
và tất cả các ngành học khác, nói chung là sự
hiểu biết của con người. Khía cạnh thứ hai mang
tính cách thực dụng giúp người tu tập đạt được
sự giải thoát và an trú trong hiện thực, tức là
trong tánh không của vũ trụ và của chính niết-bàn.
Buddhadasa đã khai triển khía cạnh thứ hai này
một cách thật khéo léo, giúp chúng ta quán thấy
tánh không của chính mình và của hiện thực trong
từng giây phút một trong cuộc sống thường nhật:
có nghĩa là trong những lúc sinh hoạt bình
thường, trong khi thiền định và trong lúc cái
chết gần kề.
Người dịch mạn
phép xin ghép thêm một vài lời ghi chú nhỏ vào
phần chuyển ngữ với hy vọng có thể giúp người
đọc dễ theo dõi nguyên bản hơn. Các lời ghi chú
này được trình bày bằng chữ nghiêng và đặt trong
hai dấu ngoặc. Ngoài ra trong phần phụ lục ở
cuối sách người dịch cũng xin trình bày thêm một
vài nét về vị đại sư Buddhadasa.
Hoang Phong
================
Phần I
Những điểm chính yếu nhất trong giáo huấn của
Đức Phật
Cuộc hội ngộ giữa chúng ta hôm nay quả là một dịp
may hiếm có, do đó tôi nghĩ rằng cũng nên nêu
lên các đề tài trọng yếu nhất hầu có thể tóm
lược được những điểm giáo lý căn bản trong
Dhamma (Đạo Pháp). Vì thế đề tài của
buổi nói chuyện hôm nay sẽ là "Những điểm chính
yếu nhất trong giáo huấn của Đức Phật", với hy
vọng là nếu thấu hiểu được tường tận những điểm
ấy thì quý vị nhất định cũng sẽ bước được một
quãng thật dài trên đường tu học. Thật vậy, nếu
không nắm vững được các điểm trọng yếu này thì
quả rất khó cho quý vị có thể tránh khỏi mọi sự
hoang mang: quý vị sẽ luôn thắc mắc là tại sao
lại có quá nhiều thứ (giáo lý) cần phải
học đến thế, chúng cứ tiếp tục nhân lên đến độ
không sao có thể nhớ hết, hiểu hết và mang ra
ứng dụng hết được (Phật Pháp quá nhiều và quá
đa dạng). Đấy là nguyên nhân thường thấy
nhất đã khiến cho nhiều người phải bỏ cuộc trên
Con Đường: họ thấy nản chí và sau đấy thì mối
quan tâm đến Đạo Pháp của họ cũng sẽ dần dà bị
phai nhạt đi. Họ cảm thấy việc ấy trở thành một
gánh nặng phải mang trên vai và cũng chẳng biết
phải xử trí với nó như thế nào nữa.
Căn bản giáo huấn của Đức Phật
Trước hết tôi sẽ nhắc lại một vài điểm chính yếu
trong giáo huấn của Đức Phật nhằm giúp quý vị ôn
lại kiến thức của mình. Đây là những điểm thật "căn
bản" và cần thiết để giúp quý vị hiểu được
Dhamma (Đạo Pháp) một cách đúng đắn
hơn. Tôi xin lập lại và nhấn mạnh ý nghĩa của
chữ "căn bản", bởi vì có nhiều thứ hiểu biết
không mang tính cách "căn bản", nếu không muốn
nói là có một số những phần bình giải sai lầm
nữa (ý nói là có nhiều thứ giáo lý thêm thắt).
Đấy là những thứ bình giải lệch lạc ngày càng đi
trệch ra bên ngoài giáo huấn của Đức Phật. Dù
cho những cách bình giải ấy có giữ được tính
cách Phật Giáo mấy đi nữa thì đấy cũng chỉ là
những thứ thêm thắt và sau này dần dà cũng sẽ bị
loại bỏ ra ngoài giáo huấn của Đức Phật.
Để cho một điều gì đó có thể được xem là thuộc "căn
bản" giáo huấn của Đức Phật thì điều ấy phải đáp
ứng được hai điều kiện sau đây: thứ nhất là phải
giúp loại bỏ được dukkha (khổ đau)
và thứ hai là mọi người đều có thể tự kiểm chứng
được điều ấy (tức làm cho khổ đau phải chấm
dứt) mà không cần phải trông cậy vào bất cứ
ai khác (Phật Giáo là một tín ngưỡng tự lực).
Đấy là hai yếu tố quan trọng nhất thuộc "nền
móng" hay "căn bản" giáo huấn của Đức Phật.
Đức Phật không đề cập đến bất cứ điều gì không mang
mục đích làm cho dukkha (khổ đau)
phải chấm dứt, thí dụ như các chủ đề liên quan
đến sự tái sinh chẳng hạn. Người ta có thể nêu
lên với Đức Phật các câu hỏi đại loại như sau:
Tái sinh là gì? Nó vận hành ra sao? Hậu quả của
kamma (nghiệp) là gì? Thế nhưng
tất cả các câu hỏi ấy không liên quan gì đến
việc giúp cho khổ đau phải chấm dứt, và đấy cũng
là lý do cho thấy tại sao những thắc mắc đại
loại như trên đây không nằm trong những lời
giảng huấn của Đức Phật. Hơn nữa, đối với một
người khi đã nêu lên các thắc mắc như trên đây
thì tất nhiên họ cũng sẽ không còn một sự lựa
chọn nào khác hơn là phải tin một cách mù quáng
vào các câu trả lời mà họ tiếp nhận được từ một
người nào đó mà chính những người này cũng không
thể tự kiểm nghiệm được, và cũng chỉ biết đưa ra
các câu trả lời dựa vào cảm nghĩ riêng của mình
hay lập lại những gì đã được nghe người khác nói.
Do đó, các chủ đề ấy sẽ tách xa dần từng chút
một với Dhamma (Đạo Pháp), và sau cùng
thì sẽ trở nên xa lạ hẳn với Dhamma, và
cũng sẽ chẳng còn dính dáng gì với mục đích làm
cho dukkha phải chấm dứt.
Ngược lại, nếu có thể gạt bỏ được những thứ thắc mắc
(vô ích) ấy đi thì chúng ta cũng có thể
sẽ tự hỏi: "Dukkha có thật sự hiện hữu
hay không? " và "Cần phải làm gì để dukkha
phải chấm dứt?". Đối với những câu hỏi ấy thì
Đức Phật sẽ sẵn sàng trả lời, và những ai biết
lắng nghe lời dạy của Ngài thì cũng sẽ nhờ đó mà
thấu hiểu được sự thật trong từng chữ của các
câu giải đáp ấy và không còn cần phải tin tưởng
một cách mù quáng nữa. Người ấy sẽ ngày càng
hiểu được minh bạch hơn cho đến một lúc nào đó
thì sẽ thấu triệt được một cách hoàn toàn. Khi
nào sự hiểu biết đạt mức toàn vẹn để có thể giúp
cho người ấy trút bỏ vĩnh viễn được dukkha
thì khi đó sự hiểu biết ấy sẽ được gọi là sự
hiểu biết tối thượng (có nghĩa là sự giác ngộ).
Khi đã đạt được sự hiểu biết tối thượng rồi thì
người ấy cũng sẽ hiểu rằng ngay cả trong hiện
tại cũng không hề có "người nào" là đang sống cả
(vì vô ngã nên không có "cái tôi" nào đang
hiện hữu cả); người ấy cũng sẽ hiểu và không
còn một chút nghi ngờ nào rằng không hề có "cái
tôi" và cũng không thể có bất cứ thứ gì thuộc
vào "cái tôi" cả (giải thích sự giác ngộ và
giải thoát tuy rất đơn giản và dễ hiểu thế nhưng
thật sâu sắc: đạt được sự hiểu biết tối
thượng thì sẽ nhận thấy là "không có người nào"
đang sống cả và cũng chẳng có gì thuộc vào "của
ai cả" - kể cả thân xác và tâm thức của chính
mình - và đấy chính là sự giác ngộ và giải thoát).
Cái cảm tính về một "cái tôi" và cái "của tôi"
chỉ có thể hiện ra khi nào chúng ta cứ để mặc
một cách thật đần độn cho bản chất lừa phỉnh của
các thứ cảm nhận giác cảm đánh lừa mình (các
kinh nghiệm cảm nhận của ngũ giác không biểu
trưng đúng cho hiện thực, bởi vì đấy chỉ là
những sự diễn đạt của tri thức mang tính cách
chủ quan, quy ước và đã bị tô đậm bởi các vết
hằn của nghiệp, và chính đấy là bản chất "lừa
phỉnh" của chúng - có nghĩa là chúng không trung
thực và luôn đánh lừa chúng ta khi chúng ta nhìn
vào hiện thực). Nếu không hề có một "cá nhân"
nào sinh ra (vô ngã), thì tất cũng sẽ
không hề "có ai" chết cả và cũng sẽ chẳng hề "có
ai" tái sinh cả. Do đó tái sinh là một vấn đề
hoàn toàn khôi hài và chẳng liên hệ gì đến Phật
Giáo (chủ đề này khá tế nhị và phức tạp, xin
lưu ý là Buddhadasa vẫn đề cập đến vấn đề tái
sinh giữa các kiếp sống khác nhau, thế nhưng khi
phải giải thích về "luân hồi" thì ông chỉ nêu
lên sự "luân hồi" của "cái tôi" trong tâm thức
của mỗi người trong kiếp sống hiện tại. Đấy là
một điểm thật tinh tế liên quan đến chủ trương
và phương pháp giảng huấn của Buddhadasa mà ít
người hiểu hay chú ý đến. Cũng xin mạn phép ghi
chú thêm là Phật Giáo Tan-tra trong khi đó thì
lại chủ trương nhìn thẳng vào cái chết nhằm để
chủ động nó).
Mục đích của giáo huấn Phật Giáo là giúp chúng ta
hiểu được là không hề có "cái ngã" tức là không
có gì có thể gọi là một "cá thể" cả. Cảm tính về
sự hiện hữu của một "cá nhân con người" chỉ là
một sự hiểu biết sai lầm của một tâm thức u mê.
Đấy chỉ đơn giản là một thân xác và một tâm thức,
và cả hai thứ ấy thì cũng chỉ là sự vận hành của
những quá trình mang tính cách tự nhiên. Sự vận
hành ấy cũng chẳng khác gì như những chuyển động
cơ học nhằm xử lý và biến chế các dữ liệu. Nếu
các chuyển động ấy vận hành một cách sai lạc thì
kết quả mang lại cũng sẽ là một sự hiểu biết đần
độn và hoàn toàn ngớ ngẩn về hiện thực: tức có
nghĩa là tin vào sự hiện hữu đích thật của một "cá
thể" con người, vào một "cái tôi" và vào các sự
vật thuộc vào cá thể của con người ấy. Nếu các
chuyển động đó vận hành một cách đúng đắn thì sự
quán thấy mang tính cách sai lầm trên đây chẳng
những sẽ không xảy ra mà hơn thế nữa sẽ làm phát
sinh ra một sự chú tâm thật trong sáng (satipanna
/
truth-discerning awareness /
sự tỉnh thức hay tỉnh giác) giúp nhận biết được hiện thực. Đấy chính là một sự quán thấy căn
bản và đích thật, một sự nhận biết thật minh
bạch chứng minh cho thấy rằng không hề có "cái
ngã" và cũng chẳng có gì thuộc vào "cái ngã" cả.
Căn cứ vào sự kiện đó người ta có thể hiểu rằng vấn
đề tái sinh hoặc bất cứ gì đại loại như thế
không phải là một chủ đề thuộc lãnh vực giáo
huấn Phật Giáo. Tốt hơn hết là chỉ nên nêu lên
các câu hỏi như sau: "Có dukkha hay không?"
hay là "Phải làm thế nào để dập tắt được
dukkha?". Khi đã hiểu được nguyên nhân cội
rễ mang lại dukkha là gì thì khi đó người
ta cũng sẽ tìm được phương cách để loại bỏ nó.
Thế nhưng cái nguyên nhân cội rễ ấy của
dukkha là gì? Đấy chính là thể dạng u mê
(vô minh) tin tưởng một cách sai lầm vào sự
hiện hữu của "cái tôi" và cái "của tôi".
Vấn đề liên quan đến "cái tôi" và cái "của tôi"
(khái niệm về vô ngã) là vấn đề cốt lõi nhất
trong giáo huấn Phật Giáo. Đấy là những thứ phải
loại bỏ cho bằng được (tức là phải loại bỏ
cái tôi và cái của tôi). Do đó tất cả sự
hiểu biết phải tập trung vào đấy. Việc học hỏi
cũng như cách tu tập về toàn bộ giáo huấn Phật
Giáo cũng là đấy, không có một ngoại lệ nào cả.
Tôi xin quý vị hãy cố gắng ghi nhớ điều ấy.
Nếu nghiên cứu cặn kẽ phần căn bản làm nền móng cho
Dhamma thì người ta cũng sẽ nhận thấy
rằng chúng không đến đỗi quá nhiều. Trong một
bài thuyết giảng Đức Phật cũng đã từng cho biết
là chỉ có một nắm mà thôi (trích dẫn trong
kinh Simsapa-sutta - Samyutta Nikaya, LVI-31.
Kinh này nhắc lại sự tích Đức Phật nhặt một nắm
lá simsapa trong một khu rừng ở xứ Kosambi và
nói với các đệ tử rằng: "Này các tỳ kheo, lá
trong tay của Như Lai thật là ít so với số lá
trên các cành cây của cả khu rừng này. Những gì
Ta quán thấy được một cách trực tiếp nhiều hơn
gấp bội [những gì Ta đang nắm trong tay, tức có
nghĩa là những gì mà Ta đã thuyết giảng]. Thế
nhưng tại sao Ta lại không giảng tất cả những
thứ ấy? Bởi vì chúng không liên hệ gì đến chủ
đích [của Con Đường], không phản ảnh một thể
dạng đơn sơ nào của sự sống [tức chẳng liên hệ
gì đến bất cứ một chúng sinh nhỏ nhoi nào],
không đánh tan được sự mê lầm, loại bỏ được dục
vọng, không mang lại sự đình chỉ, sự thanh thản,
sự quán thấy trực tiếp, sự tỉnh thức [sự Giác
Ngộ] và sự Giải Thoát. Đấy là lý do tại sao Ta
không thuyết giảng". Sở dĩ mạn phép dài dòng
nhắc lại bài kinh này bởi vì Buddhadasa đã mượn
chính bài kinh này để làm phương châm giảng huấn
của ông, tức chỉ giảng những gì thật cần thiết
giúp người tu tập loại bỏ được khổ đau và đạt
được sự giải thoát. Ông đã tìm đủ mọi cách để
giúp người tu tập không bị lạc hướng trên Con
Đường và không rơi vào những ngõ ngách phụ thuộc
và dư thừa. Do đó, như đã nêu lên trong một ghi
chú trên đây là một vài học giả Tây phương kể cả
một số người Phật Giáo Thái Lan nghĩ rằng
Buddhadasa chủ trương "đơn giản hóa" Phật Giáo,
và đấy là một sự sai lầm). Đức Phật đi ngang
một khu rừng, Ngài cúi xuống nhặt một nắm lá và
hỏi các tỳ kheo đang bước theo Ngài rằng lá
trong tay Ngài có nhiều hơn lá trên các cành cây
trong rừng hay không. Tất cả các tỳ kheo đều
đồng loạt trả lời rằng lá trên các cành cây
trong rừng nhiều vô số lần hơn so với số lá
trong tay Ngài. Quý vị hãy nhìn vào những lời ẩn
dụ ấy để hiểu Đức Phật muốn nói lên điều gì: lá
trong rừng quả là nhiều vô kể. Đức Phật có ý cho
biết là những gì mà Ngài đã khám phá ra thì
nhiều như lá trong rừng, thế nhưng những gì cần
phải giảng dạy và mang ra thực hành thì cũng
chẳng nhiều hơn nắm lá trong bàn tay của Ngài
(Đức Phật quán thấy được bản chất của hiện thực,
thấu triệt được các quy luật vận hành của mọi
hiện tượng trong vũ trụ, thế nhưng Ngài chỉ chọn
ra những hiểu biết nào thiết thực nhất nhằm có
thể trực tiếp mang lại sự giải thoát cho tất cả
chúng sinh).
Tóm lại những gì trên đây cho thấy là các nguyên lý
chính yếu cần phải mang ra để luyện tập nhằm
loại trừ dukkha thì cũng không nhiều hơn
một nắm lá trong tay, trong khi đó thì lại có
hằng hà sa số đủ mọi thứ khác trong thế giới này.
Chúng ta phải nhận thấy lợi điểm lớn lao của sự
ít ỏi đó, bởi vì nó sẽ không vượt quá xa khả
năng học hỏi và sức hấp thụ của chính mình. Đấy
là điểm quan trọng đầu tiên mà chúng ta phải ý
thức được hầu dựa vào đấy để thiết đặt một nền
móng hiểu biết vững chắc cho toàn bộ giáo huấn
Phật Giáo.
Tôi vừa nêu lên các chữ "giáo huấn Phật Giáo" và tôi
mong rằng quý vị cũng nên tìm hiểu ý nghĩa chính
xác của các chữ này là gì. Vào thời buổi của
chúng ta ngày nay, mỗi khi nghe nói đến "giáo
huấn Phật Giáo" thì đấy cứ như là một đám mây mù:
quá sức mênh mông lại không được định nghĩa đầy
đủ. Vào thời kỳ của Đức Phật người ta sử dụng
một thuật ngữ khác hơn (không gọi là giáo
huấn Phật Giáo): đấy là chữ Dhamma (xin
chú ý chữ "Phật Giáo" - Buddhism - là một chữ do
người Tây Phương chỉ mới sáng chế ra vào đầu thế
kỷ XIX - khoảng năm 1925!). Chữ Dhamma (Đạo
Pháp) chỉ có nghĩa là làm cho dukkha
(khổ đau) phải chấm dứt. Có nhiều thứ
dhamma khác nhau, dhamma của Đức Phật
thì được gọi là "Dhamma của nhà sư Cồ Đàm".
Nếu đấy là dhamma của những người tu hành
khác, chẳng hạn như của vị Nigantha Nâtaputta
(một vị cùng thời với Đức Phật và là người sáng
lập ra Đạo Ja-in / Jaïsm) thì gọi là "Dhamma
của Nigantha Nâtaputta". Ai thích dhamma
nào thì cứ nghiên cứu dhamma ấy cho đến
lúc hiểu được thấu đáo và sau đó thì mang ra
thực hành. Sở dĩ trong các thời kỳ xa xưa người
ta gọi đấy là "Dhamma của nhà sư Cồ Đàm"
bởi vì vào các thời kỳ ấy Dhamma còn rất
tinh khiết, không hề có cạm bẫy, cũng chưa có vô
số các thứ ngoại lai được ghép thêm vào. Ngày
nay thì lại khác, chúng ta gọi chung Dhamma
và tất cả những thứ thêm thắt là "giáo huấn
Phật Giáo". Chỉ vì chúng ta thiếu cẩn trọng cho
nên cái-gọi-là "giáo huấn Phật Giáo" đã trở
thành cả một đám mây mù gồm cả những thứ hoàn
toàn ngoại lai mà trước đó không hề có trong
giáo lý nguyên thủy (cũng xin mạn phép góp
thêm một vài lời ghi chú. Nếu đã là một người
Phật tử thì lúc nào cũng phải ý thức được tính
cách vô thường của tất cả mọi hiện tượng, Dhamma
cũng chỉ là một hiện tượng. Tính cách đặc thù và
độc đáo nhất của Phật Giáo chính là ở điểm đó.
Dhamma tiến hóa và biến đổi qua thời gian, không
gian và tương tác cũng như thích ứng với bối
cảnh chung quanh để trở nên vô cùng phong phú và
do đó cũng sẽ rất phức tạp - kể cả những sự diễn
đạt sai lầm - thế nhưng chính đấy là sinh lực
của Phật Giáo. Đấy là những gì cho thấy Phật
Giáo khác hơn so với các tôn giáo dựa vào những
nguyên lý chết khô và cứng nhắc. Tuy nhiên
Buddhadasa hoàn toàn có lý khi ông chủ trương
tìm kiếm những gì nguyên thủy nhất, tinh khiết
nhất và thiết thực nhất để giúp người tu tập một
cách hiệu quả hơn).
Giáo huấn đích thật của Phật Giáo cũng đã quá đầy đủ
- nhiều như lá trong rừng - thế nhưng những gì
cần mang ra để học hỏi và tu tập thì lại chỉ như
một nắm lá trong tay. Mặc dù đã quá nhiều thế
nhưng kể cả vào thời buổi này người ta vẫn còn
cứ muốn ghép thêm vào giáo huấn của Đức Phật đủ
mọi thứ khác, chẳng hạn như lịch sử tôn giáo và
tâm lý học ứng dụng... Hãy nêu lên một thí dụ
ngay trong trường hợp của Tạng Luận (Abhidhamma
/ A-tì-đạt-ma luận, tức là tạng thứ ba trong Tam
Tạng Kinh, một tạng kinh được trước tác sau khi
Đức Phật đã tịch diệt), nội dung của tạng
kinh này gồm nhiều phần thuộc tâm lý học, nhiều
phần khác thuộc triết học, và cứ thế mà tạng
kinh này ngày càng được triển khai thêm nhằm đáp
ứng sự đòi hỏi của các môn đồ (Tạng Luận được
trước tác suốt trong khoảng mười thế kỷ liên
tiếp - từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ XI, tức cho
đến thời kỳ Phật Giáo bắt đầy suy tàn khắp nơi ở
Á Châu. Hơn nữa Tạng Luận cũng gồm có nhiều văn
bản khác nhau với nội dung ít nhiều khác nhau
tùy theo các học phái). Do đó đã có quá
nhiều thứ được ghép thêm vào giáo huấn của Đức
Phật. Tất cả các thứ ấy được gom chung dưới một
tên gọi duy nhất là "giáo huấn Phật Giáo",
thế nhưng trên thực tế thì lại có nhiều
thứ "giáo huấn Phật Giáo" khác nhau (nhiều
học phái, tông phái...khác nhau).
Nếu không nhận thấy được các điểm trọng yếu thì tất
nhiên chúng ta cũng sẽ khó tránh khỏi bối rối
khi phải chọn một giáo huấn thích hợp với mình.
Đấy cũng chẳng khác gì bước vào một cửa tiệm bán
quá nhiều mặt hàng khiến chúng ta không còn biết
phải chọn thứ nào. Thông thường chúng ta chỉ
biết căn cứ vào sở thích của mình để chọn lựa -
tức thêm một chút này, bớt một chút kia, làm thế
nào để hợp ý mình. Thế nhưng thật ra thì đấy chỉ
là cách lựa chọn dựa vào các yếu điểm sẵn có tức
là chiều theo các sở thích riêng tư của mình,
thay vì phải phán xét dựa vào sự chú tâm và tỉnh
giác. Chính vì thế mà đời sống tu tập tâm linh
của chúng ta đôi khi chỉ gồm toàn những thứ
chuyện như lễ bái, cố gắng "tạo thêm công đức",
học thuộc lòng kinh điển, tìm cách tránh bớt lo
sợ (cầu khẩn, thiền định nhằm vào mục đích
lẩn tránh hiện thực...), v.v. Thế nhưng tất
cả những thứ ấy nào có liên hệ gì với giáo huấn
Phật Giáo đâu.
Như vậy thì chúng ta cũng phải cố gắng để phân biệt
được đâu là giáo huấn Phật Giáo và đâu là những
thứ thêm thắt đã được ghép thêm vào. Kể cả đối
với giáo huấn đích thật thì chúng ta cũng phải
nhận biết được những điểm nào căn bản và chủ yếu
nhất. Đấy là những gì mà tôi sẽ trình bày với
quý vị sau đây.
Căn bệnh tâm linh
Các buổi thuyết trình này được tổ chức trong một
bệnh viện, do đó cũng đã khiến cho tôi nhớ đến
một tập Luận Giải đã từng ví Đức Phật như một vị
"Lương Y" về tâm linh. Khi tìm hiểu một số các
lời giáo huấn của Đức Phật và các lời bình giải
trong các Tập Luận thì người ta cũng có thể nhận
thấy được một số tiêu chuẩn để giúp xác định hai
thứ bệnh: đấy là bệnh thể xác và bệnh tâm thần.
Kinh sách thường nói đến một thứ bệnh gọi là "bệnh
tâm thần", thế nhưng cách mô tả và chẩn bệnh thì
có phần khác hơn so với ngày nay. Vào thời đại
của Đức Phật, căn bệnh này chỉ có nghĩa là một
sự quán thấy sai lầm về mọi vật thể, hay chỉ là
một sự thèm khát. Ngày nay thì thuật ngữ này lại
được sử dụng để chỉ định các bệnh tâm thần thật
sự, tức liên hệ đến cơ thể (trong đó có cả
não bộ) và do đó cũng có nghĩa là liên hệ
đến toàn bộ lãnh vực thân xác nói chung (thân
xác và não bộ). Nhằm giúp định nghĩa các
thuật ngữ trên đây rõ ràng hơn, tôi đề nghị nên
đặt ra thêm một thuật ngữ thứ ba nữa: trước hết
là gom các thứ bệnh thuộc thân xác và tâm thần
vào một thứ và gọi chung là "bệnh tâm thần", và
thuật ngữ mới được đề nghị thêm là "bệnh tâm
linh" (maladie spirituelle / spiritual
disease) để chỉ định những gì mà Đức Phật mô
tả như là một thứ bệnh của tâm thức (mỗi
người đều có thể có sức khỏe tốt, không đau ốm,
hoặc cũng có thể bị "bệnh tâm thần" tức là các
thứ bệnh trên thân xác và trong não bộ - điên
loạn, thế nhưng tất cả mọi người thì đều bị "bệnh
tâm linh" tức là bệnh gây ra bởi sự quán thấy
sai lầm về mọi sự vật - u mê, vô minh).
Chữ "tâm thức" chỉ định các khía cạnh tâm thần thật
tinh tế đang bị nhiễm bệnh, bởi vì nó bị chi
phối bởi các con vi khuẩn tâm thần, đấy là vô
minh và sự quán thấy sai lầm về mọi sự vật (Buddhadhasa
cụ thể hóa tình trạng quán nhận sai lầm của tâm
thức về hiện thực như là một căn bệnh trầm kha
do các con vi khuẩn của sự u mê và lầm lẫn gây
ra. Đối với Phật Giáo, những gì chúng ta quán
nhận được về hiện thực đều hoàn toàn chủ quan,
quy ước, đã bị bóp méo bởi các xúc cảm đã bị chi
phối bởi nghiệp. Dù cho chúng ta khoẻ mạnh không
đau ốm trên thân xác, cũng không bị thác loạn
tâm thần - mất trí, điên loạn -, thế nhưng sự
vận hành của tâm thức chúng ta phản ảnh bởi tác
ý, ngôn từ và hành động là một sự vận hành bệnh
hoạn, và Buddhadasa gọi đấy là căn bệnh tâm linh
của con người, và tất cả mọi người đều mắc phải
căn bệnh này). Một tâm thức chồng chất vô
minh và bị chi phối bởi sự nhận thức sai lầm về
mọi sự vật là một tâm thức bị "bệnh tâm linh":
sự quán thấy của nó về các sự vật đều sai. Vì
quán thấy sai nên nó suy nghĩ sai, nói năng sai
và hành động sai. Chứng bệnh tâm linh tàng ẩn
bên trong những thứ ấy, tức là bên trong các tư
duy, ngôn từ và hành động của mình.
Quý vị có thể nhận thấy ngay là tất cả mọi người đều
bệnh hoạn vì vướng phải căn bệnh tâm linh, không
có một ngoại lệ nào cả. Các chứng bệnh thân xác
và tâm thần chỉ xảy ra cho một số người nào đó,
vào một lúc nào đó, và chúng thì cũng không đến
đỗi khủng khiếp gì cho lắm. Chính đấy là lý do
tại sao giáo huấn Phật Giáo lại không quan tâm
đến các thứ bệnh liên quan đến thân xác và tâm
thần ấy (cũng xin nhắc thêm là nếu xem việc
thiền định là một phương tiện nhằm mục đích mang
lại sức khoẻ cho thân xác và sự thăng bằng cho
tâm thức thì đấy không phải hay ít nhất là chưa
phải là Phật Giáo, thiền định phải có một mục
đích cao xa và sâu sắc hơn nhiều, tức là chữa
chạy căn bệnh tâm linh trầm kha trong tâm thức
con người nhằm biến cải cách nhìn sai lầm của
mỗi cá thể trước hiện thực). Giáo huấn Phật
Giáo là phương thuốc điều trị căn bệnh tâm linh
và Đức Phật là Vị "Lương Y của tâm thức".
Tóm lại là tất cả mọi người đều vướng phải căn bệnh
tâm linh và tất cả đều phải chữa lành căn bệnh
ấy. Dhamma (Đạo Pháp) là liều
thuốc để điều trị, phải sử dụng "nắm lá thật ít
ỏi" ấy của giáo huấn Phật Giáo như một liều
thuốc để uống, để hấp thụ và để chữa lành căn
bệnh.
Quý vị cũng nên ghi nhận thêm là vào thời buổi chúng
ta ngày nay con người không còn biết quan tâm
đến chứng bệnh tâm linh nữa, do đó họ không
ngừng gây ra mọi thứ xấu xa, không riêng cho họ
mà cho cả người khác nữa, bởi vì khi có một
người mắc bệnh tâm linh thì cũng sẽ lây sang cho
người khác và toàn thế giới cũng sẽ mắc bệnh
theo (vô minh tạo ra vô minh, hung bạo kéo
theo hung bạo). Cả thế giới đang lâm bệnh,
vừa là bệnh tâm thần (trên thân xác và trong
tâm thần) vừa là bệnh tâm linh, cũng chính
vì thế mà chúng ta thay vì tìm thấy một sự an
bình bền vững thì lại phải chịu đựng một tình
trạng khủng hoảng triền miên. Dù chúng ta có ra
sức cố gắng và đấu tranh cách mấy đi nữa thì
chúng ta cũng chẳng tìm thấy sự an bình, dù chỉ
trong chốc lát. Ngồi lại để nói chuyện hòa bình
lâu dài với nhau thì chỉ là cách làm mất thêm
thì giờ vô ích, bởi vì tất cả các phe phái liên
hệ đều vướng phải bệnh tâm linh, tất cả đều cho
mình có lý, mọi người khác đều sai (thường
thì những nhà lãnh đạo ngồi vào để bàn thảo hay
thương thuyết với nhau đều là những người "lành
mạnh" trên phương diện tâm thần, có trí thông
minh hơn người, học cao, hiểu rộng, khôn ngoan,
lãnh đạo giỏi, quân sự giỏi, mưu mô nhiều...,
thế nhưng đối với Phật Giáo, hay ít ra là đối
với Buddhadasa, thì họ đều mắc bệnh tâm linh rất
nặng). Tất cả các phe phái đều mắc phải bệnh
tâm linh và vì thế nên lúc nào họ cũng tạo ra
toàn là dukkha (khổ đau) cho chính mình
và cho cả người khác và ngày càng nhiều hơn.
Tương tự như có một guồng máy được thiết kế sẵn
trong thế giới này để sản xuất ra khổ đau. Vậy
phải làm thế nào để mang lại sự an bình cho thế
giới?
Phải chữa khỏi chứng bệnh tâm linh đang hành hạ từng
chúng sinh trong thế giới này. Thế thì lấy gì để
chữa chạy cho họ? Nhất định phải có một liều
thuốc có thể hóa giải được căn bệnh ấy! Vâng,
đúng thế: đấy là nắm lá Dhamma của giáo
huấn Phật Giáo (các câu này tóm lược ý nghĩa
của Tứ Diệu Đế).
Sau đây là lý do giải thích cho các thắc trên đây là
tại sao ngày nay giáo huấn không còn là một
phương tiện cho con người nương tựa nữa, đúng
như sự mong ước của những người tu hành, mặc dù
người ta vẫn thường cho rằng ngày nay Phật Giáo
đã phát triển hơn xưa rất nhiều và số người hiểu
biết thấu đáo về Phật Giáo cũng đông hơn gấp bội
so với trước đây? Thật thế dù người ta có nghiên
cứu giáo huấn thật chu đáo và thấu triệt thật
sâu xa đi nữa, thế nhưng nếu không ý thức được
rằng mình đang bị bệnh tâm linh thì làm thế nào
mà hiểu được giáo huấn là gì, và phải mang ra áp
dụng như thế nào? Nếu không ý thức được là mình
đang ốm đau thì nào chúng ta có nghĩ đến việc
phải tìm đến một vị y sĩ để điều trị đâu, do đó
chúng ta cũng chẳng thuốc men gì cả, có phải
đúng thế hay không? Hầu như mọi người chẳng ai ý
thức được là mình đang lâm bệnh, vì thế mà vấn
đề "thuốc thang" chỉ là một thứ phong trào (có
thể còn tệ hại hơn là một phong trào nữa, bởi vì
"thuốc thang" cũng có thể chỉ là màu mè, một
hình thức mưu đồ hay một phương tiện để lừa
phỉnh kẻ khác). Chúng ta đi nghe giảng về
Dhamma và đôi khi chúng ta cũng nghiên cứu
Dhamma như là một phương thuốc kỳ diệu,
thế nhưng chẳng bao giờ nghĩ đến là mình đang
bệnh hoạn. Chúng ta tiếp nhận Dhamma và
ngay sau đó thì đặt nó sang một bên, hoặc giả
cũng có thể mang ra làm đầu đề để tranh biện với
nhau, đôi khi cũng thừa dịp để cãi lý hay gây
hấn với nhau. Đấy là lý do giải thích tại sao
Dhamma ngày nay không còn là một phương tiện
hiệu quả để điều trị cho thế giới nữa.
Nếu thật sự chúng ta muốn thiết đặt nền móng cho một
xã hội Phật Giáo, tại nơi này và ngay trong lúc
này, thì chúng ta phải nắm vững được các chủ
đích tối hậu của xã hội đó, được như thế thì sự
cố gắng của chúng ta mới có thể mang lại những
kết quả đúng đắn được, nói cách khác là trong
trường hợp ấy Dhamma mới có thể giúp chữa
trị được chứng bệnh tâm linh một cách trực tiếp
và hiệu quả. Phải nhận định được các chủ đích
một cách minh bạch, nếu không thì chúng ta cũng
sẽ chẳng biết là phải bước theo hướng nào mà đi.
Thật ra thì chỉ có một ít "mật ngọt thiêng liêng"
trong lòng bàn tay, thế nhưng phải biết mang ra
sử dụng như thế nào cho thật đúng và hiệu quả.
Phải làm thế nào cho việc tu tập của mình mang
lại lợi ích và không trở thành một trò hề.
Đến đây chúng ta hãy tìm hiểu xem cái bệnh tâm linh
ấy là gì và phải làm thế nào để điều trị bằng
một nắm lá Dhamma trong tay.
Vi khuẩn làm phát sinh ra căn bệnh tâm linh
Những con vi khuẩn làm phát sinh ra căn bệnh tâm
linh tàng ẩn trong các cảm tính gọi là "chúng
ta" và cái "của chúng ta", của "cái tôi" và cái
"của tôi", đấy là các thứ cảm tính thường xuyên
tấn công chúng ta. Những con vi khuẩn ấy nằm sẵn
trong đầu chúng ta, trước hết chúng phát triển
dưới hình thức các cảm tính về "cái tôi" và cái
"của tôi", và sau đó thì các cảm tính ấy, dưới
tác động của thể dạng tâm thần tự xem mình là
trung tâm, sẽ biến thành tham lam, hận thù và sự
quán thấy sai lầm về mọi sự vật. Đấy chính là
những gì sẽ tạo ra mọi thứ bấn loạn cho mình và
cho cả người khác. Các thứ bấn loạn ấy chính là
các triệu chứng của căn bệnh tâm linh đang hoành
hành trong tâm thức chúng ta. Tóm lại chúng ta
cũng có thể gọi "căn bệnh tâm linh" là "căn bệnh
của "cái tôi" và cái "của tôi".
Tất cả mọi người đều mắc phải căn bệnh về "cái tôi"
và cái "của tôi" và vẫn còn tiếp tục tiếp nhận
thêm những thứ vi khuẩn đó ngày càng nhiều hơn
mỗi khi nhìn thấy được một hình tướng, ngửi thấy
một mùi, sờ vào một vật thể, nhận ra được một vị
hay suy nghĩ sai lầm trong đầu, hoặc nói cách
khác thì đấy là cách người ta bị lây nhiễm vi
khuẩn qua các sự tiếp xúc của giác cảm với các
vật thể thuộc môi trường chung quanh, các vật
thể ấy chứa đầy vi khuẩn và chúng lây sang cho
ta.
Chúng ta phải ý thức được là các con vi khuẩn ấy sẽ
tạo ra cho chúng ta sự bám víu dưới hai thể dạng
khác nhau: bám víu vào "cái tôi" và cái "của tôi".
Bám víu vào "cái tôi" có nghĩa là cảm thấy rằng
con người của chính "tôi đây" đúng là một thực
thể, tức là "tôi" đúng thật đang như thế này hay
là đang như thế kia, "tôi" ngang hàng, thua kém
hay cao hơn những người khác, v.v. Các thái độ
hành xử ấy chỉ là các cách nhằm để biểu lộ một "cái
tôi". Đối với cái "của tôi" thì có nghĩa là gì?
Đấy là cách xem các sự vật thuộc của mình: đây
là sở thích "của tôi", đây là quan điểm "của tôi".
Kể cả trường hợp đối với những thứ mà mình ghét
cay ghét đắng thì mình vẫn cứ xem đấy là những
kẻ thù "của chúng ta". Tóm lại đấy là những gì
gọi là cái "của tôi".
Các thứ cảm tính về "cái tôi" và cái "của tôi" thật
hết sức nguy hiểm, nguy hiểm đến độ phải gọi đấy
là một thứ bệnh mang tên là "bệnh tâm linh". Tất
cả các ngành triết học triển khai vào thời kỳ
của Đức Phật đều nhằm vào việc điều trị chứng
bệnh ấy. Mặc dù mỗi ngành dựa vào các phương
pháp khác nhau, thế nhưng mục đích thì cũng chỉ
là một: đấy là cách phải làm thế nào để loại bỏ
được "cái tôi" và cái "của tôi". Sự khác biệt
(với Phật Giáo) là các ngành triết học ấy
cho rằng sau khi đã loại bỏ được các thứ cảm
tính ấy (về "cái tôi" và cái "của tôi")
thì những gì còn sót lại sẽ là Cái Ngã Đích
Thật, cái Atman Tinh Khiết, đơn giản
hơn đấy chỉ là sự Thèm Khát (tức là một hình
thức thèm khát hay bám víu: một cách ám chỉ và
mô tả linh hồn thật độc đáo). Trái lại giáo
huấn Phật Giáo không chấp nhận cách nêu lên các
loại thuật ngữ đó nhằm để tránh không làm phát
sinh ra một sự bám víu nào khác vào "cái tôi" và
các sự vật thuộc vào "cái tôi". Theo Đức Phật
thì khi nào biết nhìn vào "cái tôi" và cái "của
tôi" đúng với bản chất của chúng thì khi đó chỉ
sẽ còn lại một sự trống không thật hoàn hảo gọi
là nibbâna (niết-bàn) - theo đúng
với câu "nibbanam paramam sunam" tức có
nghĩa là một thể dạng hoàn toàn trống không về "cái
tôi" và cái "của tôi" - không có bất cứ thứ gì
khác còn lưu lại nữa. Nibbâna biểu trưng
cho sự chấm dứt của chứng bệnh tâm linh.
Vấn đề về "cái tôi" và cái "của tôi" thật hết sức
khó để thấu triệt. Nếu không đủ sức tập trung sự
suy nghĩ thật sâu xa thì quả là rất khó để có
thể quán thấy được dukkha (khổ đau)
đang tàng ẩn thật kín đáo phía sau "cái tôi" và
cái "của tôi", đấy là những con vi khuẩn gây ra
căn bệnh tâm linh.
Thuật ngữ "attâ" còn gọi là "cái ngã"
mang cùng ý nghĩa với chữ "ego" ("cái
tôi") trong tiếng La-tinh. Khi cảm tính về "cái
tôi" hiện lên thì chúng ta gọi đấy là tánh ích
kỷ (égotisme / egocentricity, egocentrism /
tính tư lợi, tự xem mình là trung tâm), bởi
vì mỗi khi xuất hiện thì nó sẽ làm phát sinh ra
cảm tính về cái "của tôi" một cách thật tự nhiên.
Nếu đem ghép chung cảm tính về "cái tôi" và cảm
tính về các sự vật là "của tôi" thì tất sẽ đưa
đến sự ích kỷ đúng với ý nghĩa của nó (egoism).
Người ta thường có xu hướng bảo rằng "ego" ("cái
tôi") là một thứ gì thật tự nhiên nơi tất cả
mọi sinh vật và có thể xem đó như là trọng tâm
của sự sống. Nếu dịch sang tiếng Anh thì chữ này
có nghĩa là "linh hồn" (soul), một chữ
phát sinh từ tiếng Hy Lạp kentricon, và
chữ này thì có nghĩa là "trung tâm". Do đó
attâ (cái ngã) có thể xem là trọng tâm hay
phần cốt lõi thật cần thiết nơi mọi sinh vật, và
chính vì thế nên hết sức khó cho một người bình
thường (không tu tập) có thể trừ khử được
nó hay thoát được nó.
Tóm lại là một người không thức tỉnh sẽ luôn bị chi
phối bởi sự ích kỷ. Thật ra thì thể dạng ích kỷ
đó không nhất thiết phải thường xuyên phát lộ
một cách công khai, mà nó chỉ hiện ra khi có sự
tiếp xúc của các giác quan, có nghĩa là khi
trông thấy một hình tướng, nghe được một âm
thanh, ngửi thấy một mùi, sờ vào một vật thể hay
mỗi khi có một tư duy hiện ra trong tâm thức.
Mỗi khi cảm tính về "cái tôi" hay cái "của tôi"
đã hiện ra thì người ta có thể bảo đấy là lúc mà
triệu chứng của căn bệnh đã phát hiện đầy đủ,
bất kể đấy là do cơ quan giác cảm nào đã đánh
thức nó. Vào đúng lúc xảy ra sự tiếp xúc giác
cảm thì cảm tính về "cái tôi" và cái "của tôi"
cũng sẽ hiện ra, các triệu chứng của căn bệnh
cũng theo đó mà phát hiện thật rõ rệt, và theo
đó sự ích kỷ đích thật cũng sẽ phát lộ một cách
cực mạnh.
Ở cấp bậc này, chúng ta không còn xem đấy là một thứ
cảm tính tư lợi (egotism) nữa mà là một
sự ích kỷ với đầy đủ ý nghĩa của nó (égoisme
/ selfishness, egoism / sự ích kỷ, sự hẹp hòi,
bủn xỉn, chỉ biết nghĩ đến mình), bởi vì đấy
là một thứ cảm tính vị kỷ khiến con người bị
đánh lạc hướng và rơi vào con đường sai lầm, một
con đường thấp hèn chỉ biết nghĩ đến bản thân
mình và mặc kệ người khác, mọi hành động đều
biểu trưng cho sự ích kỷ tột độ. Trong trạng
thái đó, con người chỉ còn biết hành động dưới
sự chi phối của sự thèm muốn, ghét bỏ và tình
trạng u mê về thực thể của mọi sự vật. Căn bệnh
phát hiện dưới hình thức của một sự ích kỷ mang
lại mọi thứ tai hại cho chính mình và cho cả
người khác. Đấy là mối hiểm nguy lớn nhất trong
thế giới ngày nay. Sở dĩ thế giới đang lâm vào
tình trạng nhiễu nhương và loạn lạc cũng đơn
giản chỉ vì tất cả mọi người đều ích kỷ, họ kéo
bè lập đảng để kình chống nhau. Họ cứ nhắm mắt
đấm đá nhau, thế nhưng thực ra trong thâm tâm
thì nào họ có cố tình muốn như thế đâu, đấy chỉ
vì họ bị thúc đẩy bởi các thứ xung năng mà họ
không đủ sức để cưỡng lại. Đấy là cách mà căn
bệnh thâm nhập và lan rộng trong cơ thể họ. Sở
dĩ các thứ vi khuẩn gây ra bệnh tật lan tràn
trên thế giới đấy là vì chẳng hề có ai biết được
phương thuốc cứu chữa để mang ra sử dụng, tuy
rằng phương thuốc ấy lại đang sẵn có và đấy là
cốt lõi của giáo huấn Phật Giáo.
Cốt lõi của giáo huấn Phật Giáo là gì?
Tôi rất mong quý vị sẽ nắm bắt được thế nào là "cốt
lõi của giáo huấn Phật Giáo". Trong buổi nói
chuyện hôm nay, nếu tôi nêu lên câu hỏi: "Vậy
cốt lõi của giáo huấn Phật Giáo là gì?" thì nhất
định tôi cũng sẽ nhận được vô số các câu trả lời
trái ngược nhau, không câu nào giống với câu nào
cả. Mỗi người trả lời tùy theo những gì mà họ
được học hay được nghe, hoặc là do sự suy luận
riêng của mình. Chúng ta cứ thử nhìn vào những
gì đang xảy ra trong thế giới ngày nay xem sao.
Trong thế giới của chúng ta còn có được mấy ai
đủ sức để nhận biết đâu là cốt lõi của giáo huấn
Phật Giáo? Và trong số đó có mấy ai đã mang ra
ứng dụng hiệu quả được cái cốt lõi đó?
Nếu nêu lên câu hỏi tâm điểm của Phật Giáo là gì thì
một số người sẽ bảo rằng đấy là Bốn Sự Thật Cao
Quý (Tứ Diệu Đế), một số người khác thì
lại cho đấy là aniccamdukkhamanatta (tức
là Ba Dấu Ấn hay Ba Nguyên Lý Căn Bản của Phật
Giáo là aniccam: vô thường, dukkha: khổ đau hay
bất toại nguyên, manatta: vô ngã. Tuy nhiên cũng
xin ghi nhận thêm là nhiều kinh sách còn đề nghị
thêm một dấu ấn thứ tư là nibbanâ hay niết-bàn)
và một số người khác nữa thì lại đọc lên vanh
vách các câu sau đây:
Sabba pipassa akaranam
Kusalassupasampada
Sacitta pariyodapanam
Etam Buddhanasasanam
(có nghĩa là : "không nên làm điều xấu, chỉ nên làm điều tốt,
tinh khiết tâm thức mình, đấy là cốt lõi giáo
huấn của Đức Phật")
Tất cả các câu trả lời trên đây đều đúng, thế nhưng
chỉ đúng được một phần, chẳng qua bởi vì mọi
người chỉ trả lời một cách thuộc lòng mà quên
mất đi là phải tự kiểm chứng bằng kinh nghiệm
của chính mình xem có đúng thật như thế hay
không.
Để nêu lên cốt lõi của giáo huấn Phật Giáo tôi chỉ
xin nhắc lại với quý vị một câu phát biểu vô
cùng đơn giản của Đức Phật: "Không được bám víu
vào bất cứ gì cả". Trong kinh Majjhima Nikaya
(Trung A Hàm) có thuật lại rằng một hôm có
một người bước đến đảnh lễ Đức Phật và thỉnh cầu
Ngài hãy tóm lược giáo huấn của Ngài bằng một
câu thật ngắn gọn, và nếu được thì câu ấy sẽ là
gì. Đức Phật đáp lại rằng Ngài có thể làm được
việc ấy và đã nói lên câu trên đây: "Sabbe
dhamma nalam abhinivesaya" tức là "Không được
bám víu vào bất cứ gì cả"
("Sabbe dhamma" có nghĩa là bất cứ gì, "nalam"
không được phép, "abhinivesaya" bám víu vào).
Đức Phật còn nhấn mạnh thêm tầm quan trọng của
câu này bằng cách nói thêm rằng nếu ai được nghe
những lời cốt tủy ấy thì cũng có nghĩa là nghe
được tất cả giáo huấn, và nếu ai tiếp nhận được
quả của việc tu tập ấy (không bám víu vào bất
cứ gì) thì cũng có nghĩa là tiếp nhận được
tất cả các quả do giáo huấn của Ngài mang lại.
Nếu ai nắm vững được sự thật trong những lời giáo
huấn ấy một cách hoàn hảo - tuyệt đối không được
bám víu vào bất cứ gì cả - thì người ấy cũng sẽ
không còn bị những con vi khuẩn gây ra các thứ
bệnh thèm muốn, ghét bỏ và vô minh thâm nhập,
đấy là các thứ bệnh đưa đến những hành động sai
lầm, dù là trên thân xác, bằng ngôn từ hay trong
tâm thức. Chính vì thế, cứ mỗi khi có một hình
tướng, một âm thanh, một mùi, một vị, một sự va
chạm hay một hiện tượng tâm thần phát hiện, thì
kháng thể "không được bám víu vào bất cứ gì cả"
sẽ giúp chận đứng ngay được sự lây nhiễm. Vi
khuẩn không thể thâm nhập được, hoặc cũng có thể
cứ để cho chúng thâm nhập nhằm để dễ tiêu diệt
chúng hơn. Dù sao thì vi khuẩn cũng sẽ không thể
nào sinh sôi nẩy nở và gây ra bệnh được, bởi vì
kháng thể trong người luôn tìm cách tiêu diệt
chúng. Thật vậy kháng thể đó có hiệu lực vô song
và vĩnh viễn. Và đấy là cốt lõi của giáo huấn
Phật Giáo, của tất cả Dhamma. Không được
bám víu vào bất cứ gì cả!
Bất cứ ai đã thực hiện được sự thật đó thì cũng có
thể xem như đã tạo được cho mình kháng thể giúp
hóa giải mọi sự tác hại của căn bệnh tâm linh và
khiến cho nó phải chấm dứt. Người ấy sẽ không
còn bị căn bệnh làm cho mình phải khổ sở với nó
nữa. Thế nhưng đối với trường hợp của một người
bình dị không thấu triệt được cốt lõi của giáo
huấn của Đức Phật là gì thì hoàn toàn khác hẳn:
người này không có một sức đề kháng nào cả.
Đến đây có lẽ quý vị cũng đã nắm vững được ý nghĩa
của "căn bệnh tâm linh" là gì và ai là vị lương
y chữa khỏi được căn bệnh ấy. Thế nhưng chỉ khi
nào ý thức được là mình đang bệnh thì khi ấy
mình mới thật sự nghĩ đến việc chữa chạy và sử
dụng liều thuốc thích nghi. Nếu chưa ý thức được
là mình đang bệnh thì mình vẫn cứ sống nhởn nhơ
và đua đòi những gì mình thích. Đấy chẳng khác
gì như một người bị lao phổi hay bị ung thư mà
cứ lo vui đùa không quan tâm đến việc chữa chạy
cho đến một lúc nào đó thì mọi sự đã muộn, người
ấy sẽ không sao tránh khỏi cái chết do căn bệnh
của mình gây ra.
Không nên vướng vào những chuyện ngu xuẩn đại loại
như thế! Phải luôn tuân theo những lời chỉ dạy
của Đức Phật: "Không được chểnh mãng. Phải luôn
chú tâm thật mạnh". Biết chú tâm thật mạnh thì
chúng ta mới nhận ra được là mình đang bị căn
bệnh tâm linh hành hạ và từ đó mình mới khám phá
ra được đám "vi khuẩn" gây bệnh cho mình. Nếu áp
dụng được những điều chỉ bảo trên đây một cách
đúng đắn và kiên trì thì nhất định quý vị cũng
sẽ tiếp nhận được ngay trong cuộc sống này những
điều tốt đẹp nhất mà con người có thể có được.
Bám víu là căn nguyên gây ra chứng bệnh tâm linh
Chúng ta phải nhận biết được một cách thật chính xác
là các hành động bám víu của mình chính là những
con vi khuẩn vừa gây ra bệnh tật lại vừa làm cho
bệnh tật lan tràn. Chỉ cần quan sát mọi sự vật
thuộc trong một cấp bậc thật đơn sơ thì cũng đủ
để nhận thấy một cách dễ dàng là sự bám víu vào
"cái tôi" và cái "của tôi" là một vết thương
trầm trọng nhất (khi đã bị "cái tôi" chi phối
và cảm tính ích kỷ đã bùng lên thì dù một chuyện
thật nhỏ nhặt cũng có thể khiến cho chúng ta tức
giận, hối tiếc, đau buồn, khổ sở, vui vẻ, hân
hoan, v.v.).
Người ta có thể phân loại sự ô nhiễm của tâm thức
thành ba cấp bậc: lobah tức là sự thèm
muốn (tham vọng, thèm khát, đam mê / desir),
dosa tức là sự ghét bỏ (không
thích, chán ghét, hận thù / aversion) và
moha tức là vô minh (sự sai lầm, u
mê, không nhìn thấy được đúng bản chất của mọi
sự vật / ignorance, delusion) hay là sự hiểu
biết sai lầm về hiện thực. Người ta có thể phân
loại chi tiết hơn những thứ đau thương ấy thành
mười sáu thứ khác nhau hoặc là nhiều hơn tùy
thích (kinh sách gọi ba thứ này là "tam độc"
hay "ba thứ nọc độc" (trivisa) hay còn gọi chung
là "ba thể dạng đam mê" hay "dục vọng" (khesa) -
kinh sách tiếng Việt gọi là tham, sân, si - các
thứ cảm tính bấn loạn này có thể được phân loại
thành 16 thể loại khác nhau hay nhiều hơn nữa
tùy theo kinh sách và các học phái), thế
nhưng sau cùng thì tất cả cũng chỉ quy vào ba
thứ là sự thèm muốn, ghét bỏ và vô minh (thèm
muốn, ghét bỏ và vô minh thì nào có đau đớn gì
đâu? Chúng ta thường xuyên bị chúng chi phối và
kiềm tỏa thế nhưng vẫn cứ tìm thấy sự vui thích,
vẫn cười nói và ăn uống rất ngon, thấy người
khác phái (hay cũng có thể là đồng tính) rất đẹp,
trông thấy kẻ thù của mình thật "ngu dốt" và nếu
chẳng may "họ" gặp khó khăn thì mình cảm thấy
vui thích, hả hê..., thế nhưng phía sau những
thứ thèm muốn, ghét bỏ và vô minh ấy luôn tàng
ẩn những khổ đau mênh mông mà mình không ý thức
được, bởi vì "ba thứ nọc độc" - nhất là vô minh
- có khả năng lừa gạt chúng ta một cách thật tài
tình mà chúng ta không hề hay biết). Và cả
ba thứ ấy (tam độc) lại cũng có thể gom
chung thành một thứ duy nhất: ấy là cảm tính về
"cái tôi" và cái "của tôi". Cảm tính về "cái tôi"
và cái "của tôi" là một thứ mầm móng nằm sẵn
trong nội tâm làm phát sinh ra sự thèm muốn,
ghét bỏ và vô minh. Khi nó phát lộ dưới hình
thức ham muốn, đam mê và háo hức (lobah)
thì nó sẽ tìm cách kéo gần lại với nó các đối
tượng (thích thú) của giác cảm mà nó đã
tiếp xúc được. Ngược lại khi nó phát lộ dưới
hình thức ghét bỏ (doha) thì nó sẽ tìm
cách đẩy ra xa các đối tượng mà nó đã cảm nhận
được. Thế nhưng nếu khi nó bị rơi vào tình trạng
hoang mang không còn biết là mình muốn gì, phân
vân không biết là nên nắm giữ hay nên buông bỏ
đối tượng, thì đấy chính là thể dạng của vô minh
(tức là moha hay sự u mê. Vô minh hay u-mê có
nghĩa là không nhìn thấy được bản chất đích thật
của mọi hiện tượng, do đó dù "cái tôi" phát lộ
dưới hình thức thèm muốn hay ghét bỏ thì cũng
đều là sai, và vì thế "hoang mang" là thể dạng
tất yếu của "cái tôi" khi nó rơi vào tình trạng
sai lầm).
Căn bệnh tâm linh thúc đẩy chúng ta ứng xử theo một
trong ba cảnh huống trên đây (thèm muốn, ghét
bỏ và hoang mang) đối với tất cả các đối
tượng của giác cảm (hình tướng, âm thanh, mùi,
vị, hay các vật thể sờ mó được) tùy thuộc vào
cách nhìn của nó: tức là các đối tượng tạo ra sự
quyến rũ, sự ghê tởm hay là tình trạng hoang
mang, tất cả đều tùy thuộc vào các thể dạng hiển
hiện khác nhau của chúng: lộ liễu hay ẩn kín,
quyến rũ hay ghê tởm, hoặc là hoang mang. Tuy
khác biệt nhau thế nhưng cả ba cách ứng xử đó
đều là sai lầm, bởi vì nguyên nhân làm phát sinh
ra chúng là những cảm tính nội tâm cho rằng có "cái
tôi" và cái "của tôi".Vì thế, người ta có thể
bảo rằng cảm tính về "cái tôi" và cái "của tôi"
là một sự ô nhiễm trầm trọng nhất làm phát sinh
ra tất cả mọi thứ khổ đau và bệnh tật.
Vì lý do chúng ta không
nắm vững được một cách thật sâu xa giáo huấn của
Đức Phật về khổ đau do đó chúng ta cũng không
thật sự hiểu hết được khổ đau là gì. Chúng ta cứ
tưởng khổ đau mà Đức Phật nói đến chỉ là sự
sinh, sự già nua và cái chết. Thực ra khổ đau
thì nào có phải chỉ là phần thân xác làm phương
tiện để chuyển tải khổ đau đâu (một câu giải
thích thật tuyệt vời: dukkha mà đức Phật nêu lên
thật sâu sắc, mênh mông và ẩn kín, không nhất
thiết chỉ là những thể dạng đau thương lộ liễu
lan tràn và phơi bày ra chung quanh chúng ta.
Khi nào ý thức được cái dukkha sâu kín và mênh
mông đó thì lòng từ bi của chúng ta mới có thể
trở nên đích thật được). Đức Phật tóm lược
giáo huấn về khổ đau như sau: "Nếu nói một cách
ngắn gọn thì dukkha là sự bám víu vào
khandha" (khandha: kinh sách tiếng Việt
gốc Hán gọi là ngũ uẩn, tức là năm thứ cấu hợp
tạo ra một cá thể con người, đấy là: hình tướng,
giác cảm, sự nhận biết, tác ý và tri thức).
Năm thứ cấu hợp ấy cũng có nghĩa là những gì
đứng ra để bám víu (chủ thể) hay là dựa
vào đấy để bám víu (đối tượng) với tư
cách là "cái tôi" hay cái "của tôi" (khi năm
thứ cấu hợp - hay ngũ uẩn - bám víu vào một đối
tượng bên ngoài thì nó sẽ giữ vai trò của "cái
tôi" tức là "chủ thể", khi "cái tôi" bám víu vào
năm thứ cấu hợp, thì năm thứ cấu hợp sẽ trở
thành cái "của tôi" tức là "đối tượng". Ngoài
cái "của tôi" là năm thứ cấu hợp ra, thì "cái
tôi" còn bám víu vào sự biến động của các vật
thể khác (hiện tượng) trong bối cảnh bên ngoài
và cũng xem đấy là cái "của tôi" tức là các đối
tượng thuộc ngoại cảnh). Tất cả những gì
không vướng mắc bởi sự bám víu vào "cái tôi" và
cái "của tôi" đều thoát khỏi dukkha. Chỉ
khi nào bám víu vào sự sinh, sự già nua, bệnh
tật và cái chết như là "cái tôi" hay cái
"của tôi" thì khi đó những thứ ấy mới biến thành
dukkha. Thân xác và tâm thức cùng là một
thứ và chúng không khác gì nhau. Dukkha
không phải là một thứ gì mang tính cách tự
tại nơi thân xác và tâm thức mà chỉ phát sinh
khi nào xảy ra sự bám víu vào "cái tôi" và cái "của
tôi". Khi thân xác và tâm thức loại bỏ được
những thứ vi khuẩn tâm thần (sự bám víu vào "cái
tôi", và cái "của tôi") và trở nên tinh
khiết thì khi đó chúng cũng sẽ giống như thân
xác và tâm thức của một vị A-la-hán, tức là hoàn
toàn không còn vướng mắc vào bất cứ một thứ khổ
đau nào nữa.
Quý vị phải ý thức được một cách thật minh bạch là "cái
tôi" và cái "của tôi" là căn nguyên của tất cả
mọi thể dạng của dukkha. Bất cứ nơi nào
có sự bám víu (vào "cái tôi" và cái "của tôi")
thì nơi đó tất sẽ có sự u mê và lầm lẫn. Sở dĩ
chúng ta thiếu sáng suốt đấy là vì tâm thức của
chúng ta không trống không, nó bị tràn ngập bởi
sự giận dữ, bực tức và bấn loạn, đấy là các thể
dạng tâm thần mà cảm tính về "cái tôi" và cái "của
tôi" đã tạo ra cho nó. Trái lại, một tâm thức
vượt thoát được sự bám víu vào "cái tôi" và cái
"của tôi" thì sẽ tràn đầy một sự nhận thức
sáng suốt ("truth-discerning
awareness" trong bản dịch tiếng Anh và "sage
présence consciente" trong bản dịch tiếng Pháp -
có thể xem như cùng nghĩa với các khái niệm về "trí
tuệ", sự "tỉnh thức" hay sự "giác ngộ").
Chúng ta cẩn phải nắm vững sự kiện là có hai thể
loại cảm tính khác nhau - thứ nhất là cảm tính
về "cái tôi" và cái "của tôi" (vô minh),
thứ hai là sự nhận thức minh bạch (trí tuệ)
- và cả hai hoàn toàn tương khắc nhau. Nếu một
trong hai thứ cảm tính thâm nhập vào tâm thức
thì tức khắc thứ kia sẽ rút lui ra. Hai thứ
không thể hòa hợp với nhau được. Nếu tâm thức
tràn ngập cảm tính về "cái tôi" và cái "của tôi"
thì sự nhận thức sáng suốt không sao thâm nhập
vào được, và nếu trong tâm thức hiện hữu sự nhận
thức sáng suốt thì "cái tôi" và cái "của tôi" sẽ
biến mất. Thoát khỏi "cái tôi" và cái "của tôi"
tức là đạt được thể dạng nhận thức trong sáng
(sự tỉnh thức, trí tuệ hay sự giác ngộ).
Tánh không hiện hữu tại nơi này và ngay trong
lúc này
Nêu lên điều sau đây biết đâu cũng có thể sẽ gây ra
một sự lo ngại nào đó, thế nhưng nếu muốn thấu
triệt được chính xác Dhamma là gì thì
cũng nên mượn cách phát biểu của một vị thầy
thuộc học phái Zen là Huang Po (Hoàng Bá Hy
Vân, thiền sư Trung Quốc thế kỷ thứ IX), để
nói lên rằng: tánh không chính là Dhamma,
tánh không chính là Đức Phật, tánh không chính
là Tâm Thức Nguyên Sinh. Sự hoang mang (lầm
lẫn, u mê, vô minh) và sự vắng mặt của tánh
không sẽ không phải là Dhamma, không phải
là Đức Phật, không phải là Tâm Thức Nguyên Sinh
(tuyệt vời thay một câu giải thích thật ngắn
gọn nhưng bao hàm được tất cả Đạo Pháp từ
Theravada cho đến toàn thể Đại Thừa. Nếu chưa
đạt được tánh không một cách tuyệt đối thì khó
có thể hòa nhập được với hiện thực, bởi vì loại
bỏ được cảm tính về "cái tôi" và cái "của tôi"
thì đấy mới chỉ là cách giúp "trông thấy" và "quán
nhận" được hiện thực và chưa phải là hội nhập để
trở thành một với hiện thực. Do đó cũng không
nên đánh giá tư tưởng của Buddhadasa là chỉ nằm
trong giới hạn của lãnh vực Phật Giáo Theravada).
Sự hoang mang (vô minh, lầm lẫn) và đánh
mất tánh không chỉ là hậu quả xảy ra sau này
(Tâm Thức Nguyên Sinh hay Phật Tính là những gì
mang tính cách tự tại và nguyên thủy. Trong khi
đó thì các hậu quả phát sinh ra sau này từ cảm
tính về "cái tôi" và cái "của tôi" sẽ tạo ra sự
hoang mang và u mê che lấp Phật Tính và Tánh
Không). Tóm lại là có hai thứ cảm tính đối
nghịch nhau sẽ hiện ra (một bên là cảm tính
về Dhamma và Tánh Không và một bên là thể dạng
đối nghịch với nó tức là cảm tính về sự hoang
mang và tình trạng đánh mất tánh không). Khi
nào chúng ta thấu triệt được cả hai thứ cảm tính
ấy thì chúng ta cũng sẽ hiểu được Dhamma
dễ dàng hơn.
Quý vị đang ngồi đây nghe giảng và nếu quý vị là "trống
không", tức có nghĩa là quý vị đang cố gắng hình
dung ra là mình không phát động cảm tính về "cái
tôi" và cái "của tôi", thì quý vị sẽ lắng nghe
tôi nói với một sự nhận thức sáng suốt (chú
tâm), tương tự như trong một thể dạng mà cảm
tính về "cái tôi" và cái "của tôi" không gây ra
một tác động nào đối với quý vị. Thế nhưng nếu
có một thứ gì đó bất thần phát hiện ra và một
trong các giác quan của mình bị khích động (thí
dụ như thấy người bên cạnh cử động, cảm thấy
cánh tay của người ngồi phía sau chạm vào lưng
mình, ngửi thấy mùi mồ hôi hay mùi nước hoa của
người ngồi bên cạnh, hoặc nghe thấy một tiếng
động ở ngoài sân...) thì tức khắc cảm tính
của "cái tôi" và cái "của tôi" sẽ phát sinh ra
với quý vị và tánh không hay thể dạng nhận thức
sáng suốt mà mình đang cảm nhận được cũng sẽ tức
khắc biến mất.
Nếu hoàn toàn trống không về tính tự kỷ (tự xem
mình là trung tâm) thì chúng ta cũng sẽ
không còn mang một cảm tính nào về "cái tôi" và
cái "của tôi" nữa. Chúng ta sẽ đạt được sự nhận
thức sáng suốt (trí tuệ) giúp loại bỏ
dukkha và làm cho căn bệnh tâm linh phải
chấm dứt. Bắt đầu từ thời điểm này những căn
bệnh mới từ bên ngoài sẽ không còn thâm nhập vào
được nữa và bệnh đã lây nhiễm từ trước cũng đã
bị tiêu trừ, tương tự như tóm cổ được nó và vứt
nó ra ngoài. Từ giây phút này tâm thức sẽ tràn
ngập Dhamma. Những gì vừa trình bày cũng
thật phù hợp với cách cho rằng tánh không
chính là sự nhận thức sáng suốt, là
Dhamma, là Đức Phật, bởi vì đúng vào
thời điểm mà "cái tôi" và cái "của tôi" trở
thành trống không thì tất cả những phẩm tính
tuyệt vời nhất của toàn thể giáo huấn của Đức
Phật cũng sẽ hiện ra.
Nếu nói một cách đơn giản hơn thì đấy là một sự
chú tâm thật hoàn hảo (sự tỉnh thức)
được ghép thêm một sự hiểu biết toàn diện về
mọi sự vật (trí tuệ), và cũng là một
cảm tính thật minh bạch về một sự hổ thẹn (hiri
/ hối hận, hối tiếc, nói chung là sự ý thức về
đạo đức) trước những hành động tồi tệ do
mình gây ra, một tấm lòng lương thiện biết e sợ
những điều xấu xa, một sự kết hợp giữa sự nhẫn
nhục và sự kiên trì (khanti), một lòng
nhân ái (soracca), không lùi bước trước
bất cứ một thử thách nào. Đấy cũng là một sự
biết ơn sâu xa (katannukatavedi) và một
lòng lương thiện tuyệt đối giúp mang lại môt sự
hiểu biết và một sự quán thấy minh bạch về hiện
thực. Đấy là những gì sẽ giúp thực hiện được
nibbâna hay sự Giác Ngộ tối thượng.
Trợ lực của Đạo Đức
Tất cả các phẩm
tính căn bản như đã được trình bày trên đây nhất
thiết đều phải được hội đủ, bởi vì những thứ ấy
cũng thuộc vào thành phần của Dhamma (xin
nhắc nhắc lại các phẩm tính ấy như sau:
sự hiểu biết minh bạch (satisampajanna),
sự hổ thẹn (hiri), sự lo sợ vi phạm
vào những điều hung ác (ottappa), sự kiên
nhẫn và bền chí (khanti), lòng nhân ái
(soracca) và lòng biết ơn
(katannukatavedi). Chỉ riêng sự xấu hổ
và e sợ vi phạm vào những điều hung ác cũng
đủ để giúp cho thế giới tìm thấy sự thanh thản
và sự an bình bền vững. Ngày nay hình như con
người đã trở nên quá trơ trẽn và chai đá không
còn biết xấu hổ hay lo sợ trước những hành động
tồi tệ của mình nữa. Họ phạm vào những hành động
không thể tha thứ được và dù ý thức được là các
hành động của mình sẽ gây ra tai họa cho toàn
thế giới, thế nhưng họ vẫn cứ tiếp tục hành xử
theo cung cách đó. Thế giới đang bị tàn phá nặng
nề cũng chỉ vì không mấy ai còn giữ được cái đức
tính thật đơn giản ấy (xấu hổ và e sợ vi phạm
vào những điều tệ hại. Xin nhắc thêm là
Buddhadhasa đã nói lên những điều này cách nay
đã nửa thế kỷ).
Chúng ta thử xét đến một đức tính khác có thể còn
khiêm nhường hơn thế nữa: đấy là lòng biết ơn.
Chỉ cần có đức tính duy nhất này cũng đủ để mang
lại sự an bình cho thế giới. Đấy là một thứ đức
tính giúp chúng ta hiểu rằng trong thế giới này
mỗi con người đều biểu trưng cho một sự lợi ích
nào đó đối với người khác. Thật thế, không phải
chỉ có con người mới biết mang lại lợi ích! Con
mèo, con chó hay con chim sẻ cũng đều mang lại
một sự lợi ích cho con người. Nếu ý thức được
cái món nợ biết ơn của mình đối với tất cả các
chúng sinh ấy thì chúng ta cũng sẽ không thể nào
hội đủ can đảm để gây ra thiệt hại cho bất cứ
một chúng sinh nào hay đối xử tàn tệ với chúng
(câu cá chẳng hạn). Chỉ cần dựa vào sức
mạnh của đức tính đó tức là lòng biết ơn, cũng
đủ để giúp chúng ta góp phần không nhỏ vào việc
cải thiện thế giới.
Tóm lại là nếu những gì trên đây mà người ta gọi
chung là đạo đức được phát huy một cách đúng đắn
thì tất cả cũng sẽ biểu trưng cho một bản chất
giống nhau, đấy là khả năng góp phần vào việc
giúp đỡ thế giới. Ngược lại nếu đấy là những thứ
đạo đức sai lầm hay chỉ là đạo đức giả, thì
chúng sẽ tạo ra tình trạng hỗn loạn đưa đến
những các cảnh huống tương khắc và xung đột. Khi
nào phát huy được đạo đức đích thật, thoát khỏi
"cái tôi" và cái "của tôi" thì tất cả thể dạng
vẹn toàn của Dhamma, của Đức Phật và của
tất cả mọi hiện tượng cũng sẽ hiện hữu trong cái
tâm thức duy nhất ấy, một tâm thức đích thật
trong thể dạng nguyên sinh của nó (những gì
mà Buddhadasa vừa mô tả thì nào có khác gì với
khái niệm về Phật Tính hay bản thể của Phật đối
với Đại Thừa Phật Giáo nói chung, hay là với một
tâm linh tỉnh thức giúp mình hoà nhập với thực
tại do học phái Zen chủ trương đâu. Khi nào quán
thấy được "cốt lõi của Dhamma" là gì thì chúng
ta cũng sẽ có thể vượt lên trên các cách diễn
đạt, các thuật ngữ và biết đâu cả các học phái
khác nhau). Trái lại nếu một tâm thức không
ngừng biểu lộ "cái tôi" và cái "của tôi" trong
một tình trạng luôn căng thẳng thì nhất định nó
sẽ không thể nào phản ảnh được bóng dáng của một
thứ đạo đức nào, bởi vì cái tâm thức đó không
thể phát huy được một sự chú tâm hay một sự tỉnh
thức nào cả. Tâm thức đó luôn xao động, chểnh
mãng, không phát huy được một sự quán thấy bền
vững, không có khả năng xét đoán, cũng không giữ
được một sự cân bằng cần thiết. Cái tâm thức đó
cũng không còn biết hổ thẹn là gì, cũng không
biết lo sợ vi phạm vào những hành động sai trái
nữa. Một con người khi đã mang một tâm thức như
thế sẽ trở nên hoàn toàn vô cảm và không thể nào
hiểu được lòng biết ơn là gì. Tâm thức của người
này hoàn toàn bị xâm chiếm bởi bóng tối của sự u
mê, khiến mình chỉ biết thực thi những hành động
nhằm tàn phá cả thế giới. Đối với một người đã
rơi vào tình trạng tâm thức như trên đây thì dù
có bàn thảo với họ về sự quán thấy sáng suốt về
anicca (vô thường), dukkha
(khổ đau) hay anatta (vô ngã) hoặc
bất cứ điều gì khác thì cũng chỉ là vô ích. Thật
sự là không còn làm gì để có thể giúp họ được
nữa.
Nên chọn cho mình sự trống không hay là sự bấn
loạn?
Trước hết chúng ta phải phân biệt thật rõ ràng giữa
hai thể dạng: thứ nhất là sự "trống không về cái
tôi" và thứ hai là sự "không trống không về cái
tôi". Thể dạng thứ nhất có thể gọi là sự "trống
không" và thể dạng thứ hai là sự "bấn loạn" (hay
xao động). Xin quý vị hãy ghi nhớ cách định
nghĩa này để khỏi phải nhắc đi nhắc lại trong
phần trình bày dưới đây.
Tất nhiên là quý vị sẽ cho rằng chẳng có ai muốn
mình lâm vào tình trạng bấn loạn cả. Nếu tôi nêu
lên với tất cả quý vị trong buổi họp mặt này một
câu hỏi như sau: "Nếu có ai đang tham dự buổi
họp này muốn mình lâm vào tình trạng bấn loạn
thì xin đưa tay lên!", và nếu thật sự có ai đưa
tay lên thì nhất định đấy là một người mang chủ
ý muốn đùa nghịch mà thôi. Tất cả mọi người đều
thích trống không, dù là dưới hình thức này hay
hình thức khác: một số người thích sự trống
không mang tính cách lười biếng tức không muốn
đi làm, tất cả mọi người thì đều thích sự trống
không về mọi thứ có thể quấy rầy mình, chẳng hạn
như không thích trông chừng những đứa trẻ nghịch
ngợm và không vâng lời. Thế nhưng tất cả những
thứ ấy chỉ là sự trống không về những thứ thuộc
vào bối cảnh bên ngoài, và đấy không phải là sự
trống không đích thật.
Trống không trong nội tâm là một thể dạng bình
thường (bình dị, thăng bằng), có nghĩa là
mang một tâm thức không bị sao lãng và lẫn lộn.
Bất cứ ai cảm nhận được sự trống không nội tâm
đó đều cảm thấy hài lòng. Và nếu thể dạng đó
được phát huy đến một cấp bậc cao nhất, tức có
nghĩa là đạt được một thể dạng trống không về
bất cứ một hình thức ích kỷ nào thì đấy chính là
nibbâna (tức là niết-bàn, mặc dù
Buddhadasa đã nhắc trên đây là nên ghi nhớ cách
định nghĩa thế nào là sự trống không, tuy nhiên
cũng xin mạn phép được nhắc lại là sự "trống
không" ở đây có nghĩa là trống không về "cái tôi"
và cái "của tôi" hay nói cách khác là trống
không về tính "vị kỷ" chỉ biết nghĩ đến tư lợi
và xem mình là "trung tâm", sở dĩ nhắc lại là
nhằm vào mục đích tránh hiểu lầm niết-bàn là sự
trống không, bởi vì niết-bàn chỉ là một "thể
dạng tâm thức thật bình thường" khi đã loại bỏ
được các thứ trên đây).
Một tâm thức bấn loạn (không trống không về "cái
tôi" và cái "của tôi") thì hoàn toàn đối
nghịch lại. Bất cứ thứ gì cũng đều có thể gây ra
bấn loạn cho cái tâm thức đó: từ hành động, ngôn
từ, tư duy cho đến xúc cảm. Một tâm thức bị bấn
loạn sẽ rơi vào một tình trạng hoang mang hoàn
toàn (lầm lẫn, vô minh), không còn dành
ra được một khoảng trống nhỏ nhoi nào cho sự an
bình và hạnh phúc. Một người có tâm thức rối
loạn thì dù có quy y nơi Tam Bảo, quyết tâm tuân
thủ Giới Luật, chăm lo cúng dường và thực thi
những điều đạo hạnh, thì họ cũng sẽ không thể
nào hòa nhập với Đức Phật, với Dhamma và
Sangha (Tăng Đoàn) được. Họ chỉ biết thực
thi những nghi thức lễ bái hoàn toàn vô nghĩa.
Tóm lại là Đức Phật đúng thật, Đạo Pháp đúng
thật và Tăng Đoàn chỉ có thể hiện hữu trong một
tâm thức trống không. Mỗi khi tâm thức đạt được
sự trống không về "cái tôi" và cái "của tôi" thì
Tam Bảo cũng sẽ hiện ra tức khắc đúng vào thời
điểm đó. Nếu những giây phút đó không kéo dài
thì đấy cũng có nghĩa là Đức Phật, Đạo Pháp và
Tăng Đoàn cũng chỉ hiện hữu với tính cách tạm
thời mà thôi. Thế nhưng khi đã giữ được những
giây phút đó bền vững và không thay đổi thì Tam
Bảo đích thật - tức Đức Phật, Đạo Pháp và Tăng
Đoàn - cũng sẽ hiện ra với mình thường xuyên hơn.
Vì thế xin quý vị hãy cố gắng trút bỏ "cái tôi" và
cái "của tôi" ra khỏi tâm thức mình, khi đó Đức
Phật, Đạo Pháp và Tăng Đoàn cũng sẽ thường xuyên
hiện ra với quý vị. Quý vị cứ tiếp tục như thế
cho đến khi nào sự trống không trở thành tuyệt
đối (không còn một bóng dáng nào của "cái tôi"
và cái "của tôi" nữa) thì đấy cũng có nghĩa
là quý vị đã mở rộng tâm thức mình để đón nhận
Dhamma - như là một kháng thể hay một
liều thuốc hóa giải - khiến cho căn bệnh tâm
linh không còn một cơ may nào để có thể phát
hiện ra được nữa.
Chữa trị căn bệnh tâm linh
Đến đây có lẽ chúng ta cũng nên giải thích chi tiết
hơn đôi chút về cách chữa trị. Nếu muốn ngừa
bệnh và điều trị thì nhất thiết phải áp dụng các
nguyên tắc đã được trình bày trên đây, nói cách
khác là phải ngăn chận mọi tác động của "cái tôi"
và cái "của tôi". Vậy phải làm thế nào? Có nhiều
phương pháp khác nhau. Đối với các thứ bệnh về
thân xác và tâm thần thì có nhiều cách chữa trị,
không phải chỉ có một cách duy nhất và bất di
dịch. Tuy rằng có nhiều phương pháp khác nhau
thế nhưng mục đích và kết quả mong cầu thì lúc
nào cũng chỉ có một (tức phải làm thế nào để
chữa lành căn bệnh). Đối với chứng bệnh tâm
linh thì cũng thế, Đức Phật cũng đã đưa ra rất
nhiều phương pháp tu tập khác nhau, hầu thích
nghi với các dân tộc khác nhau, vào những thời
đại khác nhau, thuộc các địa phương khác nhau và
các cơ hội khác nhau. Có thể quý vị cũng đã từng
được nghe nói đến nhiều phép tu tập được gọi
bằng đủ mọi thứ danh xưng khác nhau, và vì thế
biết đâu quý vị cũng có thể sẽ cảm thấy sợ hãi
khi nghe nói rằng Đức Phật đã triển khai đến
84.000 đề tài chủ yếu hay chủ đề suy tư liên
quan đến Dhamma (con số 84.000 mang tính cách
thiêng liêng trong nền văn hóa Ấn Độ nói chung
và chỉ có tính cách tượng trưng, kinh sách
thường nêu lên con số này là chỉ nhằm nói lên sự
phong phú về các "phương tiện thiện xảo" - upaya
- trong giáo huấn Phật Giáo). Nếu thật sự có
đến 84.000 chủ đề thì quý vị ngồi đây tất sẽ
phải thối chí. Dù quý vị có học được một ít thì
sau đó cũng sẽ quên và phải học lại, dù có học
lại thì cũng lại quên, hoặc có thể là các thứ ấy
cũng sẽ lẫn lộn trong đầu mình. Thế nhưng thật
ra thì Dhamma cũng chỉ là một nắm trong
tay, Đức Phật tóm lược nắm Đạo Pháp đó bằng một
câu đơn giản như sau: "Không được bám víu vào
bất cứ gì cả". Lắng nghe lời giảng đó cũng có
nghĩa là lắng nghe toàn bộ giáo huấn; tu tập
giáo huấn đó cũng có nghĩa là tu tập toàn bộ
giáo huấn; tiếp nhận được quả của giáo huấn đó
cũng có nghĩa là chữa khỏi được tất cả mọi bệnh
tật.
Tất cả các phương pháp đều nhằm vào việc chữa lành
căn bệnh của "cái tôi" và cái "của tôi", vì thế
tùy quý vị muốn lựa chọn cho mình phương pháp
nào cũng được. Một trong các phương pháp đó là
phải thường xuyên suy tư về "cái tôi" và cái "của
tôi" bằng cách xem chúng như một thứ ảo giác hay
một thứ ảo tưởng bệnh hoạn (hallucination).
Sự suy tư đó sẽ giúp nhận thấy rằng cảm tính về
một cá thể con người tuy bề ngoài có vẻ như hàm
chứa một thực thể vững chắc - mà chúng ta vẫn
thường có thói quen gọi đấy là "cái tôi" và cái
"của tôi" - thế nhưng thật ra thì đấy chỉ đơn
thuần là một ảo giác. Chúng ta có thể nhận biết
được đìều này bằng cách nhìn vào "cái tôi" xuyên
qua quy luật paticcasamuppâda (quy luật tương
liên hay lý duyên khởi), một quy luật toàn
cầu nêu lên sự tương kết giữa mọi hiện tượng hay
là sự lôi kéo liên tục giữa nguyên nhân và hậu
quả (tất cả mọi hiện tượng đều tương liên,
tương tạo và tương tác với nhau trong một sự
chuyển động chung, không có một hiện tượng nào
mang tính cách tự tại hay nội tại cả, tức có
nghĩa là tự nó nó không thể hiện hữu một cách
độc lập và tách rời ra khỏi các hiện tượng khác
được, "cái tôi" do đó cũng không phải là một
thực thể độc lập mà chỉ là một "ảo giác" như tất
cả các hiện tượng khác. Quy luật này cũng giúp
để "hình dung" ra tánh không (vacuité /
emptiness) của tất cả mọi hiện tượng theo quan
điểm của Đại Thừa Phật Giáo. Do đó khi
Buddhadasa nêu lên quy luật này để giúp quán
thấy tính cách ảo giác của "cái tôi" và cái "của
tôi" thì đấy cũng là cách mà ông đến gần với
cách suy luận của Đại Thừa và khái niệm về tánh
không theo quan điểm của Đại Thừa ).
Chữa bệnh bằng paticcasamuppâda (quy luật tương liên)
Nếu muốn giải thích tường tận trên phương diện lý
thuyết và kỹ thuật paticcasamuppâda là gì
thì sẽ mất rất nhiều thì giờ (thật ra thì
trên phương diện lý thuyết và kỹ thuật đơn thuần
thì cũng không đến đỗi quá khó hiểu thế nhưng
nếu muốn làm quen với nó, hòa mình với nó, hội
nhập với nó trong sự chuyển động chung của thực
tại và của vũ trụ bằng thiền định thì cũng sẽ
mất khá nhiều thì giờ). Phải mất từ một đến
hai tháng để có thể triển khai chủ đề này, bởi
vì trong lãnh vực lý thuyết thì quy luật này
ngày càng được khai triển nhiều hơn trên các
khía cạnh liên quan đến tâm lý học và triết học
và đã đưa đến một tình trạng phức tạp quá đáng
(thật ra con người luôn suy nghĩ và hành động
ngược lại với quy luật tương liên, thay vì hòa
mình với thực tại và chuyển động chung với vũ
trụ thì con người luôn tìm cách phá vỡ thực tại
ra từng mảnh vụn hay từng thành phần nhằm để dễ
định nghĩa, đặt tên, quy định, giới hạn và nắm
bắt từng mảnh vụn hay từng thành phần một, và
đấy cũng chính là cách "tách rời" cảm tính về "cái
tôi" ra khỏi một cá thể để quy định nó như là
một "cái tôi" thật sự, hay nói cách khác là trực
tiếp làm phát sinh ra một "cái tôi" độc lập hay
là linh hồn. Xin nêu thêm một thí dụ về sự bao
quát và phức tạp về quy luật này: người ta
thường hình dung tác động của hiện tượng tương
liên trong bối cảnh của thực tại và không mấy ai
nghĩ đến là những tác động đó còn mang tính cách
"xuyên thực tại" và "xuyên cá thể" tức là có thể
góp phần vào việc giải thích về hiện tượng tái
sinh, nói cách khác đấy là sự tương liên giữa
kiếp sống này với các kiếp sống khác xảy ra
trước đó và cả sau đó trong tương lai. Sở dĩ mạn
phép dông dài là nhằm vào mục đích làm nổi bật
thêm chủ trương tu tập thật đơn giản, trực tiếp
và thiết thực của Buddhadasa, tức là không nói
đến sự tương liên và lôi kéo giữa các kiếp sống
khác nhau và cũng không nêu lên tác động của quy
luật này trong lãnh vực tâm lý học vì tất cả
những thứ ấy quá trừu tượng và phức tạp).
Thế nhưng trên phương diện thực hành thì Đức
Phật cũng đã cho biết là chỉ gồm có một nắm giáo
huấn trong tay. Khi các giác quan (mắt, tai, mũi,
lưỡi v.v...) tiếp nhận được các thứ như hình
tướng, âm thanh, mùi, vị, thì người ta gọi đấy
là sự "tiếp xúc", và tiếp theo đó sự tiếp xúc ấy
sẽ làm phát sinh ra giác cảm và sự cảm nhận. Sự
cảm nhận lại tiếp tục triển khai để trở thành sự
thèm muốn, sự thèm muốn lại được kích động thêm
để trở thành sự bám víu (muốn tìm hiểu tường
tận hơn quá trình này thì có thể xem lại khái
niệm về sự vận hành của năm thứ cấu hợp - hay
ngũ uẩn - tạo ra một cá thể con người). Sự
bám víu đưa đến sự hình thành, sự hình thành đưa
đến "sự sinh" hay là sự hiển hiện ra "cái tôi",
và từ sự sinh đó cũng sẽ bắt đầu phát sinh ra
các thứ khổ đau của sự già nua, của bệnh tật và
cái chết - gọi chung là dukkha (Buddhadasa
rút ngắn "mười hai mối dây trói buộc trong chu
kỳ của sự sống" mà kinh sách tiếng Việt gọi là
Thập Nhị Nhân Duyên. Ông chỉ nêu lên là sự bám
víu sẽ đưa đến sự sinh và sự sinh sẽ là nguyên
nhân làm phát sinh ra khổ đau của sự già nua,
bệnh tật và cái chết).
Tôi cũng xin quý vị hãy cố gắng ghi nhận là mỗi khi
có sự tiếp xúc với một đối tượng của các giác
quan, thì sự tiếp xúc đó sẽ làm phát sinh ra
giác cảm, và tiếp theo đó là sự thèm muốn, và cứ
tiếp tục như thế. Người ta gọi đấy là chu kỳ
paticcasamuppâda (chu kỳ của sự tương
liên), quá trình lôi kéo mọi vật thể của quy
luật này cho thấy rằng mọi vật thể nếu muốn hiển
hiện ra thì luôn phải cần đến một nguyên nhân đã
có từ trước, tức là các điều kiện cần thiết để
làm phát sinh ra một thứ gì khác, cái thứ gì
khác ấy lại tiếp tục trở thành nguyên nhân để
làm phát sinh ra một thứ gì khác nữa, v.v... Quá
trình lôi kéo ấy cho thấy rằng mọi sự vật sở dĩ
có thể hiện ra là nhờ vào quy luật liên kết giữa
nguyên nhân và hậu quả, "cái tôi" không hề hiện
hữu ở bất cứ nơi nào trên quá trình đó (chỉ
có nguyên nhân và hậu quả lôi kéo nhau mà thôi).
Bánh xe của sự tương liên nêu lên hình ảnh trói
buộc và xoay vần của tất cả mọi hiện tượng.
Nếu muốn áp dụng nguyên lý đó để mang lại lợi ích
thì đấy là cách chận đứng quá trình diễn tiến
làm phát sinh ra nguyên nhân tạo ra các điều
kiện đưa đến sự hình thành. Chúng ta phải cắt
đứt quá trình đó ngay từ lúc sinh ra sự tiếp xúc
giác cảm, không để cho các cảm tính toại nguyện
hay bất toại nguyện có thể phát sinh sau đó. Khi
nào không còn một phản ứng nào hiện ra trong
lãnh vực cảm tính, thì khi đó cũng sẽ không còn
có một sự thèm muốn nào hay một sự bám víu nào
có thể xảy ra được. Thật vậy "cái tôi" và cái "của
tôi" phát sinh đúng vào thời điểm ấy, tức là vào
lúc bắt đầu hiện ra sự thèm muốn và bám víu, và
cái bẫy của ảo giác cũng sẽ giăng ra vào đúng
lúc đó. Thế nhưng nếu vào thời điểm xảy ra sự
tiếp xúc giác cảm và nếu đấy sẽ chỉ là một sự
tiếp xúc đơn thuần, hoàn toàn không có bất cứ gì
khác xảy ra thêm sau đó, thì "cái tôi" và cái "của
tôi" cũng sẽ không có. Do đó căn bệnh tâm linh
cũng sẽ không thể phát sinh ra được và tất nhiên
cũng sẽ không có dukkha.
Thời điểm xảy ra sự tiếp xúc giác cảm
Sau đây là phương pháp tu tập thứ hai. Đối với phần
đông mọi người thì quả hết sức khó cho họ ngăn
chận không cho sự tiếp xúc làm phát sinh ra một
thứ cảm tính nào đó (sờ vào một tấm lụa thì
mình cảm thấy thích thú, một con chuột bị đuổi
hoảng hốt chạy bừa lên chân mình để thoát thân
thì mình kêu thét lên vì sợ hãi. Hai giác cảm đó
khá gần nhau: sự mịn màng của tấm lụa và lông
của con chuột, thế nhưng hai cảm tính phát sinh
- hay là hai cách diễn đạt của tâm thức - thì
trái ngược nhau: toại nguyện và bất toại nguyện).
Ngay vào lúc xảy ra sự tiếp xúc giác cảm thì tức
khắc một cảm tính toại nguyện (thích thú)
hay bất toại nguyện (khó chịu) cũng sẽ
theo đó mà xảy ra. Quá trình vận hành và lôi kéo
ấy không thể dừng lại được ở cấp bậc tiếp xúc,
bởi vì tâm thức (của những người ấy)
không hề được luyện tập về Dhamma. Tuy
nhiên vẫn có cách để giúp họ vượt thoát khỏi
dukkha mà họ không thể tránh né được: tức là
mỗi khi có sự tiếp xúc giác cảm xảy ra thì dù
cho một cảm tính về sự toại nguyện hay bất toại
nguyện có theo đó mà hiện ra đi nữa thì vẫn còn
đủ thì giờ để chận đứng chúng, đấy là cách xem
một giác cảm chỉ là một giác cảm, một cảm tính
là một cảm tính, và cứ để cho chúng tự trôi qua
như thế. Không nên để cho chúng biến thành sự
thèm muốn, thí dụ như ước mong có được cái này
hoặc là tìm cách loại bỏ cái kia, tùy theo sự
tiếp xúc sẽ làm phát sinh ra sự toại nguyện hay
bất toại nguyện. Bởi vì nếu có sự toại nguyện
thì tất nhiên cũng sẽ có sự thèm muốn, vừa ý,
ham thích, chiếm hữu, ganh tị, v.v... Ngược lại
nếu đấy là sự bất toại nguyện thì tất sẽ sinh ra
sự mong cầu loại bỏ được những gì mà mình không
thích, chẳng hạn như tìm cách gây sự, phá phách,
sát sinh, v.v.... Nếu các thể loại xúc cảm đó
xâm chiếm tâm thức thì cũng có nghĩa là các giác
cảm đã chuyển thành sự thèm khát. Rơi vào hoàn
cảnh đó thì quả thật không còn cách nào tránh
khỏi bị nhiễm căn bệnh tâm linh và gánh chịu
dukkha, và không còn ai có thể giúp mình
được nữa. Dù cho tất cả các vị thần linh có họp
nhau lại thì cũng đành bó tay. Đức Phật cũng đã
từng thú nhận rằng chính Ngài cũng không thể làm
gì được khi sự thể đã xảy ra như thế. Đức Phật
không có một quyền năng nào để có thể biến đổi
được các quy luật thiên nhiên. Ngài chỉ đơn giản
là người đã khám phá ra các quy luật ấy và nêu
lên hầu giúp cho những ai biết dựa vào đấy để
biến cải lấy chính mình. Tất cả đều do nơi mình,
nếu tu tập không đúng đắn thì khó tránh khỏi
dukkha, và trái lại nếu tu tập đúng đắn thì
sẽ không có dukkha. Do đó, khi nào sự cảm
nhận đã chuyển sang giai đoạn thèm muốn thì khi
ấy cũng sẽ không còn có ai có thể cứu giúp mình
được nữa. Ngay vào lúc mà sự thèm muốn hay ghét
bỏ bắt đầu hiện ra thì mọi sự đã muộn, không còn
cách nào khác để tránh khỏi dukkha.
(khi con chuột chạy ngang chân mình và lông của
nó chạm vào da thịt mình thật êm cũng chẳng khác
gì như chạm vào một tấm vải lụa, thế nhưng nếu
đã thét lên thì sẽ không còn ai có thể ngăn chận
dukkha được nữa: mặt sẽ xanh mét, tay chân run
rẩy, tim đập mạnh và hơi thở hổn hển... Sự tiếp
xúc đã chuyển thành sự ghê tởm và sợ hãi. Sờ vào
tấm lụa và cảm thấy sự mịn màng, êm mát của tấm
lụa là một cảm nhận thích thú, thế nhưng sự toại
nguyện đó cũng sẽ biểu trưng cho một thứ dukkha
thật tinh tế, sâu sắc, tiềm ẩn, rất khó nhận
biết vì mang tính cách lừa phỉnh và đam mê, và
nhất là... báo hiệu một sự "nguy hiểm" to lớn
hơn nhiều đang chờ đợi mình so với trường hợp
một con chuột chạy bừa lên chân mình).
Hãy tìm cách xác định xem ai đang ẩn náu phía sau sự
thèm muốn đang phát sinh trong đầu mình, có phải
đấy là "cái tôi" đang làm chủ thể để phát động
cái cảm tính ấy hay không, có phải là "cái tôi"
đang thèm muốn được có cái này hay cái nọ, muốn
thực hiện mọi thứ theo cách này hay theo cách
kia, muốn hành động như thế này và phải đạt được
kết quả như thế kia hay không? Cái chủ thể đứng
ra để thèm muốn ấy chính là "cái tôi". Vì thèm
muốn các sự vật nên "cái tôi" ấy bám víu vào
chúng và khẳng định bằng mọi cách rằng tất cả
những thứ ấy đều là "của nó", chẳng hạn như địa
vị xã hội "của tôi", nhà cửa "của tôi", sự an
toàn "của tôi", sự vinh quang "của tôi".
Cảm tính về "cái tôi" và cái "của tôi" được xem là
sự bám víu, nó sinh ra từ sự thèm muốn và thuộc
vào sự chuyển động chung của chuỗi tiếp nối liên
tục giữa nguyên nhân và hậu quả. Nếu bánh xe của
sự xoay vần và tiếp nối đó chuyển sang cấp bậc
bám víu thì tức có nghĩa là đám "vi khuẩn" đã
chui vào mắt, tai, mũi, lưỡi và thân xác. Chúng
sinh sôi nẩy nở, lan tràn và làm phát hiện ra
các triệu chứng của căn bệnh, và đấy cũng chính
là tình trạng khi sự bám víu chuyển sang sự hình
thành - có nghĩa là sự bám víu trở thành nguyên
nhân để đưa đến sự hình thành. Sự "hình thành"
(bhava) có nghĩa là "chiếm hữu và trở
thành như thế" (avoir et être / having and
being). Vậy thì chiếm hữu cái gì và trở
thành cái gì? Đấy là chiếm hữu "cái tôi" và trở
thành cái "của tôi". Khi đã nói đến sự "hình
thành" thì cũng có nghĩa là căn bệnh về "cái tôi"
và cái "của tôi" đã phát triển thật đầy đủ (để
đưa đến sự sinh).
Tu tập là phải chận đứng ngay tức khắc quá trình lôi
kéo ấy đúng vào thời điểm mà sự tiếp xúc sắp
chuyển sang thể dạng cảm-nhận/cảm-tính (tức
là trước khi phát sinh ra cảm tính toại
nguyện hay bất toại nguyện), hoặc nếu trong
trường hợp không thể chận đứng được quá trình ấy
đúng vào thời điểm trên đây (tức là thời điểm
chuyển tiếp giữa cảm-nhận và cảm-tính, và nếu "cảm-nhận"
đã lỡ trở thành "cảm-tính" mang tính cách toại
nguyện hay bất toại nguyện thì cũng phải cố gắng
không cho nó chuyển thành sự bám víu) thì
phải ngăn chận ngay không cho cảm tính trở thành
sự thèm muốn, nếu không thì sẽ quá trễ.
Dhamma phải được mang ra sử dụng (như là
một phương thuốc) đúng vào thời điểm ấy: có
nghĩa là đúng vào thời điểm khi mắt tiếp xúc với
hình tướng, tai tiếp xúc với âm thanh, lưỡi tiếp
xúc với vị, v.v... Phải chuyên cần luyện tập
(Dhamma) nhằm giúp mình tuyệt đối không còn
bám víu vào bất cứ thứ gì nữa. Đối với hầu hết
mọi người, mỗi khi có sự tiếp xúc giác cảm xảy
ra thì tức khắc cảm tính xuất hiện, và tiếp tục
sau đó cũng sẽ xuất hiện sự thèm muốn, bám víu,
hình thành và sau hết là sự sinh tạo ra "cái tôi".
Chúng ta vẫn quen bước theo con đường diễn tiến
ấy, vì thế nó cũng đã trở thành một con đường
rất quen thuộc, thật dễ đi tương tự như trượt
xuống một triền dốc trơn trợt. Tuy dễ đi thế
nhưng không được bước theo con đường đó! Mỗi khi
sự tiếp xúc giác cảm xảy ra thì tức khắc phải
đổi hướng ngay và chọn cho mình con đường của sự
nhận định minh bạch, tức con đường của sự chú
tâm và tỉnh thức. Không nên để bị trượt theo
triền dốc của "cái tôi" và cái "của tôi", hoặc
trong trường hợp nếu đã lỡ đi theo con đường đó
và đã bước vào giai đoạn mà cảm tính đã phát
sinh thì vẫn còn đủ thì giờ để chuyển hướng và
để bước theo con đường của sự nhận định minh
bạch. Không nên cứ để bị trượt theo triền dốc
của "cái tôi" và cái "của tôi", đấy chính là
cách giúp mình tránh khỏi khổ đau. Nếu luyện tập
theo phương pháp đó thật đúng đắn và hoàn hảo
thì chúng ta cũng sẽ đạt được thể dạng A-la-hán.
Đức Phật có giảng cho một đệ tử tên là Bahiya về một
nguyên tắc thật đơn giản như sau (kinh Bahiya
Sutta, Udana 1.10, PTS Udana 6):
"Này Bahiya,
Khi nhìn thấy một hình tướng, thì đấy chỉ là
cách trông thấy.
Khi nghe thấy một âm thanh, thì đấy chỉ là cách
nghe thấy.
Khi ngửi thấy một mùi, thì đấy chỉ là cách ngửi
thấy.
Khi nếm thấy một vị, thì đấy chỉ là cách nếm
thấy.
Khi xảy ra một sự cảm nhận trên thân xác, thì
đấy cũng chỉ là một sự cảm nhận.
Và mỗi khi có một tư duy hiện ra, thì đấy cũng
chỉ là một hiện tượng tự nhiên hiện ra trong tâm
thức.
Đấy là cách không có cái ngã.
Khi nào không có cái ngã thì khi đó cũng sẽ
không có một sự chuyển động nào tại nơi này hay
tại nơi kia (không phóng tưởng vào một thứ gì
cả và cũng không diễn đạt gì cả),
và cũng không hề có sự dừng lại ở bất cứ một nơi
nào (không bám víu vào cái này hay cái kia và
cũng không trở thành một thứ gì cả).
Đấy là sự chấm dứt của dukkha (khổ đau).
Đấy là nibbâna (niết-bàn).
(điểm tuyệt vời nhất trong câu thuyết giảng trên
đây là "không có một sự chuyển động nào" cũng "không
có một sự dừng lại ở bất cứ nơi nào". "Không
chuyển động" thế nhưng cũng "không dừng lại" thì
đúng là một thể dạng mang hai sắc thái tương
khắc nhau - không "chuyển động" cũng không "dừng
lại" - , chúng tự hóa giải lẫn nhau để tạo ra
một sự "trống không" tuyệt đối, một sự "trống
không" không thể mô tả được bằng bất cứ phương
tiện nào, cũng không thể dùng trí thông minh
thông thường để hình dung ra được, bởi vì không
có một thể dạng nào theo sự hiểu biết quy ước
lại có thể vừa "không chuyển động" lại vừa "lưu
chuyển và không dừng lại". Cái thể dạng "trống
không" đó chỉ có thể "cảm nhận" trực tiếp bằng
trực giác mà thôi. Khi đã cảm nhận được cái "trống
không" ấy thì nó cũng có thể làm chấn động và nổ
tung cả thân xác và tâm thức của chính mình và "cái
tôi" và cái "của tôi" sẽ không còn tìm thấy một
cơ sở nào để nương tựa nữa. Khi đi tới sẽ có một
"cái tôi", khi dừng lại cũng sẽ có một "cái tôi",
"không đi tới" mà cũng "không dừng lại" thì "cái
tôi" sẽ phải chịu thua, không làm gì được, tức
là nó đành phải tự biến mất mà thôi. Tuyệt vời
thay một lời thuyết giảng thật đơn sơ và ngắn
gọn của Đức Phật)
Mỗi khi xảy ra như thế thì đấy là niết-bàn.
Nếu thể dạng ấy kéo dài thì niết-bàn cũng
sẽ kéo dài. Nếu thể dạng ấy chỉ có tính cách
giai đoạn thì niết-bàn cũng sẽ chỉ là
giai đoạn. Nói một cách khác thì cả hai thứ (niết
bàn và thể dạng "không chuyển động tại nơi này
hay nơi kia" và cũng "không dừng lại ở một nơi
nào cả") đều thuộc vào một nguyên lý chung
và duy nhất.
Dù là quý vị luyện tập theo cách nào (một trong
hai cách đã mô tả trên đây: dừng lại trước khi
cảm tính phát sinh hoặc sau khi cảm tính đã phát
sinh nhưng sự thèm muốn và bám víu chưa hiện ra)
thì tất cả cũng sẽ đều mang lại sự bình thản
(không thèm muốn, ghét bỏ, bám víu...) mỗi
khi quý vị phải tiếp xúc với các đối tượng của
giác cảm, hay là sự biến mất của chúng. Nếu quý
vị luyện tập một cách đúng đắn và không tìm cách
tự lừa dối mình (phải thành thật và lương
thiện với những cảm tính của chính mình) và
dù đấy là phương pháp suy tư nào (một trong
hai phương pháp trên đây) thì cũng sẽ đều
mang lại cùng một kết quả là: quý vị không còn
phó mặc cho các thứ giác cảm tha hồ tung hoành
và làm phát sinh ra các cảm tính về "cái tôi" và
cái "của tôi" nữa. Khi đã thực hiện được kết quả
đó thì việc loại bỏ các chướng ngại (cảm tính
về "cái tôi" và cái "của tôi") làm cho tâm
thức bị u mê không còn phải là chuyện quá khó,
bởi vì khi đã luyện tập đúng thì các chướng ngại
("cái tôi" và cái "của tôi") cũng sẽ tự
động biến mất.
Hãy đưa ra một thí dụ thật đơn giản như sau, nếu
chúng ta nuôi một con mèo trong nhà để ngăn ngừa
không cho lũ chuột kéo vào quấy phá thì chúng ta
cũng chỉ cần chăm sóc cho con mèo, không cần
phải đuổi chuột. Con mèo đảm nhận công việc của
nó và sẽ không có một con chuột nào dám bén mảng
chui vào nhà. Nhờ có con mèo nên những gì không
muốn cũng sẽ không xảy ra. Cũng thế, chúng ta
chỉ cần canh chừng cẩn thận: mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân xác và tâm thần thật đúng đắn thì các thứ
chướng ngại ngăn chận sự Giác Ngộ cũng sẽ bị
loại bỏ một cách tự nhiên.
Nên hành xử đúng đắn trong thế giới
Lời khuyên này có vẻ như là một câu nói rập khuôn
theo các công thức sẵn có. Đấy cũng chẳng khác
gì như khi Đức Phật nêu lên: "Nếu biết cư xử
đúng đắn thì thế giới cũng sẽ chẳng thiếu gì
những vị A-la-hán". Thế nhưng chúng ta phải nắm
bắt được tất cả sự tế nhị ẩn chứa trong câu nói
đó: "Chỉ cần biết sống như thế nào cho thật đúng
đắn và hợp lẽ - như thế cũng thừa đủ và chẳng
cần phải làm gì thêm - và rồi thế giới cũng sẽ
không hiếm những vị A-la-hán". Thật thế lời
khuyên ấy nào có phải là một điều hời hợt. Trong
những giây phút trước khi tịch diệt Đức Phật đã
từng nói với các đệ tử của Ngài như sau: "Im
ce bhikkhave bhikkhu samma vihareyyum asunno
loko arahantehi assa",
có nghĩa là "Này các tỳ kheo, nếu biết sống một
cách đúng đắn thì thế giới này sẽ không hiếm
những vị A-la-hán", samma vihareyyum có
nghĩa là "sống một cách đúng đắn" (cũng xin
ghi chú thêm là theo các học giả Tây Phương thì
Đức Phật nói bằng thổ ngữ của xứ Ma-kiệt-đà -
Magadha, gần với tiếng Phạn và tiếng Pa-li, dù
sao thì cũng không hoàn toàn giống với tiếng
Pa-li như được ghi chép ngày nay. Tuy nhiên cũng
có thể hiểu là Đức Phật có thể thuyết giảng bằng
nhiều thứ thổ ngữ trong thung lũng sông Hằng gọi
chung là các ngôn ngữ prâkrit). Vậy làm thế
nào để sống một cách đúng đắn để thế giới sẽ
không còn hiếm những vị A-la-hán? Sống "đúng đắn"
là sống mà không để cho các thứ hình tướng, âm
thanh, mùi, vị và sự đụng chạm trên thân xác có
thể gây ra bất cứ một tác động nào ảnh hưởng đến
mình (xin đừng hiểu đấy là một sự vô cảm, mà
đúng hơn là một sự cảm nhận bình thường, có
nghĩa là không để cho những cảm nhận ấy biến
thành những cảm tính đưa đến sự thèm muốn và bám
víu). Nói cách khác là dù cho các giác quan
có nhận biết được các thứ ấy đi nữa thế nhưng sự
nhận biết ấy không ăn sâu vào con người chúng ta
để tạo ra những thứ xúc cảm chẳng hạn như thèm
muốn hay bám víu. Tóm lại là chúng ta biết sống
một cách khôn khéo, biết phát động một khả năng
chú tâm khả dĩ có thể giúp nhận thức được bản
chất của mọi sự vật để ý thức rằng chúng ta hoàn
toàn trống không về "cái tôi" và cái "của tôi",
như đã được trình bày trên đây. Sở dĩ chúng ta
đạt được khả năng đó là nhờ vào sự suy tư và tìm
hiểu về bản chất các sự vật và sự luyện tập của
chính mình. Nhờ vào khả năng đó, mỗi khi có một
sự tiếp xúc giác cảm xảy ra thì đối tượng của
giác cảm ấy cũng sẽ chết ngay sau đó, tương tự
như một làn sóng đập vào bờ, hoặc tương tự như
có nuôi một con mèo trong nhà để đuổi lũ chuột
ra ngoài.
Nếu chúng ta sống một cách "đúng đắn"
- tức giữ đúng theo nguyên tắc không bám víu -
thì hình tướng, âm thanh, mùi, vị và những cảm
giác trên thân thể không thể nào gây ra tác hại
cho chúng ta được. Chúng ta cảm biết được những
thứ ấy, ý thức được
những thứ ấy, thế nhưng đồng thời chúng ta cũng phát huy được
một sự chú tâm thích đáng, khả dĩ có thể giúp
quán thấy được bản chất đích thật của chúng. Khi
đã đạt được khả năng đó thì chúng ta cũng sẽ chủ
động được việc sử dụng mọi vật thể: chúng ta có
thể ăn chúng, chiếm đoạt chúng, cất giữ chúng mà
không gây ra một khổ đau nào cho mình, bởi vì
chúng ta xem chúng như là không hề hiện hữu. Dù
sao thì chúng ta cũng có thể không màng đến việc
sử dụng chúng, không ăn chúng, không chiếm giữ
chúng, bởi vì chúng ta ý thức được rằng chúng
không phải là "chúng ta" và cũng chẳng phải là "của
chúng ta".
Trái lại nếu tất cả mọi thứ được thực thi xuyên qua
"cái tôi" và cái "của tôi" thì theo đó dukkha
cũng sẽ hiện ra. Thật thế, ngay trước khi ăn
hay trước khi chiếm hữu một cái gì đó thì sự bất
toại nguyện cũng đã hiện ra rồi, và trong lúc
đang ăn hay đang chiếm hữu thì mọi sự sẽ còn trở
nên tệ hại hơn nhiều. Tất cả đều là dukkha,
và đấy cũng có nghĩa "sống không đúng đắn" và
hậu quả là chúng ta luôn bị dukkha bủa
vây và tác hại.
Khi nào chúng ta biết sống một cách "đúng đắn" thì
căn bệnh không thể phát ra được. Vậy chúng ta
thử nêu lên một hình ảnh khác làm thí dụ để giải
thích thêm về vấn đề này. Chúng ta đều hiểu rằng
nếu biết sống đúng đắn thì những thứ ô nhiễm tâm
thần - chẳng hạn như sự thèm muốn, ghét bỏ và u
mê - sẽ không được "nuôi dưỡng" (dung dưỡng,
chăm sóc) do đó chúng cũng sẽ trở nên èo uột
và tan biến mất. Chúng ta có thể so sánh sự kiện
ấy với hình ảnh của một con cọp đang nổi giận vì
bị nhốt trong chuồng và không ai cho ăn: trong
trường hợp đó không cần phải giết nó bởi vì tự
nhiên nó cũng phải chết. Chúng ta giam giữ hình
tướng, âm thanh, mùi, vị, các giác cảm trên thân
thể và các hiện tượng trong tâm thần ngay vào
lúc chúng tiếp xúc với mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
xác và tâm thức của chúng ta. Chúng ta nhốt
chúng vào chuồng ngay tức khắc. Nếu thực hiện
đúng cách và thật quyết liệt thì đấy sẽ là cách
"bỏ đói" những thứ ô nhiễm tâm thần. Chúng sẽ
không sinh sôi và lan tràn ra được nữa, có nghĩa
là các con vi khuẩn ấy sẽ chết.
Đức Phật bảo rằng nếu chúng ta biết sống một cách "đúng
đắn" và chính trực thì địa cầu cũng sẽ không
thiếu những vị A-la-hán. Đấy là cách mà Ngài
khuyên chúng ta nên sống thích nghi với quy luật
paticcasamuppâda (quy luật tương liên
hay lý duyên khởi). Đấy là một cách sống
đúng đắn không để cho các thứ ô nhiễm tâm thần
có cơ may xuất hiện. Chúng ta quán thấy một cách
minh bạch là "cái tôi" và cái "của tôi" chỉ là
những thứ ảo giác, bởi vì chúng chỉ có thể hiển
hiện nhờ vào sự tiếp xúc giác cảm làm phát sinh
ra một sự cảm nhận và một cảm tính, những thứ
này lại tiếp tục được phát động để biến thành sự
thèm muốn và bám víu. Nếu chúng ta có thể chận
đứng được sự phát hiện của sự thèm muốn, thì
cũng sẽ không có sự bám víu vào "cái tôi" hay
cái "của tôi". Quý vị phải thấu triệt được một
cách minh bạch rằng "cái tôi" và cái "của tôi"
chỉ là những sự tạo dựng đơn thuần, chúng hoàn
toàn không thực. Đấy chỉ là những ảo giác, tương
tự như một gợn sóng do một cơn gió tạo ra: nước
đúng là thật, thế nhưng gợn sóng chỉ là một ảo
giác. Sự so sánh trên đây không được hoàn toàn
chính xác thế nhưng cũng có thể giúp để hình
dung ra khía cạnh ảo giác của gợn sóng do cơn
gió "tạo dựng" ra khi nó thổi trên mặt nước. Đấy
chỉ là một sự chuyển động của nước do gió "khơi
động" và nó sẽ biến mất đi sau đó. Cảm tính về "cái
tôi" và cái "của tôi" hiện ra thường xuyên suốt
trong ngày, tương tự như những gợn sóng. Nước có
thể ví như đối tượng của giác cảm tiếp xúc với
ngọn gió là sự u mê (vô minh) khiến tạo
ra những gợn sóng của "cái tôi" và cái "của tôi"
suốt trong sự sinh hoạt hằng ngày.
Tìm hiểu sự sinh ra "cái tôi"
Mỗi sự hiển hiện của cảm tính về "cái tôi" và cái "của
tôi" đều được xem là một "sự sinh" (xin mạn
phép nhắc lại là Buddhadasa chủ trương "thu gọn"
hay "đơn giản" bớt chu kỳ tái sinh tức "chu kỳ
luân hồi" bằng cách chỉ mô tả những biến chuyển
của tâm thức trong thực tại). Theo ý nghĩa
mà Đức Phật muốn nói, thì chữ sinh không hề có
nghĩa là sự sinh ra đời của một hài nhi từ tử
cung của một người mẹ - đấy chỉ là những gì quá
ư vật chất! Sự sinh mà Đức Phật đề cập thuộc vào
lãnh vực tâm linh: đấy là sự sinh của "cái tôi"
và cái "của tôi" tạo ra bởi sự xuất hiện của sự
bám víu. Nếu nhìn theo một khía cạnh khác thì sẽ
thấy rằng có hàng trăm sự sinh nối tiếp nhau xảy
ra, con số này tùy thuộc vào khả năng chủ động
của từng người. Dù sao trong mỗi sự sinh thì "cái
tôi" và cái "của tôi" cũng sẽ xuất hiện, sau đó
sẽ mờ nhạt đi, từ từ tan biến và sau cùng sẽ
chết hẳn. Một sự tiếp xúc giác cảm khác phát
sinh thật nhanh sau đó để báo hiệu một "sự sinh"
khác. Mỗi sự sinh đều tạo ra một tác động ảnh
hưởng đến sự sinh xảy ra tiếp theo sau. Đấy là
gì mà người ta gọi là kamma (nghiệp):
nó lưu lại từ một kiếp sống trước và chín muồi
trong sự sinh hiện tại để rồi tiếp tục lưu
truyền xa hơn nữa. Đấy là tóm lược những gì xảy
ra cho mỗi sự sinh. Và đấy cũng là cách hiểu về
"quả của kamma" và sự "tiếp nhận quả của
kamma". Sự diễn đạt đó hoàn toàn phù hợp
với lời giảng huấn của Đức Phật. Nếu không hiểu
đúng như thế thì chúng ta sẽ lọt ra ngoài chủ đề.
Đấy chính là cách mà chúng ta phải hiểu về "sự
sinh", kamma và quả của kamma. Hãy
đưa ra một thí dụ, người ta có thể sinh ra dưới
thể dạng của một cá thể nào đó và cá thể này
thèm muốn chiếm hữu một vật thể thích thú, cá
thể này chết và sau đó thì tái sinh thành một
tên trộm, tên trộm tìm cách để chiếm hữu vật thể
ấy, sau đấy cá thể này lại chết đi và lại tái
sinh thành một cá thể khác nữa để thụ hưởng sự
thích thú khi có được vật thể đó. Một thời gian
sau, cá thể này lại tái sinh thành một tên phạm
pháp và bị giam giữ. Các thể loại tái sinh đó
rất đa dạng và hỗn độn bởi vì có quá nhiều mối
dây kết nối chằng chịt với nhau. Thế nhưng nếu
phân tích thật kỹ thì quý vị cũng sẽ nhận thấy
đúng vào thời điểm mà người ta không còn "sinh
ra" ("cái tôi" không phát hiện) thì
nibbâna (niết-bàn) cũng sẽ hiện hữu.
Niết-bàn không sinh, không già, không
bệnh và không chết. Thế nhưng khi nào vẫn còn "sự
sinh", vẫn còn cảm tính về "cái tôi" và cái "của
tôi", thì bánh xe của sự sống và cái chết vẫn
tiếp tục quay đều để kéo theo với nó dukkha.
Cũng xin lưu ý là sự vắng bóng của "cái tôi" và cái
"của tôi" không phải là sự trống không với ý
nghĩa là không còn cảm biết bất cứ một thứ gì
nữa. Người ta không ngồi xuống để hóa thành một
pho tượng hay một khúc củi, mà đúng hơn là để
mang lại cho mình một sự linh hoạt tột đỉnh. Đạt
được thể dạng hoàn toàn trống không về "sự sinh",
về "cái tôi" là cách giúp mình phát động sự tỉnh
giác, và nhờ đó tất cả những gì mình làm sẽ được
suôn sẻ và trôi chảy một cách tự nhiên. Nhờ
không phạm vào các tư duy sai lầm, các ngôn từ
không chính đáng, các hành động tồi tệ, nên
chúng ta cũng sẽ hoàn tất được mọi việc thật
nhanh chóng và đầy tự tin. Chúng ta cũng sẽ
không phạm vào sai lầm bởi vì sự tỉnh thức và
quán thấy trong sáng sẽ tự động phát hiện và vận
hành một cách tự nhiên. Thể dạng tâm thức đó gọi
là thể dạng "trống không về cái tôi". Bất cứ ai
đạt được thể dạng trống không ấy của "cái tôi"
tức là thể dạng của niết-bàn, thì cũng sẽ
thực hiện được tất cả mọi thứ và không sợ bị sai
lầm. Người ấy sẽ hoàn tất được nhiều việc một
cách thật linh hoạt và lợi ích.
Không nên tin rằng khi quý vị loại bỏ được "cái tôi"
thì quý vị không còn làm được gì nữa, phải ngưng
tất cả và trở nên hoàn toàn mê man, đờ đẫn và vô
cảm. Đấy chỉ là ý nghĩ nảy sinh ra trong đầu của
quý vị đấy thôi! Chính cái vô minh của quý vị đã
khiến cho quý vị cảm thấy sợ hãi sự trống không,
sợ hãi nibbâna, sợ hãi sự chấm dứt của
thèm muốn vì nếu không còn biết thèm muốn là gì
thì sẽ khiến cho quý vị buồn chán.
Sự chấm dứt của thèm muốn là một lạc thú tối thượng,
là một niềm phúc hạnh lớn nhất trong số tất cả
các niềm phúc hạnh. Đấy chính là lạc thú đích
thật, là phúc hạnh đích thật. Đấy là sự chấm dứt
của đớn đau, của sự dối trá và ảo giác. Lạc thú
của những người bình thường, thiếu giác ngộ, chỉ
là những thứ lạc thú phù du, lừa phỉnh và nhất
thiết chỉ mang đến khổ đau. Đấy cũng chẳng khác
gì miếng mồi móc vào một lưỡi câu: khi đã nuốt
miếng mồi mà mình thèm muốn thì chiếc lưỡi câu
cũng sẽ móc vào cổ họng. Đấy cũng chẳng khác gì
như rơi vào bàn tay của quỷ sứ, có nghĩa là rơi
vào một tình trạng lầm lẫn và hoang mang thường
xuyên. Đấy là tình trạng bị cột vào bánh xe của
sự sinh và cái chết đang quay tròn trong cơn lốc
của dukkha, và nếu đã rơi vào cái bẫy ấy
thì khó lòng mà ra thoát được. Vì thế sự quán
thấy nhờ cách tu tập dựa vào quy luật
paticcasamuppâda - tức là bánh xe của chuỗi
dài trói buộc (sự tương liên giữa mọi hiện
tượng) - sẽ giúp nhận thức được là "cái tôi"
và cái "của tôi" chỉ là ảo giác, và đấy chính là
con đường Giải Thoát.
Anicca, Dukkha và Anatta là gì ?
Ngoài các phương pháp trên đây ra còn có thêm một
phương pháp khác nữa, đấy là cách suy tư về
anicca, dukka, và anattâ (vô
thường, khổ đau và vô ngã) để quán thấy là
các đối tượng của giác cảm - hình tướng, âm
thanh, mùi, vị, các vật thể sờ mó được và các
hiện tượng tâm thần - cũng chỉ là ảo giác. Không
nên xem nhẹ cách suy tư này. Không phải đấy là
chuyện dành riêng cho những người lớn tuổi hoặc
chỉ để an ủi những người hấp hối. Đấy là những
lời giảng huấn dành cho những người đang sống
như chúng ta nên mang ra để tìm hiểu và ứng dụng
vào sự sinh hoạt hằng ngày của mình. Nếu hội đủ
khả năng vận dụng sự hiểu biết về anicca,
dukkha và anattâ để hướng dẫn sự
sinh hoạt của mình hằng ngày thì chúng ta cũng
sẽ tạo được cho mình một kháng thể cực mạnh
khiến cho những thứ như hình tướng, âm thanh,
mùi, vị, v.v... không cách nào có thể biến thành
nọc độc được. Nhờ đó chúng ta sẽ tìm thấy sự an
toàn (tiếng Pa-li là khema / security).
Quả là một điều khá lý thú khi nhận thấy Đức
Phật không hề sử dụng chữ "hạnh phúc" khi thuyết
giảng, chẳng qua vì chữ này rất dễ gây ra hiểu
lầm. Thay thế chữ "hạnh phúc" bằng chữ "an toàn"
(khema) thì có lẽ thích hợp hơn, vì chữ
này có nghĩa là "tự do và an bình" và cũng có
thể hiểu như là "loại bỏ được các thứ nọc độc
tâm thần", tức là những gì khiến cho tâm thức
phải bấn loạn. Loại bỏ được mọi sự bấn loạn là
cách giúp mình tìm thấy sự trống không hay là
niết-bàn. Nếu quý vị muốn tìm thấy sự an
toàn và được che chở, thì quý vị phải biết áp
dụng sự hiểu biết sâu xa của mình về vô
thường, khổ đau và vô ngã. Sự
áp dụng đó sẽ tạo ra cho quý vị sức đề kháng
chống lại tác động gây ra bởi các thứ hình tướng,
âm thanh, mùi, vị và các cảm nhận trên thân xác,
giúp quý vị không rơi vào sự thèm muốn hay ghét
bỏ. Thật ra cũng chỉ có hai thể loại bấn loạn:
rơi vào tình trạng thèm muốn hay rơi vào tình
trạng ghét bỏ. Hai thể loại bấn loạn ấy là hai
nguyên nhân tạo ra tiếng cười hay tiếng khóc.
Khi nào hiểu rằng cười chỉ là một thể dạng tức
thở và phải thở hắt ra, và khóc thì cũng chỉ là
một phản ứng khác của sự nghẹn thở (khiến cho
mình phải nấc lên và chảy nước mắt), thì khi
đó chúng ta cũng sẽ hiểu rằng cách tốt nhất là
tìm cách mang lại cho mình sự bình lặng và thanh
thản, và đấy cũng là sự "an toàn". Và như thế sẽ
không còn bị chi phối bởi các đối tượng của giác
cảm nữa, hay nói cách khác là không còn bị nô lệ
cho tiếng cười hay tiếng khóc (cười hay khóc
cũng chỉ là những hình thức bấn loạn gây ra bởi
những cảm nhận giác cảm: một người mất trí có
thể cười hăng hắc một mình, một người sung sướng
có thể ràn rụa nước mắt. Cười cũng như khóc đều
có thể biểu trưng cho một trong hai thể dạng:
hoặc là hạnh phúc hoặc là khổ đau. Do đó chữ "hạnh
phúc" dễ gây ra hiểu lầm, chữ "an toàn" có vẻ
thích nghi hơn, bởi vì chữ "hạnh phúc" đôi khi
cũng đồng nghĩa với chữ "khổ đau". Tìm kiếm hạnh
phúc cũng là một hình thức dukkha). Tìm thấy
sự thư giãn, thanh thản và an toàn bao giờ cũng
tốt hơn. Đấy là cách biết nhìn vào anicca,
dukkha và anattâ (vô thường,
khổ đau và vô ngã) để hướng dẫn cuộc sống
thường nhật của mình. Không phải là quá khó để
nhận biết được các đối tượng của giác cảm đều là
ảo giác. Đấy cũng chẳng khác gì như trường hợp
khi phải nhận biết "cái tôi" và cái "của tôi" là
ảo giác, bởi vì "cái tôi" và cái "của tôi" cũng
chỉ là những thứ phát sinh từ các đối tượng của
giác cảm. Sở dĩ chúng ta nhận biết được chúng là
ảo giác, ấy là nhờ vào sự quán thấy sâu xa về vô
thường, khổ đau và vô ngã. Đấy là phương pháp
giúp tránh khỏi căn bệnh dukkha.
Xem sự thích thú như một ảo giác
Đến đây chúng ta hãy đề cập đến khái niệm về
sukhavedana (chữ này có nghĩa là sự "thích
thú và toại nguyện" - kinh sách tiếng Việt gọi
là "lạc thọ". Tuy nhiên với mục đích tránh bớt
các thuật ngữ Pa-li thường được dùng thẳng trong
nguyên bản và đồng thời làm "nhẹ" bớt các câu
chuyển ngữ, nên chữ sukhavedana sẽ được dịch một
cách ngắn gọn là "thích thú" trong phần dưới đây).
Thích thú chỉ là ảo giác, chẳng khác gì như
những gợn sóng nổi lên bất thường và tự chúng
không hàm chứa một thực thể nào cả. Tôi xin quý
vị hãy ghi nhớ điều này: bất cứ một sự vật nào,
dù thuộc vào một bối cảnh nào, cũng đều được
đánh giá căn cứ vào tổng lượng thích thú do nó
tạo ra. Quý vị cũng nên chịu khó suy nghĩ một tí:
tại sao quý vị lại thích được học hỏi? Tạo sao
quý vị lại thích làm các công việc mà quý vị ao
ước? Tại sao quý vị lại thích tích lũy tiền bạc,
tìm kiếm một địa vị xã hội, mong cầu đạt được
danh vọng hay là có thêm nhiều môn đệ? Bởi vì
các thứ ấy sẽ tạo ra sự thích thú cho quý vị,
đơn giản chỉ có thế. Nếu hiểu được điều ấy - và
thật ra thì cũng chỉ cần có thế - thì cũng đã
thừa đủ để giúp quý vị giải quyết được các vấn
đề trên đây một cách đúng đắn, và mọi sự nhờ đó
cũng sẽ xảy ra một cách thỏa đáng. Vậy phải hiểu
được điều gì? Phải hiểu được là quá trình diễn
tiến của việc tìm kiếm sự thích thú đúng thật
với bản chất của nó cũng chỉ là một hình thức ảo
giác mà thôi.
Chúng ta phải nhìn vào sự tìm kiếm thích thú qua bản
chất ảo giác của nó. Quả không có gì lại có thể
khôi hài hơn khi phát động cảm tính thù ghét
thích thú, hoặc ngược lại là bị mê hoặc và trở
thành nô lệ cho nó. Ứng xử một cách thích đáng
khi đối đầu với nó chính là cách thực hiện
Dhamma (Đạo Pháp), và đấy cũng là
thái độ hành xử của một người Phật tử. Cách hành
xử đó sẽ giúp cho người Phật tử chận đứng được
dukkha và sẽ không còn bị căn bệnh tâm
linh hành hạ mình nữa. Biết suy tư về bản chất
ảo giác của sự tìm kiếm thích thú sẽ giúp mình
thực hiện được cách hành xử đó. Thích thú cũng
chẳng khác gì như những gợn sóng nổi lên khi có
gió thổi trên mặt nước. Nói cách khác là khi nào
các thứ hình tướng, âm thanh, mùi, vị... thâm
nhập vào một cá thể thì sự dại dột do vô minh
xúi dục và sự ngu xuẩn do sự quán thấy sai lầm
tạo ra sẽ tức khắc tìm cách để tiếp xúc với
những thứ ấy. Từ sự tiếp xúc đó sẽ làm phát sinh
ra gợn sóng của sự thích thú, và rồi các gợn
sóng cũng sẽ đập vào bờ và tan rã. Nếu biết nhìn
mọi sự theo cách đó thì chúng ta cũng sẽ giải
quyết được mọi sự mà không hề cảm thấy khổ đau.
Gia đình không dukkha, xóm giềng không
dukkha, thế giới không dukkha, và
chính chúng ta là cội nguồn làm phát sinh ra thể
dạng không dukkha ấy. Nếu tất cả mọi
người đều biết nhìn vào mọi sự vật như thế thì
thế giới sẽ tìm thấy một sự an bình bền vững và
một niềm phúc hạnh đích thật.
Những gì trình bày trên đây cho thấy có nhiều phương
pháp trị bệnh có thể mang lại lợi ích cho mọi
người: đấy là các cách phải làm thế nào để cho
căn bệnh về "cái tôi" và cái "của tôi" không còn
hành hạ mình nữa.
Kết luận
Vì thời gian có hạn, do đó thiết nghĩ ba thí dụ (ba
phương pháp luyện tập) vừa được nêu lên
trong buổi nói chuyện hôm nay cũng tạm đủ. Trước
hết là phương pháp quán thấy tính cách ảo giác
của khái niệm về "cái tôi" và cái "của tôi" bằng
cách dựa vào quy luật paticcasamuppâda
(quy luật tương liên - lý duyên khởi);
sau đó đó là phương pháp quán thấy bản chất
ảo giác của các đối tượng của giác cảm nhờ vào
các khái niệm về anicca, dukkha và
anatta (vô thường, khổ đau và vô ngã);
sau cùng là phương pháp giúp quán thấy bản chất
ảo giác của khái niệm về sukhavedana (sự
"thích thú và toại nguyện" hay là "lạc thọ"
trong kinh sách tiếng Việt). Nếu muốn các
phương pháp này có thể giúp quý vị một cách hiệu
quả thì quý vị phải nhìn thật sát vào mọi sự vật,
phải chú tâm, cảnh giác và thật tỉnh thức khi
các đối tượng của giác cảm tiếp xúc với mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân xác và tâm thức, đúng theo
những gì mà Đức Phật đã chỉ dạy cho Bahiya. Đấy
là cách phải xem cái thấy chỉ là một sự trông
thấy, nghe chỉ là một sự nghe thấy..., và không
được dựa vào đó để tạo ra một cảm tính nào khác,
hoặc nếu một cảm tính đã lỡ sinh ra thì không
được để cho nó biến thành sự thèm muốn. Đồng
thời quý vị cũng phải chú tâm và nghĩ đến khái
niệm về sự "trống không" và sự "bấn loạn".
Cũng có thể đây là lần đầu quý vị tham dự một buổi
giảng nêu lên các chủ đề trên đây, và quý vị thì
cũng sắp trở về nhà. Vì thế tôi cũng xin quý vị
thử quan sát sự sinh hoạt trong cuộc sống của
quý vị xem sao, một lúc nào đó quý vị sẽ chợt
thấy trong cuộc sống thường nhật cũng có những
lúc quý vị cảm thấy mình "trống không", đấy là
những lúc mà quý vị không bị sự hoang mang và
lầm lẫn chi phối, và sự trống không ấy luôn đi
kèm với một sự tỉnh thức cao độ và một sự quán
thấy trong sáng. Ngoài những lúc "trống không"
ấy ra thì sự "bấn loạn" tức là cảm tính về "cái
tôi" (qua những thể dạng như ganh tị, ham
muốn, bực tức, vui sướng, giận dữ, ước mơ, mưu
đồ, hân hoan, lo âu, yêu thương, nhớ nhung, sợ
hãi, ăn nói huyên thiên, v.v...) thỉnh
thoảng lại xuất hiện, và mỗi lần xuất hiện như
thế thì gọi là một sự sinh ("cái tôi" hiện ra
qua từng cảm tính như vừa kể và mỗi lần nó hiện
ra thì đấy là một sự sinh, không cần phải có một
đứa hài nhi lọt lòng mẹ thì mới gọi là sinh).
Và cứ mỗi lần xảy ra sự sinh thì cũng theo đó mà
khổ đau sẽ sinh ra (mỗi cảm tính như vửa kể
trên đây - giận dữ, vui sướng, yêu thương, ghét
bỏ, nhớ nhung... - là một biểu hiện của khổ đau
và biểu trưng cho một sự sinh trong vô số sự
sinh tiếp nối nhau trong cuộc sống của chính
mình trong hiện tại). Tuy nhiên cũng có rất
nhiều lúc không có sự sinh nào xảy ra cả và đấy
là những lúc không có khổ đau (niết-bàn).
Thế nhưng tiếc thay nào có mấy ai ý thức được
điều ấy đâu, họ đang đi bên cạnh nibbâna
(niết-bàn) mà không hề hay biết.
Mặc dù đấy chỉ là một thứ niết-bàn bé tí, một
tiền vị thoang thoảng của niết-bàn, thế nhưng nó
có cùng một bản chất với niết-bàn đích
thật, chỉ khác là sự phát hiện của nó quá ngắn
ngủi. Sở dĩ nó không thể kéo dài được đấy là vì
chúng ta không biết cách tránh cho mình khỏi bị
lây nhiễm, và khi đã vướng bệnh thì cũng không
biết cách nào để chữa cho khỏi. Vì thế căn bệnh
cứ thường xuyên hoành hành và làm cho nibbâna
phải đứt đoạn.
Nếu một người có đủ trí thông minh để nhận biết được
rằng tâm thức của mình từ bản chất chỉ là trống
không, thì đấy cũng đã là niết-bàn, người
ấy chỉ có một việc duy nhất cần phải làm là canh
chừng không để cho bất cứ một thứ gì thâm nhập
vào tâm thức mình. Đối với quý vị cũng thế, đừng
để cho chúng thâm nhập! Tống khứ chúng ra ngoài!
Nếu không để cho chúng thâm nhập vào nhà thì
gian nhà của chúng ta lúc nào cũng sẽ trống
không.
Muốn tống khứ những thứ ấy ra ngoài thì phải tu tập
Dhamma theo đúng với những lời giảng dạy
của Đức Phật. Việc tu tập ấy sẽ khơi động sức
mạnh nội tâm và cảm ứng của mình kể cả lòng vững
tin nơi Dhamma, tất cả sẽ giúp chúng ta
biết chuyên cần hơn trong việc luyện tập, biết
lắng sâu vào thiền định và luôn cảnh giác. Khi
thực hiện được như thế thì mục đích cũng sẽ gần
kề.
Nếu khởi sự bằng những bước sai lầm thì việc tu tập
sẽ khó tránh khỏi khó khăn, khó hơn cả việc lăn
một khối đá lên đỉnh núi. Thế nhưng nếu chúng ta
biết quán nhìn vào mọi sự vật một cách đúng đắn
thì mọi sự sẽ trở nên dễ dàng hơn, dễ hơn cả lăn
một khối đá xuống chân núi.
Phải luôn giữ sự tỉnh thức, không được xao lãng,
không đánh mất sự cảnh giác. Luôn chú tâm để
quán thấy sự "trống không" (niết-bàn) và
mọi thứ "bấn loạn" (sự sinh) thay nhau
hiện ra trong cuộc sống thường nhật. Cố gắng
giúp tâm thức mình tìm thấy sự hân hoan trong
thể dạng "trống không", một thể dạng niết-bàn
mở rộng và thường xuyên. Không được để cho tâm
thức chạy theo những nhận định sai lầm nhằm
tránh cho nó không rơi vào sự kiềm tỏa của những
thứ có thể khiến cho nó bị bấn loạn.
Vần đề gay go nhất trong thời buổi ngày nay là chẳng
còn mấy ai thật sự mong muốn làm cho dukkha
phải chấm dứt. Người ta không còn đủ sức để ý
thức được rằng sở dĩ mình được sinh ra ấy là cả
một dịp may giúp mình tự giải thoát khỏi khổ đau.
Con người có cảm tưởng như mình được sinh ra
không vì một chủ đích nào cả, mà chỉ cần có một
thứ gì đó làm cho mình hài lòng và mang lại sự
vui thích cho mình là được. Chúng ta chỉ biết
chạy theo những gì xảy ra chung quanh một cách
mù quáng. Thế nhưng trong khi đó nếu muốn làm
cho dukkha chấm dứt thì nào có phải là
một chuyện quá khó và vượt quá tầm tay của mình
đâu. Đấy cũng chẳng khác gì như thực thi các
công việc hằng ngày hay hành nghề một cách bình
thường. Thế nhưng chúng ta không hề ý thức được
điều ấy và cứ ngoảnh mặt đi để nhìn vào nơi khác,
do đó đã khiến chúng ta luôn phải khổ đau.
Tóm lại, sự chấm dứt hay sự giải thoát khỏi căn bệnh
tâm linh tùy thuộc vào khả năng ngăn chận sự
hiển hiện của "cái tôi" và cái "của tôi". Sự
giải thoát khỏi căn bệnh ấy được xem là "một món
quà to lớn nhất". Và đấy cũng chính là tiêu đề
mà các đệ tử của Đức Phật đã sử dụng để quảng bá
Dhamma vào những thời kỳ nguyên thủy. Họ
đi xuyên ngang các làng mạc và thành phố để rao
bán một liều thuốc thần diệu:
"Arogya parama labha"
có nghĩa là "Giải thoát khỏi bệnh tật là một
sự lợi ích to lớn nhất!". Đấy không phải là
cách chữa khỏi đau răng hay các bệnh tật đại
loại như thế. Căn bệnh tâm linh mà Đức Phật nói
đến là một thứ bệnh mang lại những khổ đau thật
to lớn. Đấy là một căn bệnh đích thật, vì thế
phương thuốc giúp chữa khỏi căn bệnh ấy cũng
phải có một hiệu lực thích nghi và tương xứng.
Vào thời buổi của chúng ta ngày nay, con người luôn
đôn đáo tìm cho mình một lối thoát trong cuộc
sống, thế nhưng họ lại không ý thức được sự kiện
đó. Mỗi khi xảy ra một biến cố mang lại khổ đau
thì họ chỉ biết tìm đủ mọi cách để thay vào đấy
bằng một thể dạng đối nghịch mà thôi, tiếng
Pa-li gọi sự kiện ấy là tandangavimutti.
Thế nhưng nếu chúng ta biết cách kiểm soát tâm
thức mình thì nó cũng sẽ vượt thoát được cách
hành xử trên đây để trở thành trống không và
thoát khỏi bệnh tật, tiếng Pa-li gọi sự kiện này
là vikkhambanavimutti - có nghĩa là sự "giải
thoát bằng cách ngăn chận" (delivrance by
suppression) - đấy là cách mà chúng ta ngăn
chận các con vi khuẩn không cho chúng gây ra
bệnh tật, tức có nghĩa là chủ động được tâm thức
mình bằng một sự cảnh giác cao độ. Đấy cũng là
cách thiết thực và mang nhiều lợi điểm hơn so
với cách tùy cơ ứng biến và chỉ có tính cách tạm
thời (hối hả tìm cách thay thế khổ đau bằng
các thể dạng đối nghịch hay tandangavimutti).
Thế nhưng chúng ta cũng có thể đi xa hơn bằng cách
loại bỏ tận gốc rễ và hủy diệt hoàn toàn các con
vi khuẩn dứt khoát hơn, cách này gọi là
samucchedavimutti (release by cutting off / giải
thoát bằng cách triệt tiêu hay hủy diệt).
Đấy là cách giết chết các con vi khuẩn một cách
vĩnh viễn.
Thông thường, mỗi khi thay vào một thứ mà mình không
muốn bằng một thứ gì khác mang tính cách đối
nghịch thì mình cũng có thể sẽ cảm thấy một chút
hiệu quả nào đó, và nếu thật sự thành công thì
đấy cũng đã là một kết quả đáng kể. Thế nhưng
nếu muốn đi xa hơn thế nữa thì phải ngăn chận
(vikkhambanavimutti) hoặc hủy diệt hoàn toàn
(samucchedavimutti) các con vi khuẩn ở
một cấp bậc cao hơn. Thực hiện được như thế,
chúng ta sẽ không còn sống với sự thèm muốn,
ghét bỏ và sự quán thấy sai lầm cũng như tất cả
mọi thứ dục vọng khác. Chúng ta sẽ sống trong an
bình, yên ổn, hoàn toàn tỉnh giác, không còn khổ
đau và bấn loạn nữa, tương tự như sự tươi mát
của một đứa trẻ thơ. Đấy chính là cách chữa lành
căn bệnh tâm linh.
Trước khi chấm dứt tôi cũng xin tất cả quý vị với tư
cách là những người Phật Giáo hãy quan tâm đến
chủ đích của cuộc gặp gỡ giữa chúng ta hôm nay.
Nếu quý vị nghĩ rằng sự gặp gỡ này là một dịp để
phát động sự quyết tâm của mình để dấn thân trên
con đường của lòng nhân từ và sự thật, thì quý
vị cũng nên tạo ra cho mình một nếp sống phù hợp
với quyết tâm ấy, hãy từ bỏ những gì xấu xa và
kém lành mạnh để tìm lấy cho mình những gì tốt
đẹp, xứng đáng và toàn thiện hơn. Hãy kiên trì
và cố gắng, đừng buông tay. Hãy phát huy sự tu
tập của mình trên con đường đó nhằm mang lại lợi
ích cho mình và cho cả nhân loại. Nhờ đó quý vị
cũng có thể tự hào để nói lên rằng quý vị đã làm
những gì tốt đẹp nhất trong cuộc sống mà một con
người có thể làm được, và quý vị cũng tiếp nhận
được những gì tốt đẹp nhất mà một con người có
thể thừa hưởng được. Đấy nào có phải là một
chuyện xa vời đâu. Tất cả đều nằm trong tầm tay
của quý vị.
Tóm lại đấy cũng có nghĩa là chúng ta đã đạt đến chỗ
tột cùng những gì cần phải học hỏi, cần phải
thực hiện và cảm nhận được hiệu quả mang lại từ
những kinh nghiệm trực tiếp về những hành động
tu tập của chính mình. Đấy là một cuộc sống đã
hoàn toàn loại bỏ được dukkha, kể cả
trong lúc còn đang tu tập cũng như sau khi đã
đạt được kết quả. Trong khi luyện tập hằng ngày
- dù phải đảm trách thêm công ăn việc làm - thì
cũng sẽ không có dukkha. Nếu như công
việc làm ăn có mang lại cho chúng ta một ít kết
quả vật chất nào đó đi nữa - chẳng hạn như tiền
của, địa vị xã hội, tiếng tăm hay danh vọng -
thì cũng sẽ không có dukkha. Dukkha
sẽ không hề xảy ra trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Chúng ta trở thành những con người thượng thặng.
Tương tự như câu được một con cá mà không bị lưỡi
câu đâm vào tay (khi móc mồi) và ăn cá
không bị xương móc vào cuống họng. Câu được con
cá không gây ra khổ đau và ăn con cá cũng không
gây ra khổ đau (có thể một người tu tập theo
Phật Giáo Đại Thừa sẽ tìm một thí dụ khác hơn,
dù sao thì đây cũng là một thí dụ dễ hiểu dành
cho một cử tọa thế tục). Đơn giản chỉ có thế.
Tôi mong rằng quý vị đã nắm vững được khái niệm về
các thứ bệnh thân xác, tâm thần và tâm linh. Nếu
quý vị luôn ghi nhớ sự hiểu biết đó thì nó cũng
sẽ giúp quý vị chữa lành được mọi thứ bệnh tật.
Khi đã chữa khỏi được mọi thứ bệnh tật thì lúc
ấy quý vị cũng sẽ nhận thấy được ý nghĩa trong
câu sau đây rất đúng: "Sức khoẻ đích thật là gia
tài to lớn nhất" (xin nhắc lại câu trên đây
cũng là tiêu đề mà các đệ tử của Đức Phật đã sử
dụng để quảng bá Dhamma).
Phần II
Tánh Không là gì
Trong buổi nói chuyện trước đây tôi cũng đã nhắc đến
tánh không và cho biết đấy là một chủ đề thật
chủ yếu, thế nhưng tôi chưa kịp triển khai một
cách đầy đủ và tương xứng với tầm quan trọng của
nó. Thiết nghĩ chúng ta cần phải thấu triệt khái
niệm này một cách sâu sắc hơn. Nhiều khía cạnh
của chủ đề này quả thật là vẫn còn quá mù mờ, do
đó tôi sẽ dành trọn buổi nói chuyện hôm nay cho
đề tài này.
Nhập đề
Trong toàn bộ giáo huấn Phật Giáo thì tánh không là
một chủ đề khó thấu triệt nhất, bởi vì đấy chính
là phần cốt lõi. Cũng thật dễ hiểu, nếu đã là
cốt lõi của Phật Giáo thì nhất định đấy cũng sẽ
là một chủ đề thật tinh tế và sâu sắc. Các cách
phỏng đoán và suy nghĩ thông thường không thể
nào có thể giúp chúng ta hiểu được tánh không là
gì, mà chính chúng ta phải dày công nghiên cứu
một cách kiên trì và tường tận.
Chữ "nghiên cứu" trong trường hợp này phải hàm chứa
đầy đủ ý nghĩa của nó: tức là phải thường xuyên
quan sát và phân tích tất cả những gì hiện ra
trong tâm thức mình, dù đấy là một sự thích thú
hay khó chịu. Chỉ có những ai đã từng theo dõi
thật cẩn thận những diễn biến trong tâm thức
mình thì mới có thể hiểu được Dhamma (Đạo
Pháp) là gì. Những người chỉ biết nghiên cứu
bằng sách vở chẳng những sẽ không hiểu được tánh
không mà lại còn rất dễ bị sai lầm. Trái lại,
những ai biết quan sát tất cả những gì xảy ra
trong tâm thức mình và tự nhận định được những
điều nào là đúng trong chính tâm thức mình thì
mới không sợ bị lầm lẫn. Người này sẽ hiểu được
dukkha (khổ đau) là gì, sự chấm
dứt của dukkha là gì, và sau cùng sẽ hiểu
được Dhamma là gì. Sau đó khi đọc sách về
tánh không thì người ấy mới có thể hiểu được
đúng đắn chủ đề này.
Từ lúc bước vào cõi đời này cho đến khi lâm chung,
lúc nào chúng ta cũng phải luôn luyện tập theo
cách sau đây: phải quán xét sự tiếp xúc giữa tâm
thức mình với tất cả các sự vật chung quanh và
phải nhận biết được bản chất của các hậu quả
mang lại từ sự tiếp xúc đó. Trong quá trình của
sự vận hành tự nhiên ấy, nhất định sự thích thú
hay là đớn đau sẽ phải xảy ra, thế nhưng nếu
theo dõi và quán xét được nó thì việc này cũng
sẽ giúp cho tâm thức của chúng ta trở nên tỉnh
táo và mạnh mẽ hơn. Tiếp tục tìm hiểu bản chất
của tư duy như trên đây sẽ giúp giải thoát tâm
thức khỏi dukkha - đấy là một sự hiểu
biết lợi ích nhất trong số tất cả các sự hiểu
biết, và đấy cũng là cách giúp chúng ta dần dần
thực hiện được tánh không hay ý thức được nó là
gì.
Có lẽ quý vị vẫn còn nhớ là trong buổi thuyết trình
trước đây chúng ta cũng đã nói đến là có nhiều
người xem Đức Phật như một vị "Lương Y tâm thần",
và chúng ta cũng đã nói đến là có hai loại bệnh:
loại thứ nhất là các bệnh thuộc thân xác và tâm
thần, loại thứ hai là các bệnh thuộc lãnh vực
tâm linh. Bệnh tâm linh là một căn bệnh không
cho phép mình quán thấy được sự thật tối hậu của
mọi sự vật đúng thật với những gì là như thế. Do
đó bệnh ấy là một thứ bệnh liên quan đến vô minh,
hay là sự hiểu biết sai lầm, và nếu đã là một sự
hiểu biết sai lầm thì tất nhiên là nó sẽ đưa đến
những hành động sai lầm và từ đó phát sinh ra
khổ đau.
Vậy phải làm thế nào để có thể chữa lành được căn
bệnh tâm linh ấy? Phương thuốc giúp chữa khỏi
chính là tánh không. Hơn nữa tánh không chẳng
những là một phương thuốc mà còn là cả một sự
giải thoát có thể làm triệt tiêu tất cả mọi thứ
bệnh tật, bởi vì phía sau tánh không sẽ chẳng
còn lại gì cả.
Phương thuốc giúp chữa lành căn bệnh tâm linh chính
là sự hiểu biết và phép luyện tập giúp ý thức
được tánh không. Khi tánh không hiện ra, nó sẽ
chữa khỏi căn bệnh. Khi đã khỏi bệnh thì ngoài
tánh không ra sẽ chẳng còn lại bất cứ một thứ gì
khác, đấy là một thể dạng đã hoàn toàn loại bỏ
được khổ đau và mọi thứ u mê tâm thần, là nguyên
nhân gây ra mọi khổ đau. Tánh không ấy mang một
ý nghĩa vô cùng rộng lớn, tự nó hàm chứa những
phẩm tính như: không có gì có thể làm cho nó bị
thoái hóa, cũng không thể triển khai hay cải
thiện thêm cho nó, bất cứ một tác động nào cũng
đều vô hiệu. Đấy là một thể dạng vượt ra khỏi
thời gian, bởi vì nó không còn gánh chịu sự sinh
và cái chết nữa. Sự "hiện hữu" của nó hoàn toàn
khác hẳn với sự hiện hữu của các sự vật và cả
các chúng sinh được sinh ra và phải chết. Bởi vì
không có một thuật ngữ nào có thể diễn tả được
nó nên chúng ta cũng chỉ biết mượn đặc tính "không
hề biến đổi" của nó để gọi nó là "tánh không bất
biến" (vacuité immuable / immutable emptiness).
Nếu một người đã thực hiện được điều ấy - nói một
cách chính xác hơn là khi "tâm thức" của người
ấy đã thực hiện được tánh không một cách hoàn
hảo - thì nó sẽ trở thành phương thuốc giúp cho
người ấy chữa lành căn bệnh của mình. Sự chữa
trị đó sẽ có hiệu quả tức khắc, và đấy cũng là
một thể dạng vượt ra khỏi thời gian: một sức
khoẻ đích thật (có nghĩa là không còn chết
nữa).
Tôi mong quý vị luôn ghi nhớ đến cách định nghĩa ấy
của chữ "tánh không" - tiếng Pa-li gọi là
sunnatâ - để có thể theo dõi dễ dàng những
gì tôi sẽ trình bày chi tiết hơn dưới đây.
Tất
cả đều là tánh không
Trước hết chúng ta không nên quên là chính Đức Phật
đã từng nói rằng mỗi lời mà Ngài thốt lên đều
nhất thiết hướng vào chủ đề tánh không, Ngài
không hề đề cập đến bất cứ gì khác, dù là trực
tiếp hay gián tiếp. Bất cứ một lời giáo huấn nào
nếu không liên hệ gì với tánh không thì đấy
không phải là lời nói nguyên thủy do chính Ngài
thốt ra, và đấy cũng có thể là do các vị đệ tử
sau này của Ngài thêm vào, vì ham thích biện
luận dông dài, nên đã tìm cách phô trương sự
uyên bác của mình mà thôi.
Thật thế người ta có thể ghép thêm nhiều thứ vào
giáo huấn nguyên thủy - thí dụ như chữ "trống
không" ngày nay đã mang thêm nhiều cách ứng dụng
khác nhau (xin nhắc thêm là tánh không là một
khái niệm được hiểu khá khác biệt nhau giữa các
học phái. Cách hiểu của Theravada rất "thực tế"
và hướng thẳng vào tính cách vô ngã của một cá
thể, việc ứng dụng do đó cũng "trực tiếp", "thực
tế" và "giản dị" hơn). Mặc dù sự "trống
không" mang đặc tính bền vững và bất biến, thế
nhưng cách diễn đạt nó thì lại rất đa dạng. Nói
thế để hiểu rằng chúng ta sẽ chỉ khảo sát tánh
không trong vòng giới hạn của một số khía cạnh
sau đây:
- sự vắng mặt của dukkha (khổ đau)
- sự vắng mặt của những thứ u mê trong tâm thức
khiến tạo ra dukkha
- sự vắng mặt của cảm tính về "cái tôi" và cái "của
tôi"
Đấy là những gì biểu trưng cho thể dạng tánh không
mà chúng ta sẽ dựa vào đấy để tu tập.
Nếu chúng ta cố gắng tìm trong số các lời giảng huấn
của Đức Phật về chủ đề này để xem có những lời
giảng huấn nào dễ hiểu nhất và thường được Đức
Phật nói đến nhất thì chúng ta sẽ thấy rằng đấy
là những lời mà Ngài khuyên chúng ta hãy nhìn
vào thế giới này như là một sự trống không. Đấy
là câu: "Sunnato lokam avekkhassu magharasa sada
sato", có nghĩa là: "Hãy xem thế giới là trống
không, và nếu đủ khả năng để luôn ý thức được
tánh không của thế giới thì cái chết cũng sẽ
không còn nắm bắt được mình nữa".
Lời giảng trên đây khuyên chúng ta hãy nhìn vào thế
giới như là một sự trống không cũng chính là một
phép tu tập cao siêu nhất. Bất cứ ai muốn tự
giải thoát khỏi các khó khăn gây ra bởi
dukkha và cái chết thì nhất thiết phải nhìn
vào thế giới - có nghĩa là nhìn vào tất cả mọi
sự vật - đúng thật với nó, nếu nói cách khác thì
nó trống không về "cái tôi" và bất cứ gì thuộc
vào "cái tôi". Các câu tóm lược sau đây của Đức
Phật đã nói lên tất cả sự lợi ích của phép tu
tập ấy: "Nibbâna (niết-bàn) chính
là tánh không tối thượng" và "Nibbâna là
niềm phúc hạnh tối thượng nhất". Những gì vừa
trình bày cho thấy thật rõ ràng là nibbâna,
hay sự tắt nghỉ tuyệt đối của khổ đau, và "tánh
không tối thượng" có cùng một ý nghĩa như nhau.
Thế nhưng nếu đã gọi đấy là một thứ tánh không "tối
thượng" thì cũng có thể hình dung ra một thứ
tánh không khác, không mang tính cách tối thượng
và có thể xem như là một thứ tánh không còn
khiếm khuyết hay sai lầm. Khi nào khả năng nhận
biết được sự thật đã trở nên hoàn hảo và trong
sáng, không còn vướng mắc bất cứ một chút bóng
dáng nào của "cái tôi" và cái "của tôi", thì khi
đó nó mới có thể giúp hình dung ra được "tánh
không tối thượng" là gì. Cái "tánh không tối
thượng" đó chính là nibbâna bởi vì nó có
khả năng dập tắt được ngọn lửa đang thiêu đốt
chúng ta và làm cho cơn lốc của những hiện tượng
vô thường phải lắng xuống. Vì thế "tánh không
tối thượng" và sự "tắt nghỉ tối hậu của
dukkha" cũng chỉ là một thứ.
Khi phát biểu rằng nibbâna là niềm phúc hạnh
tối thượng, thì đấy cũng chỉ là một cách nói
thuộc lãnh vực của sự thật tương đối. Thật ra
thì đấy cũng chỉ là một cách phát biểu nhằm
khuyến khích mọi người nên nghĩ đến việc tu tập,
chẳng qua cũng là vì đối với những người bình dị
thì suốt đời họ chỉ biết nuôi mộng tìm được hạnh
phúc thế thôi. Do đó khi bảo rằng niết-bàn
là hạnh phúc thì đấy chỉ là cách nói nhằm
đáp ứng sự ước mong trong lòng họ mà thôi, và
tất nhiên đấy cũng chỉ là một cách nói mang tính
cách thiết thực, bởi vì dù có giải thích và
khẳng định với họ đấy là một thứ hạnh phúc tối
thượng đi nữa thì trên thực tế niết-bàn
vẫn to lớn hơn và vượt cao hơn thể dạng hạnh
phúc mà họ có thể hình dung ra được. Bởi vì cái
hạnh phúc ấy của niết-bàn chính thực là tánh
không. Dù sao đi nữa thì người ta cũng không thể
nào bảo đấy là hạnh phúc hay là khổ đau được,
bởi vì nó vượt xa hơn khổ đau và cả những thứ
hạnh phúc thường tình. Thế nhưng nếu cứ giải
thích loanh quanh như thế thì mọi người sẽ chẳng
hiểu gì cả, vì thế nên không thể nào làm gì khác
hơn là bắt buộc phải sử dụng cách nói thông
thường và dễ hiểu để gọi nibbâna là "phúc
hạnh tối thượng". Do đó tôi cũng xin lưu ý quý
vị là mỗi khi tôi nói đến chữ "phúc hạnh" thì
nên hiểu rằng chữ ấy không mang ý nghĩa mà mọi
người thường hiểu. Đấy là một thể dạng trống
không về tất cả những thứ được sinh ra và lan
tràn trong tâm thức (các tư duy và xúc cảm
trong tâm thức) và tất cả những hiện tượng
vô thường (thế giới hiện tượng bên ngoài),
bởi vì khi nào vẫn còn sự biến động (của đủ
mọi thứ tư duy và xúc cảm trong nội tâm và của
mọi hiện tượng chi phối và trói buộc một cá thể
từ bối cảnh bên ngoài) thì khi ấy sẽ không
thể nào tìm được hạnh phúc đích thật được. Cái
thể dạng phúc hạnh của sự trống không thật tuyệt
vời, tươi mát và xứng đáng để chúng ta mong cầu.
Trước hết phải hiểu rằng các sự cảm nhận thích thú
hiện ra khi xảy ra sự tiếp xúc giữa các cơ quan
giác cảm với các đối tượng từ bên ngoài, đều là
ảo giác, đấy không phải là niềm phúc hạnh tối
thượng. Niềm phúc hạnh của những người bình
thường không phải là niềm phúc hạnh tối thượng
của nibbâna, bởi vì niềm phúc hạnh này
chỉ là tánh không. Vì thế mỗi khi quý vị nghe
nói đến: "Nibbâna là phúc hạnh tối thượng"
thì không được vội vã xem nibbâna đúng
với những gì mà quý vị hằng mong cầu, để rồi cứ
nhìn vào đấy để mà ước mơ và để quên bẵng đi là
nibbâna đồng thời cũng còn có nghĩa là
tánh không tối thượng.
Không được bám víu vào bất cứ gì cả
Giáo huấn của Đức Phật liên quan đến việc tu tập về
tánh không chính là cốt lõi của toàn bộ giáo
huấn Phật Giáo: "Không được bám víu vào bất cứ
một thứ dhamma nào cả" (xin chú ý chữ
dhamma - số nhiều và viết không hoa - có nghĩa
là các hiện tượng hiện ra trong sự hiện hữu của
mình hay nói chung là tất cả các hiện tượng vô
hình hay hữu hình thuộc vào thế giới và cả trong
tâm thức của chính mình, và chữ Dhamma - số ít
và viết hoa - thì có nghĩa là Đạo Pháp). Nếu
suy rộng ra thì câu trên đây cũng có nghĩa là:
Dù bất cứ ai thì cũng không được nắm bắt và bám
víu vào bất cứ thứ gì để xem đấy là "cái tôi"
hay là cái "của tôi". Các chữ "dù bất cứ ai" có
nghĩa là "tất cả mọi người" không ngoại trừ một
người nào cả. Các chữ "nắm bắt và bám víu" thì
có nghĩa là những gì sẽ làm phát sinh ra cảm
tính về "cái tôi". Các chữ "xem là cái tôi" có
nghĩa là cảm thấy mình là một cá thể vững chắc,
trường tồn, hay hàm chứa một linh hồn. Các chữ "như
là cái của tôi" thì có nghĩa là chiếm hữu một
hiện tượng liên hệ đến cảm tính của một "cái tôi".
Câu trên đây là cách mà Đức Phật khuyên bảo
chúng ta tuyệt đối không được phát động bất cứ
một cảm tính nào về "cái tôi" và cái "của tôi"
bằng cách liên kết nó với bất cứ một thứ gì khác
(tức có nghĩa là không được xem một thứ gì đó
- kể cả thân xác mình - là "tôi", hay là một thứ
gì đó thuộc sở hữu "của tôi"), dù đấy chỉ là
một hạt bụi hay là một viên ngọc quý, hay đơn
giản chỉ là một đối tượng của sự thèm muốn giác
cảm, kể cả sự viên mãn tức là thể dạng cao nhất
trong việc tu tập tâm linh. Không có bất cứ gì,
nên nhớ là tuyệt đối không có bất cứ một thứ gì,
có thể làm đối tượng cho sự bám víu, tức là để
nắm bắt lấy chúng và để xem đấy là "cái tôi" hay
cái "của tôi". Đấy cũng chính là cốt lõi của
giáo huấn Phật Giáo. Đức Phật cũng từng khẳng
định về điều đó.
Đức Phật bảo rằng khi nào được nghe câu nói ấy - tức
"Không được bám víu vào bất cứ một dhamma
nào" - thì cũng có nghĩa là được nghe tất cả
giáo huấn; mang câu nói ấy ra để luyện tập có
nghĩa là hoàn tất được tất cả mọi sự tu tập;
tiếp nhận được kết quả từ sự tu tập đó có nghĩa
là tiếp nhận được tất cả quả mang lại từ toàn bộ
giáo huấn. Tóm lại quý vị chớ nên lo sợ khi thấy
có quá nhiều thứ để học hỏi. Đức Phật có nói
rằng dù sự hiểu biết của Ngài nhiều như lá trong
rừng thế nhưng những gì Ngài thuyết giảng nhằm
giúp cho chúng ta tìm thấy nibbâna thì
cũng chỉ như một nắm lá trong tay. "Nắm giáo lý"
ấy trong bàn tay của Ngài biểu trưng cho nguyên
tắc: không được nắm bắt hay bám víu vào bất cứ
gì và xem đấy là "cái tôi" hay cái "của tôi".
Khi nào được nghe lời thuyết giảng ấy thì cũng có
nghĩa là được nghe toàn bộ giáo huấn, bởi vì
riêng nó đã hàm chứa và bao gồm tất cả các chủ
đề. Và cũng không hề có bất cứ một chủ đề nào mà
Đức Phật đã nêu lên lại không đề cập đến khổ đau
và phương cách giúp loại bỏ khổ đau. Sự nắm bắt
và bám víu là hai nguyên nhân mang lại khổ đau.
Bất cứ nơi nào có sự nắm bắt và bám víu thì tất
nơi đó sẽ phải có khổ đau. Tu tập là cách chận
đứng hoàn toàn và vĩnh viễn không cho sự nắm bắt
và bám víu có thể xảy ra nhằm giúp cho tâm thức
lúc nào cũng trống không. Vỏn vẹn và đơn giản
đấy là những gì cần phải làm. Tất cả cũng chỉ có
thế.
"Phép tu tập ấy bao hàm toàn bộ tất cả các phép tu
tập khác". Vậy quý vị cũng nên thử suy nghĩ xem
còn có gì khác cần phải tu tập thêm hay không.
Nếu một người nào đó, dù đấy là bất cứ ai, nếu
tâm thức họ đã loại bỏ được mọi sự nắm bắt và
bám víu, thì điều gì sẽ xảy ra trong tâm thức
của người ấy? Quý vị thử suy nghĩ thật kỹ xem!
Để có thể hình dung những gì sẽ xảy ra thì chúng
ta có thể căn cứ vào sự diễn tiến tuần tự theo
từng giai đoạn một: khởi đầu là quy y Tam Bảo,
giữ gìn giới luật và thiền định nhằm phát huy sự
chú tâm và trí tuệ, sau đó là thực hiện được Con
Đường, tiếp nhận được quả của Con Đường và cuối
cùng là niết-bàn. Vào giai đoạn cuối cùng
tức là niết-bàn khi tâm thức đã loại bỏ
được tất cả mọi thứ u mê (vô minh) và
dukkha (khổ đau), thì nhờ đó sẽ đạt
được thể dạng của Phật, của Dhamma (Đạo Pháp)
và của Tăng Đoàn và trở thành "một" với toàn bộ
Tam Bảo. Việc ấy có thể thực hiện được mà không
cần phải cầu khẩn hay tụng niệm gì cả. Những thứ
này chỉ là các hình thức lễ bái hay các nghi
thức lễ lạc thuộc vào giai đoạn khởi đầu. Những
hình thức ấy chỉ là những gì phụ thuộc bên ngoài,
không giúp được mình hòa nhập sâu xa với Đức
Phật, với Dhamma và Tăng Đoàn, tức là
những gì thuộc vào nội tâm. Trong khi đó đối với
một người có một tâm thức trống không về sự nắm
bắt và bám víu vào "cái tôi" và cái "của tôi",
dù là chỉ giữ được trong một khoảnh khắc ngắn,
thì cũng có thể xem tâm thức của người ấy đã
thực hiện được tánh không vào đúng những khoảnh
khắc ấy. Tâm thức đó sẽ rất tinh khiết, rạng
ngời và an bình, và sẽ hòa nhập để trở thành một
với Đức Phật, Dhamma và Tăng Đoàn. Tóm
lại, mỗi khi tâm thức mình thực hiện được thể
dạng giải thoát đó, thì sự nương tựa của mình
nơi Tam Bảo mới trở thành đích thật được.
Bố thí là một hành động buông xả và cũng là một
cách để buông bỏ chính mình
Đến đây chúng ta hãy cùng bàn thảo về sự hào phóng
(dâna / bố thí). Ý nghĩa hàm chứa trong
hành động bố thí và hiến dâng chính là sự buông
xả, không nắm bắt và cũng không bám víu vào "cái
tôi" và cái "của tôi" nữa. Một người bố thí mà
còn nghĩ đến một sự hồi đáp to lớn hơn - thí dụ
như bố thí để mong cầu đạt được một lâu đài trên
thiên đường - thì đấy không phải là một sự bố
thí mà chỉ là một sự mua bán. Đã bố thí thì
không được chờ đợi bất cứ một sự hồi đáp nào:
đấy là cách buông bỏ những thứ mà mình bám víu
để xem đấy là "cái tôi" hay cái "của tôi". Khi
tâm thức của một người nào đó không còn vướng
mắc vào cảm tính về một "cái tôi" hay cái "của
tôi" nữa thì hành động bố thí của người ấy mới
có thể mang tính cách tối thượng được, bởi vì
khi đã buông bỏ ngay cả "cái tôi" của chính mình
thì nào có còn lại gì nữa đâu để cho mình bố thí?
Khi cảm tính của "cái tôi" bắt đầu tan biến thì
cảm tính về cái "của tôi" (của cải vật chất
và những bám víu tâm thần) cũng sẽ tan biến
theo. Vì thế, chỉ trong những lúc mà mình đã đạt
được một tâm thức thật sự trống không về cái ngã,
tức có nghĩa là trong lúc đã buông bỏ được cái
ngã của chính mình, thì mình mới có thể thực
hiện được một sự bố thí đúng nghĩa của nó.
Đạo đức đích thật hoàn toàn trống không
Đến đây chúng ta cũng nên tìm hiểu thế nào là một
thái độ hành xử đạo đức (sila). Nếu một
người có một tâm thức trống không, thoát khỏi
mọi sự nắm bắt và bám víu vào "cái tôi" và các
sự vật để xem đấy là cái "của tôi" thì những
hành động, ngôn từ của người ấy mới có thể xem
là đích thật và hoàn toàn đạo đức được. Tất cả
các hình thức khác của đạo đức chỉ toàn là trò
hề. Chúng ta quyết tâm nguyện không vi phạm vào
việc này hay việc nọ (khi quy y chẳng hạn),
thế nhưng chúng ta cũng cứ vi phạm, thì đấy
chẳng phải là một trò hề hay sao? Chẳng qua đấy
là vì ngay từ lúc đầu chúng ta đã không biết
phải làm thế nào để dứt bỏ được "cái tôi" và cái
"của tôi". Vì không thoát khỏi "cái tôi" và cái
"của tôi" nên chúng ta không thể nào hành xử một
cách thật sự đạo đức được. Giả sử có loại bỏ
được "cái tôi" đi nữa thì cũng chỉ tạm thời mà
thôi. Đấy không phải là ariyakantasila
tức là cách hành xử đạo đức của các vị Thánh
Nhân, mà đúng hơn chỉ là một thứ luân lý thường
tình, khi trồi khi sụt và không thể nào trở
thành siêu nhiên được. Trái lại trong trường hợp
giữ được tâm thức trống không, dù chỉ giữ được
trong chốc lát hoặc suốt một ngày hay một đêm,
thì đấy cũng đã là một điều đáng kể, bởi vì
trong những lúc ấy các hành động đạo đức của
mình sẽ mang tính cách đích thật.
Tánh không chính là thể dạng samadhi đích thật
Theo phép luyện tập thiền định về sự tĩnh lặng hay
sự tập trung gọi là samadhi thì một tâm thức
trống không sẽ là samadhi tối thượng, tức
là một thể dạng tập trung bền vững và thăng bằng
nhất mà tâm thức có thể thực hiện được. Nếu
thiền định mà còn phải cố gắng và phấn đấu thì
việc thiền định ấy chưa phải là thiền định, đấy
cũng chẳng khác gì tập trung tâm thức nhằm vào
mục đích đạt được một thứ gì đó, dù cho đấy là
thể dạng không bám víu vào năm thứ cấu hợp là
khandha (ngũ uẩn) cũng vậy. Phải hiểu
rằng có hai thứ thiền định: đúng và không đúng.
Chỉ khi nào tâm thức thực hiện được sự trống
không về sự nắm bắt và bám víu vào "cái tôi" và
cái "của tôi" thì mới có thể đạt được thể dạng
hoàn toàn thăng bằng và đích thật của một sự tập
trung đúng. Bất cứ ai có tâm thức trống không
thì cũng sẽ có được một sự tập trung đúng đắn.
Trí tuệ tối thượng là tánh không
Đến đây chúng ta hãy tìm hiểu về trí tuệ (pannâ).
Nên hiểu rằng sự hiểu biết, hay thực hiện được
tánh không, hay trở thành tánh không thì tất cả
cũng đều có nghĩa là trí tuệ tối thượng, bởi vì
đúng vào lúc khi tâm thức đạt được sự trống
không thì nó cũng trở nên vô cùng tinh tế và bén
nhạy. Trái lại khi vô minh và sự hiểu biết sai
lầm về mọi sự vật thâm nhập vào tâm thức và bao
phủ lấy nó thì nhất định chúng sẽ làm phát sinh
ra sự nắm bắt và bám víu vào "cái tôi" và cái "của
tôi", và đấy chính là thể dạng tệ hại nhất của
sự đần độn. Nếu quý vị suy nghĩ và nhìn lại mình
thì quý vị cũng có thể nhận thấy một cách dễ
dàng và minh bạch rằng mỗi khi thể dạng đần độn
đó thoát ra khỏi tâm thức thì tâm thức tự nó
cũng sẽ trở nên hết ngu đần (nhiều lúc chúng
ta cảm thấy mình quá dại dột, làm những chuyện
thật ngu xuẩn không nên làm. Sự hối hận đó cho
thấy rằng có những lúc tâm thức cũng loại bỏ
được thể dạng đần độn, thế nhưng đấy chỉ có tính
cách tạm thời vì sự đần độn cũng sẽ xâm chiếm
trở lại tâm thức mình khi "cái tôi" và cái "của
tôi" phát lộ trở lại và xô mình vào bóng tối của
sự hoang mang và u mê). Khi tâm thức đã loại
bỏ được sự ngu đần để trở nên trống không về "cái
tôi" và cái "của tôi" thì nó sẽ đạt được sự hiểu
biết hoàn hảo hay là trí tuệ. Chính vì thế mà
các vị hiền nhân thường bảo rằng tánh không và
trí tuệ - tức là khả năng chú tâm đúng (chánh
định) giúp nhận biết được một cách minh bạch
bản thể đích thật của mọi sự vật - cũng chỉ là
một. Tuy nhiên không phải chỉ vì chúng giống
nhau mà gọi đấy là một thứ duy nhất. Trí tuệ
đích thật và hoàn hảo là tánh không, trong cái
tánh không ấy không hề có sự bám víu dại dột nào
vào các thứ ảo giác. Một tâm thức khi loại bỏ
được vô minh thì sẽ tìm thấy thể dạng nguyên
sinh của nó, đấy là thể dạng tâm thức nguyên
thủy và đích thật, và chính cái thể dạng ấy mới
gọi là trí tuệ, có nghĩa là nó có khả năng nhận
biết được sự thật của mọi sự vật đúng như thế
(tâm thức trống không tức là trí tuệ và đấy cũng
chính là thể dạng nguyên sinh của nó - tức chưa
bị ô nhiễm bởi cảm tính của cái tôi và cái của
tôi).
Chữ "tâm thức" trình bày trên đây mang một ý nghĩa
thật cá biệt, không nên nhầm lẫn nó với 89 hay
129 loại "tâm thức" liệt kê trong A-tì-đạt-ma
luận (Abhidhamma). Chúng ta gọi "tâm thức đích
thật và nguyên thủy" là một thứ tâm thức đã trở
thành một với trí tuệ. Đấy là một tâm thức trống
không về sự nắm bắt và bám víu vào "cái tôi" và
cái "của tôi", và người ta sẽ không còn có thể
gọi thể dạng ấy là "tâm thức" nữa, mà phải gọi
đấy là "tánh không". Thế nhưng bởi vì "tánh
không" ấy vẫn còn hàm chứa khả năng hiểu biết vì
thế nên chúng ta đành phải tạm gọi nó là "tâm
thức" thế thôi. Mỗi học phái gán cho nó một tên
gọi khác nhau (Phật tính, bản thể của Phật,
thực tại, hiện thực, tâm thức nguyên thủy hay
nguyên sinh...), và đối với chúng ta thì
cũng chỉ biết cho rằng bản thể đích thật của tâm
thức chính là trí tuệ, tức là sự chú tâm giúp
nhận biết được sự thật, không hàm chứa một sự
nắm bắt hay bám víu nào. Tóm lại là trí tuệ hoàn
hảo luôn nằm bên trong tánh không.
Con Đường, Quả của Con Đường và Niết-bàn đều là
Tánh Không
Đến đây chúng ta sẽ đề cập đến việc thực hiện được
Con Đường, Quả của Con Đường, và Nibbanâ (Niết-bàn).
Đấy là các cấp bậc thăng tiến tuần tự của tánh
không để đạt đến cấp bậc cao nhất của nó là
nibbanâ hay còn gọi là tánh không tối
thượng (paramasunnata hay paramam sunnam).
Do đó quý vị cũng có thể nhận thấy rằng bắt đầu
từ lúc khởi sự quy y, bố thí, tuân thủ giới luật,
thiền định cho đến khi đạt được trí tuệ thì
tuyệt nhiên chẳng có một thứ gì khác ngoài tánh
không, tức là thể dạng không-bám-víu vào cái ngã.
Sự thực hiện Con Đường, Quả mang lại từ sự thực
hiện ấy và cả nibbanâ tất cả cũng chỉ là
tánh không, điểm khác biệt duy nhất là
nibbanâ thuộc vào cấp bậc tối thượng thế
thôi.
Do đó khi Đức Phật nói rằng nếu nghe được giáo huấn
đó thì cũng có nghĩa là nghe được toàn bộ giáo
huấn; thực hiện được giáo huấn đó có nghĩa là
hoàn tất được tất cả sự tu tập; tiếp nhận được
quả của sự tu tập đó có nghĩa là tiếp nhận được
tất cả các kết quả. Ý nghĩa ấy của chữ "tánh
không" mang một tầm quan trọng thật lớn, quý vị
nên ghi nhớ điều này.
Tất cả đều là dhamma
Đến đây chúng ta sẽ tìm hiểu xem tại sao tất cả mọi
hiện tượng đều được gọi là "dhamma".
Trước khi nói lên chữ này thì quý vị cũng phải
hiểu thật tường tận đấy là gì. Chữ dhamma
có nghĩa là tất cả những gì hiện hữu. Khi Đức
Phật nói đến "tất cả dhamma" thì đấy có
nghĩa là tất cả mọi hiện tượng, không có một
ngoại lệ nào cả, dù chúng thuộc lãnh vực vật
chất, tinh thần hay tâm linh. Nếu như có một thứ
gì nằm ra bên ngoài cả ba thể loại ấy thì nó
cũng vẫn thuộc vào cách định nghĩa của thuật ngữ
"tất cả dhamma". Tôi mong rằng quý vị có
thể nắm vững được cách định nghĩa này: là mọi "thế
giới" của những vật thể vật chất, có nghĩa là
bao gồm tất cả các "lãnh vực" của những vật thể
vật chất, tất cả đều là dhamma. Một tâm
thức ý thức được tất cả các thế giới ấy thì tự
nó cũng là một dhamma. Nếu tâm thức và
thế giới tiếp xúc với nhau thì sự tiếp xúc đó
cũng là một dhamma. Nếu sự tiếp xúc đó
làm phát sinh ra các hậu quả chẳng hạn như tình
thương yêu, hận thù, ghét bỏ, sợ hãi, kể cả trí
tuệ và sự quán thấy trong sáng về mọi sự vật
đúng là như thế..., thì tất cả các hình thức
phản ứng ấy cũng đều là các dhamma. Dù
cho chúng đúng hay sai, tốt hay xấu, thì tất cả
cũng đều là dhamma. Nếu trí tuệ làm phát
sinh ra những thứ hiểu biết khác nhau trong nội
tâm thì những thứ ấy cũng gọi là dhamma.
Nếu các thứ hiểu biết ấy đưa đến việc giữ giới,
thiền định, hay trí tuệ (tu giới, tu định và
tu tuệ) hay bất cứ một phép tu tập nào, thì
việc tu tập ấy cũng là một dhamma. Đối
với các kết quả mang lại sự tu tập ấy - dù được
biểu trưng bằng các thuật ngữ như "sự thực hiện
được Con Đường (sự giác ngộ), quả mang
lại từ Con Đường (sự giải thoát) hay là
nibbanâ (niết-bàn)" - thì tất cả cũng là
các dhamma.
Tóm lại là tất cả những thứ ấy đều là dhamma.
Thuật ngữ này bao hàm tất cả, gồm từ thế giới
của các vật thể vật chất cho đến các kết quả
mang lại từ sự tu tập Dhamma (Đạo Pháp),
sự thực hiện được Con Đường, quả mang lại từ Con
Đường. Như đã nói đến trên đây, nếu nhìn thấy
được mỗi sự vật ấy một cách thật minh bạch thì
cũng có nghĩa là nhìn thấy "tất cả các sự vật"
và cũng sẽ hiểu được rằng đối với bất cứ gì dù
là do chính Đức Phật giảng dạy thì cũng không
được nắm bắt hay xem đấy là các đối tượng của sự
bám víu. Cái thân xác này không phải là một đối
tượng để nắm bắt hay bám víu, đối với tâm thức
thì lại càng không nên nắm bắt và bám víu bởi vì
đấy là một thứ ảo giác khác to lớn hơn nhiều. Vì
thế Đức Phật cũng đã từng nói, nếu nhất định cứ
một mực khăng khăng bám víu vào một thứ gì đó để
xem đấy là "cái tôi" thì tốt hơn nên bám víu vào
thân xác bởi vì nó biến đổi chậm chạp hơn, và nó
cũng không lừa phỉnh mình tệ hại như tâm thức
(nếu xem thân xác là "cái tôi" thì có thể mình
sẽ lo trau chuốt nó, tô điểm phấn son cho nó,
xức nước hoa cho nó, tập thể dục cho lồng ngực
nở nang cân đối, đeo đồng hồ đắt tiền, trang sức
lấp lánh, sửa sang "sắc đẹp", "cắt bớt" chỗ này,
"độn thêm" chỗ kia... Tất cả các thứ ấy không
đến đỗi nguy hiểm như khi xem tâm thức là "cái
tôi", bởi vì khi đã xem nó là "cái tôi" thì sự
ích kỷ sẽ bùng lên, hận thù phát sinh, tự ái dày
vò, tham lam xúi dục, trong lòng nuôi nấng đủ
mọi thứ hy vọng, ước mơ, mưu mô, tiếc nuối, yêu
thương, ghét bỏ... khiến làm phát sinh ra đủ mọi
thứ xúc cảm bấn loạn và điên rồ, cũng như mọi
thứ ảo giác và tưởng tượng bệnh hoạn, đưa đến
những hành động hung bạo, phá phách, tự tử, sát
sinh..., hoặc dưới một thể dạng rộng lớn hơn tức
là chiến tranh khi cho rằng đây là gian nhà "của
tôi", đất nước "của tôi", tôn giáo "của tôi", sự
tự do "của tôi"...).
Chữ "tâm thức" trong trường hợp trên đây không mang
cùng một ý nghĩa với chữ "tâm thức" khi được
dùng để chỉ định "tâm thức" là một với "tánh
không" (tâm thức chỉ có thể trở thành một với
tánh không khi nào nó đã tìm thấy trí tuệ hay là
thể dạng nguyên sinh của nó). Chữ "tâm thức"
trên chỉ có nghĩa là "tâm thần", tức là "tâm
thức" hiểu theo cách thông thường. Sự tiếp xúc
giữa thể dạng tâm thức ấy và thế giới sẽ làm
phát sinh ra mọi thứ cảm tính như yêu thương,
hận thù, giận dữ, v.v.... Đấy là các thể loại
dhamma càng không nên bám víu hơn so với các
thứ dhamma thuộc thân xác, bởi vì chúng
là những thứ ảo giác phát sinh từ sự mù quáng
của một tâm thức u mê (các cảm tính hay ảo
giác ấy luôn biến động khó theo dõi để có thể
chủ động được chúng. Chúng không hiện ra lù lù
như thân xác). Nắm bắt và bám víu vào những
thứ ấy thật vô cùng nguy hiểm.
Đức Phật có nói rằng ngay cả sự chú tâm giúp quán
thấy được sự thật của mọi sự vật cũng không được
xem là căn nguyên của sự nắm bắt và bám víu, bởi
vì đấy cũng chỉ là một thành phần của thiên
nhiên. Bám víu vào đấy cũng chỉ là cách tạo ra
thêm những ý nghĩ sai lầm: người ta có thể sẽ
tưởng tượng ra một con người nào đó có thể đạt
được một khả năng trí tuệ như thế, và để tin
rằng đấy là cái trí tuệ "của tôi". Sự bám víu sẽ
làm cho tâm thức trở nên nặng nề và chao đảo
dưới sự chi phối của mọi biến động xảy ra, và từ
đó sẽ sinh ra dukkha (khổ đau).
Chỉ nên đơn giản xem sự hiểu biết là sự hiểu
biết. Nếu dại dột bám víu vào đấy để xem là cái
"của tôi", thì nó sẽ lôi kéo theo nhiều thứ bám
víu khác, chẳng hạn như các thứ "nghi thức lễ
bái và các hình thức lễ lạc", khiến cho chúng ta
càng thêm khổ sở mà cũng chẳng biết là tại sao
(đoạn này khá khúc triết và cô đọng, do đó
xin mạn phép được giải thích thêm với tất cả sự
dè dặt. Bám víu vào sự hiểu biết và xem đấy là "cái
tôi" sẽ đưa đến sự kiêu ngạo và đấy cũng là
chướng ngại "thứ ba" trong số "mười thứ chướng
ngại" (entraves, empêchements / obstacles) buộc
chặt con người vào vòng sinh tử. Khái niệm về "mười
thứ chướng ngại" gọi là samyojana (tiếng Phạn và
Pa-li), kinh sách tiếng Việt gốc Hán ngữ gọi là
"Thập Sử" hay "Thập Đại" hay "Thập Căn Phiền Não".
Trên đường tu tập nếu bám víu vào sự hiểu biết
của mình - phiền não thứ ba trong số mười thứ
phiền não - thì có thể sẽ bày ra mọi thứ hình
thức nghi lễ trói buộc, khiến cho mình thêm khổ
sở chăng ?).
Tu tập Dhamma cũng thế: chỉ cần biết đơn giản
tu tập thế thôi. Kết quả tự nó sẽ tương xứng
với mức độ tu tập của mình - đấy cũng chỉ là một
sự thật của thiên nhiên. Nếu nắm bắt và bám víu
vào sự tu tập ấy để xem là "cái tôi" hay cái "của
tôi" thì lại càng dễ khiến mình rơi vào sự sai
lầm nặng nề hơn, tức là tạo ra thêm cho mình một
"cái tôi" hoàn toàn vô căn cứ, và do đó sẽ mang
lại khổ đau không kém gì như khi bám víu vào
những thứ thật thô thiển khác như sự thèm khát
tính dục chẳng hạn.
Đối với việc thực hiện được Con Đường, tiếp nhận được quả
của Con Đường và niết-bàn, thì tất cả
cũng chỉ là dhamma, là thành phần của
thiên nhiên. Chúng là như thế thì cứ xem chúng
là như thế. Ngay cả tánh không cũng chỉ là thành
phần của thiên nhiên. Nếu nắm bắt nó và bám víu
vào nó, thì đấy sẽ là một thứ nibbanâ
không đích thật, một thứ tánh không sai lầm, bởi
vì đối với nibbanâ đích thật tức tánh
không đích thật thì không thể nào nắm bắt được
nó. Chính vì thế nên mỗi khi nắm bắt nibbanâ
hay tánh không và xem đấy như là "cái tôi"
hay cái "của tôi" thì tức khắc và đồng thời cũng
sẽ tự tách rời mình ra khỏi những thứ ấy.
Tất cả những gì trình bày trên đây cho thấy tuyệt đối
không có bất cứ gì khác hơn là dhamma.
Thuật ngữ dhamma đồng nghĩa với chữ "thiên
nhiên". Cách giải thích này khá phù hợp với
nghĩa từ chương của chữ dhamma, bởi vì ý
nghĩa nguyên thủy của chữ này là "một sự vật có
thể tự duy trì lấy nó ". Các dhamma được
phân chia thành hai thể loại khác nhau: một thể
loại luôn chuyển động và một thể loại thì không.
Thể loại gồm các dhamma thường xuyên
chuyển động hàm chứa một động lực thúc đẩy chúng
nhằm để duy trì chúng trong chính sự chuyển động
đó của chúng, nói cách khác thì chính chúng là
dòng chảy của sự đổi thay (vô thường).
Thể loại gồm các dhamma không chuyển động
thì không hàm chứa các yếu tố gây ra sự chuyển
động đó, đấy là nibbanâ hay là tánh không.
Tóm lại, có hai thể loại dhamma : một thể loại gồm
các sự vật luôn chuyển động và một thể loại thì
không, cả hai đều đơn giản chỉ là dhamma,
tức là các sự vật tự duy trì được trong một thể
dạng nào đó (tự duy trì được trong thể dạng
biến động hay tự duy trì được trong thể dạng
không biến động - chẳng hạn như tánh không).
Tất cả đều là thiên nhiên (hay tự nhiên),
đơn giản chỉ là các thành phần của thiên nhiên.
Do đó nếu đấy chỉ đơn giản là các dhamma
(thành phần của thiên nhiên lôi kéo trong một
sự vận hành tự nhiên) thì làm thế nào mà
chúng có thể trở thành "cái tôi" hay là cái "của
tôi" được? Trong bối cảnh đó dhamma cũng
sẽ chỉ có nghĩa là "thiên nhiên", đương nhiên là
như thế. Người ta cũng có thể gọi dhamma
là tathatâ (có nghĩa là như thế /
ainsité / suchness, và chính Đức Phật cũng tự
gọi mình là "Như Lai" tức có nghĩa là "Như Thế"):
dhamma là như thế thì cứ là như thế,
không thể khác hơn được. Chỉ toàn là dhamma.
"Tất cả mọi thứ" đều có nghĩa là dhamma:
không có một thứ dhamma nào lại không hàm
chứa trong "tất cả mọi sự vật".
Trái lại Dhamma đích thật (tức là Đạo Pháp,
viết chữ hoa và thuộc số ít) thì dù thuộc
vào lãnh vực nào, cấp bậc nào hay thể loại nào
thì cũng đều nhất thiết là tánh không, hoàn toàn
trống không về "cái ngã" (Đạo Pháp là vô ngã).
Tóm lại chúng ta phải nhìn thấy tánh không hàm
chứa trong tất cả mọi sự vật, hoặc nói một cách
đơn giản hơn là trong tất cả các dhamma
(xin ghi chú thêm là khi Buddhadasa nêu lên
quan điểm về tánh không nơi tất cả mọi hiện
tượng như trên đây thì một cách gián tiếp ông đã
đến gần với "cách hiểu" của Đại Thừa về khái
niệm này). Theo phép suy luận lô-gic (dựa
vào sự hợp lý) thì chúng ta sẽ có các phương
trình như sau:
Tất cả mọi sự vật = đều là dhamma
Tất cả mọi sự vật = đều là tánh không
Các dhamma = đều là tánh không
(trên đây là ba vế của tam đoạn luận - syllogism
-: tất cả mọi người đều chết, Aristoteles là
người, Aristoteles cũng sẽ chết)
Người ta có thể trình bày khái niệm trên đây bằng nhiều
cách khác nhau (nhiều cách giải thích khác
nhau về tánh không) thế nhưng điều thật sự
quan trọng và cần phải hiểu thì cũng không có gì
khác hơn là chính bản chất của sự trống không.
Chúng ta không được bám víu vào bất cứ thứ gì để
xem đấy là "cái tôi" và cái "của tôi". Đấy là
cách giúp chúng ta nhận thấy một cách minh bạch
tánh không là bản chất của tất cả mọi sự vật.
Chỉ khi nào loại bỏ được tất cả mọi thứ tư duy
sai lầm (cho rằng có "cái tôi" và cái "của
tôi") thì khi đó chúng ta mới có thể nhận
thấy được cái bản chất ấy. Nếu muốn quán thấy
được tánh không thì cần phải có pannâ
(hay nana, jnana, tức là trí tuệ hay bát-nhã),
là một thể dạng hiểu biết tinh khiết đã loại bỏ
được mọi thứ u mê tâm thần.
Các thứ dhamma của vô minh
Ngoài ra cũng có thêm một thứ dhamma nữa gọi là
dhamma của vô minh hay của sự hiểu biết sai
lầm, tức là những phản ứng phát sinh từ sự tiếp
xúc giữa tâm thức và thế giới vật chất. Như đã
được trình bày trên đây, khi dhamma tâm
thức tiếp xúc với dhamma mang tính cách
vật chất (matérialité / materiality / tức là
những gì mang tính cách cụ thể hay thực thể)
thì tức khắc một phản ứng sẽ phát sinh dưới hình
thức giác cảm, và từ giác cảm đó sẽ đưa đến hoặc
là không đưa đến một xúc cảm (cảm tính).
Tiếp theo đó, người ta có thể sẽ ngả theo hoặc
con đường của sự u mê (vô minh) hoặc con
đường của sự quán thấy sáng suốt, tất cả đều do
sự tác động của các điều kiện bên ngoài (bối
cảnh) và bản chất thuộc vào thể loại
dhamma đó (tức sự hiểu biết hay ô nhiễm
tâm thần). Dhamma của vô minh thì
cũng chẳng phải là gì khác hơn là dhamma
của sự nắm bắt và bám víu vào "cái tôi" và cái "của
tôi", là những thứ hoàn toàn mang tính cách ảo
giác. Vì thế cũng nên hiểu đấy cũng chỉ là một
thứ dhamma (như tất cả các dhamma khác).
Bản chất đích thật của nó cũng chỉ là tánh không.
Vô minh là tánh không, sự quán thấy minh bạch hay
nibbanâ cũng là tánh không; tất cả cũng chỉ
là dhamma. Nếu nhìn những thứ ấy đúng như
thế thì chúng ta cũng sẽ hiểu được rằng chúng
hoàn toàn trống không về cái ngã. Tuy rằng các
dhamma trong lãnh vực của vô minh vẫn là
"một" với tánh không, thế nhưng chúng vẫn còn
tiếp tục làm phát sinh ra ảo giác về "cái tôi".
Do đó chúng ta phải thật cảnh giác đối với các
dhamma của sự nắm bắt và bám víu cũng như
của sự quán thấy sai lầm về mọi sự vật - tất cả
đều gồm chung trong thuật ngữ "tất cả mọi sự vật".
Nếu chúng ta quán thấy được một cách minh bạch tất cả mọi
sự vật thì sự bám víu mang đầy u mê sẽ không thể
phát sinh ra được. Ngược lại nếu sự quán thấy
của chúng ta thiếu minh bạch và chúng ta chỉ
biết nhắm mắt chạy theo các bản năng thú tính
của mình một cách dại dột và sai lầm, thì đấy
cũng chẳng khác gì như tự mở cửa ngày càng rộng
hơn để đón rước các thứ dhamma của vô
minh.
Nắm bắt và bám víu là một thứ di sản lưu truyền trong con
người chúng ta từ muôn thuở (có thể hiểu như
một thứ bản năng sinh tồn chung cho tất cả mọi
sinh vật, thế nhưng đối với con người thì bản
năng đó ảnh hưởng bởi giáo dục và trí thông minh
đã trở thành những thứ xung năng mang tính cách
chủ động - nắm bắt và bám víu - vượt xa bản
năng sinh tồn nguyên thủy. Thí dụ như con người
không còn "kiếm ăn" nữa mà biết tích lũy của cải,
gởi tiền trong ngân hàng, mưu mô, lường gạt, đưa
đến bạo động và cuối cùng là chiến tranh).
Nếu quan sát và phân tích thật kỹ thì chúng ta
cũng sẽ thấy rằng những người chung quanh chúng
ta chẳng những luôn tìm cách khuyên dạy chúng ta
bắt chước theo họ - dù vô tình hay cố ý - để
cùng bước với họ vào con đường vô minh mà hơn
nữa họ còn chỉ dạy cho chúng ta cách thức phải
bám víu vào "cái tôi" và cái "của tôi" như thế
nào (một sự nhận xét thật sâu sắc, tuy nhiên
cũng có thể mở rộng hơn cách nhìn đó: không phải
những sự "chỉ dạy" ấy chỉ giới hạn trong lãnh
vực giữa các cá nhân với nhau mà thật ra thì các
thứ giáo thuyết, chủ nghĩa, tuyên truyền, quảng
cáo, báo chí cũng như các phương tiện truyền
thông... trong đó kể cả mạng lưới internet,
chẳng phải là những phương tiện nhằm để khích
động chúng ta, xui dục chúng ta bước theo những
người khác trên con đường "vô minh" và "bám víu"
vào "cái tôi" và cái "của tôi" dưới đủ mọi hình
thức hay sao? Đâu phải chỉ có cha mẹ, anh em,
bạn bè, thân thuộc, xóm giềng, thầy cô... mới là
những người làm gương và dạy cho chúng ta những
thứ ấy. Vì thế một người tu hành - tại gia hay
nơi chùa chiền - nếu muốn thoát khỏi mạng lưới
vô minh dầy đặc đang bao phủ, giam hãm và siết
chặt lấy mình, xui dục mình bám víu vào cái ngã
của mình thì phải cần đến một sự quán thấy minh
bạch và một nghị lực phi thường). Họ không
bao giờ tập cho chúng ta biết nhìn vào bản chất
vô ngã của mọi sự vật. Trẻ con chẳng những không
bao giờ được chỉ dạy về những thứ ấy, mà hơn thế
nữa người lớn còn luôn tìm cách đối thoại với
chúng dưới tư cách là những cá thể hoàn toàn
biệt lập (có nghĩa là một cá thể độc lập tách
rời ra khỏi những đứa trẻ như là một chủ thể
cách biệt nhằm để chỉ dạy cho chúng, và những sự
chỉ dạy ấy cũng chỉ là các cách củng cố thêm cảm
tính về "cái tôi" và cái "của tôi" của chúng và
của chính mình). Một đứa bé mới sinh ra đời
chưa có cảm tính về một "cái tôi" biệt lập trong
tâm thức của nó, sau đó thì nó mới dần dần nhận
biết được cảm tính ấy xuyên qua môi trường chung
quanh nó. Khi mới mở mắt chào đời và bắt đầu ý
thức được một thứ gì đó thì người lớn tập cho nó
bám víu vào đấy: đây là cha "của nó", mẹ "của nó",
gian nhà "của nó", thức ăn "của nó"; kể cả cái
đĩa đựng thức ăn cũng là "của nó" và không ai
được sử dụng cái đĩa ấy "của nó"! (thí dụ khi
nó va đầu vào góc bàn chẳng hạn thì nó tự ý thức
được là góc bàn không phải là nó, tức không phải
"cái tôi" của nó, hoặc người lớn khi trông thấy
nó bị va đầu thì dạy nó phải cẩn thận tránh xa
góc bàn, hoặc lấy tay đánh góc bàn để trừng trị
một thứ gì đó khác với nó và đã gây ra đau đớn
cho nó. Đấy là cách gián tiếp củng cố "cái tôi"
bên trong tâm thức của nó. Tóm lại giáo dục, môi
trường và sự sống thường xuyên tạo ra cảm tính
về "cái tôi" bên trong tâm thức của đứa bé. Cái
tôi" ấy lại tiếp tục biến đổi dưới tác động của
những điều "học hỏi" mới và các "kinh nghiệm"
mới, và cả các biến đổi mới trên thân xác của
nó, để tạo ra một "cái tôi" mới khác hơn với
"cái tôi" mà nó đã có trong những giây phút
trước đó, trong những ngày hay những năm trước
đó và để dần dần chuyển thành "cái tôi" của một
người trưởng thành, của một người cha, một người
mẹ, của một người già đang hấp hối. "Cái tôi"
đang tuần tự biến đổi trong kiếp sống này của
mỗi cá thể qua những "thể dạng" khác nhau - trẻ
thơ, trưởng thành, già nua - như vừa thấy và sau
cùng thì sẽ nhờ vào cái chết để trở thành "cái
tôi" của một đứa bé khác dưới một tên gọi khác
và mang theo với nó các thứ hiểu biết và các
kinh nghiệm từ trước dưới hình thức những vết
hằn ghi đậm trên dòng tri thức liên tục của nó.
Trong kiếp sống mới nó có thể sẽ bị va đầu vào
một góc bàn để ý thức được một "cái tôi" mới.
Đấy là quá trình vận hành của "cái tôi" trong
kiếp sống hiện tại và cả trong tương lai. Bám
víu vào "cái tôi" để tạo ra cho mình những sự
lầm lẫn và những xúc cảm bấn loạn là một sự
sai lầm, và nắm bắt lấy "cái tôi" ấy để xem nó
là một thứ linh hồn trường tồn bất biến cũng sẽ
là một thứ sai lầm khác nữa). Quá trình vận
hành vượt khỏi sự ý thức của mình - hay sự hình
thành của một "cái tôi" trong tri thức và sự
phát triển của nó - là một sự diễn tiến theo
đúng với các quy luật chi phối nó (quy luật
tương liên, nguyên nhân hậu quả...). Trái
lại, cảm tính về sự vắng mặt của "cái tôi" thì
lại không bao giờ hiển hiện lên, do đó suốt
trong khoảng thời gian từ khi còn bé cho đến lúc
trưởng thành, một cá thể tiếp tục chất chứa đầy
những sự bám víu và những thứ u mê tâm thần do
chính những sự bám víu ấy gây ra. Đối với cá thể
ấy "cái tôi" chính là sự sống và sự sống cũng
chính là "cái tôi". Thế nhưng khi mà bản năng
của sự bám víu vào "cái tôi" bắt đầu được xem
như là một sự sống bình thường với tất cả ý
nghĩa của nó, thì sự sống đó cũng sẽ bị buộc
chặt vào dukkha (khổ đau). Cái tôi
đó trở nên thật nặng nề và ngột ngạt, bế tắc,
rát bỏng và thật đớn đau (đôi khi chúng ta
ngồi khóc hay cười một mình, lo buồn hay hớn hở,
hối tiếc hay hy vọng, giận dữ hay yêu thương...,
thì đấy là một vài hình thức bế tắc thật nặng nề
mà Buddhadasa muốn nêu lên) - tóm lại là một
cuộc sống hàm chứa mọi triệu chứng của dukkha.
Tóm lại, mỗi khi xảy ra sự nắm bắt và bám víu vào bất cứ
gì, kể cả những thứ tốt đẹp nhất thì tức khắc sẽ
sinh ra khổ đau. Nếu nhìn theo cách đó thì những
gì mà thiên hạ cho là tốt thì thật ra cũng chỉ
là một sự sai lầm hay là mang tính cách tệ hại
bởi vì "cái tốt" cũng là một hình thức của
"dukkha" - một thứ dukkha đã được
thuần hóa, thế nhưng đấy vẫn là dukkha,
chẳng qua bởi vì tâm thức không trống không và
luôn bị bấn loạn. Chỉ khi nào tâm thức trống
không và vượt lên trên cái tốt cũng như cái xấu
thì khi đó mới loại bỏ được dukkha.
Thật vậy, khái niệm quan trọng nhất trong giáo huấn Phật
Giáo có thể tóm lược thật chính xác bằng câu sau
đây: "Tuyệt đối không được bám víu vào bất cứ gì
cả" ("sabbe
dhamma nalam abhinivesaya").
Câu này cũng có nghĩa là phải loại bỏ hoàn toàn
mọi sự nắm bắt và bám víu vào mọi sự vật để xem
đấy là "cái tôi" và cái "của tôi". Thật ra cũng
chỉ có thế, nào có gì khó hiểu đâu!
Khi nào chúng ta
vẫn còn nhận diện mình qua những sự bám víu, và
khi những sự bám víu ấy đã trở thành một với
chính mình, thì khi đó chúng ta cũng sẽ không
còn làm được bất cứ gì nữa. Vậy khi tâm thức
mình đã rơi vào tình trạng đó thì ai sẽ có thể
giúp mình được? Câu trả lời sẽ là: (chẳng có
ai cả) chỉ có tâm thức mình mới có thể giúp
được mình mà thôi. Như đã trình bày trên đây là
không có bất cứ thứ gì không phải là dhamma:
sự sai lầm là một dhamma, sự thật cũng là
một dhamma, dukkha (khổ đau)
là một dhamma, sự đình chỉ của dukkha
(sự giải thoát) là một dhamma,
phương tiện làm đình chỉ dukkha (Đạo
Pháp) cũng là dhamma, tâm thức là
dhamma, thân xác là dhamma. Vì thế
khi tất cả chỉ là dhamma thì giải pháp
nhất thiết cũng sẽ phải nằm trong chính tâm thức
(tất cả đều là tâm thức), dựa vào một
cách vận hành thích nghi với nó.
Xứng đáng (merite / phù hợp với đạo đức / tiếng Pa-li
là punna) hay không xứng đáng (demerit /
thiếu đạo đức / tiếng Pa-li là papa) thì
cũng đều tùy thuộc vào chính chúng ta. Nếu sự
tiếp xúc với thế giới mang lại trí tuệ thì đấy
là điều xứng đáng. Nếu sự tiếp xúc với thế giới
mang lại sự đần độn và các ý nghĩ sai lầm thì
đấy là điều không xứng đáng.
Nếu quan sát mọi sự vật thật cẩn thận thì chúng ta sẽ
nhận thấy là tất cả mọi con người khi sinh ra
đều ngang hàng nhau: ấy là mỗi người đều có mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân xác và tâm thức, mỗi người
đều cảm nhận được hình tướng, âm thanh, mùi, vị,
các sự nhận biết của xúc giác và các đối tượng
tâm thần (tức là các thứ tư duy, ảo giác, sự
tưởng tượng, các ước vọng, ý đồ, các thứ xúc cảm...).
Mỗi người trong chúng ta đều có dịp tiếp xúc với
các thứ ấy, và sự tiếp xúc đó xảy ra giống nhau
đối với tất cả mọi người. Vậy thì tại sao lại có
sự phân cách giữa những người bước theo con
đường đần độn, không xứng đáng, xấu xa và những
người bước theo con đường của trí tuệ, của sự
xứng đáng và những điều tốt lành?
Các dhamma xấu vẫn có một khía cạnh tích cực (lợi
ích). Thật thế chúng là một sự che chở đích
thật cho mọi người nếu nhìn theo một khía cạnh
nào đó, chẳng hạn như khi đau khổ thì đấy là một
dịp để rút tỉa thêm cho mình một bài học (tức
là những "kinh nghiệm" sống). Một đứa trẻ bị
bỏng khi đưa tay vào lửa thì nó sẽ hiểu rằng
phải cẩn thận hơn. Đối với các vật thể vật chất
thì tương đối dễ buông bỏ, thế nhưng đối với sự
nắm bắt, bám víu, thèm muốn, ghét bỏ và những
thứ tư duy sai lầm thì trong số hầu hết chúng ta
không mấy ai ý thức được là mình đang đút tay
vào cái đống than hồng ấy. Chẳng những thế,
chúng ta lại còn xem đấy là những gì thật tuyệt
hảo và đáng để cho mình thèm muốn. Đấy cũng có
nghĩa là mình chẳng hề rút tỉa được một bài học
nào cả.
Chỉ có một phương thuốc chữa trị duy nhất là phải làm thế
nào để có thể ý thức được bản chất đích thật của
những thứ dhamma ấy để hiểu rằng chúng
chỉ là một đống than hồng mà chúng ta không được
nắm bắt và bám víu vào đấy (có thể đây là ý
rút ra từ bài kinh Adittapariyaya-sutta trong
Samyutta-Nikaya IV, tức là bài Kinh: "Tất cả đều
bốc cháy" - có thể xem phần chuyển ngữ của bài
kinh này trên Thư Viên Hoa Sen). Đấy chính
là con đường của trí tuệ, của sự học hỏi kinh
nghiệm, để hiểu rằng mỗi khi nắm bắt bất cứ một
thứ gì và xem đấy là "cái tôi" hay cái "của tôi",
thì ngọn lửa sẽ bùng lên ngay. Không phải đơn
giản là một ngọn lửa làm cho bỏng tay mà đúng
hơn là một ngọn lửa thiêu rụi cả con tim lẫn tâm
thức của mình. Đôi khi nó đã ngún sâu đến độ
khiến chúng ta không ý thức được đấy là một ngọn
lửa đang bùng cháy và chúng ta cứ thế mà tiếp
tục lao mình vào đống than hồng của vòng luân
chuyển giữa sự sinh và cái chết. Đấy là ngọn lửa
thuộc loại nóng bỏng nhất, nóng hơn cả một cái
lò điện. Đấy là trường hợp có thể xảy ra cho
chúng ta, nếu chúng ta không học được bài học
của một đứa bé bị bỏng là không nên đưa tay vào
lửa.
Đức Phật đã từng giảng rằng chỉ khi nào tâm thức quán
thấy được hậu quả của khổ đau do sự nắm bắt và
bám víu mang lại thì khi đó nó mới hiểu rằng
phải nên buông bỏ. Vì thế vấn đề then chốt sẽ
là: chúng ta có nhìn thấy được hậu quả khổ đau
do sự nắm bắt và bám víu mang lại hay không? Nếu
không thì chúng ta chưa hề biết buông bỏ là gì,
và nếu chưa buông bỏ thì chúng ta sẽ không trống
không. Trong một lần thuyết giảng khác Đức Phật
có nói rằng mỗi khi quán thấy được tánh không
thì người ta sẽ tìm thấy sự toại nguyện trong
thế giới của nibbanâ. Chỉ khi nào người
ta bắt đầu quán thấy được sự phi-hiện-hữu của
cái ngã thì khi đó tâm thức mới có thể hiểu được
rằng chỉ nên tìm sự toại nguyện trong thể dạng
của nibbanâ mà thôi. Tất cả những gì nhận
biết được qua trung gian của các giác quan và
tâm thức thì đều được gọi chung là "lãnh vực"
giác cảm (ayatana /sphère des sens /
sphere of senses / "thế giới" giác cảm). Có
lẽ cũng nên mượn dịp này để nêu lên rằng
nibbanâ cũng chỉ là một thứ "lãnh vực" (sphere
/ thế giới, cõi) bởi vì nó cũng chỉ đơn giản
là một đối tượng của sự hiểu biết. Phải thật hết
sức đần độn mới không nhận ra được điều này!
(nibbanâ, thiên đường hay cõi cực lạc... thì
cũng đều là các "đối tượng nhận biết" của tâm
thức - nôm na là tưởng tượng - bởi vì chưa hề có
ai trông thấy được các dhamma ấy bên ngoài tâm
thức của chính mình cả). Chúng ta sẽ chỉ có
thể nhận biết được nó khi nào chính mình đã cảm
nhận được sự trống không của mình, bởi vì khi đã
buông bỏ được sự nắm bắt và bám víu thì khi đó
chúng ta mới sẽ tìm thấy sự toại nguyện trong "thế
giới" (sphere / cõi, lãnh vực) của
nibbanâ. Thế nhưng như tôi đã nói đến trên
đây, điều ấy thật hết sức khó bởi vì cuộc sống
của chúng ta luôn bị tràn ngập bởi mọi sự bám
víu vào các sự vật, và cho đến khi nào sự bám
víu ấy không giảm xuống thì cũng sẽ không có sự
trống không, và nếu không có sự trống không thì
cũng sẽ không thể nào có sự toại nguyện trong
thế giới của nibbanâ (hay trong cõi
niết-bàn) được.
Chúng ta có thể kiểm chứng sự kiện này khi nhìn vào các
tôn giáo khác. Thật vậy khái niệm về thể dạng
không-bám-víu vào "cái tôi" và cái "của tôi"
không hề có trong các tôn giáo khác - tại sao
lại như thế? Bởi vì các tôn giáo ấy đều nêu lên
một "cái tôi" và nhất thiết phải bám víu vào đấy.
Vì nhận thấy chẳng có gì tỏ ra sai lầm nên người
ta xem đấy là đúng, do đó việc đạt được Cái Ngã
(hay là Linh Hồn, nói cách khác và dưới một
hình thức khác thì đấy là mong muốn làm thoả mãn
được sự thèm khát và thực hiện được ước vọng của
mình) sẽ trở thành mục đích của tôn giáo
(nói chung). Đối với giáo huấn Phật Giáo thì
hoàn toàn ngược lại, sự bám víu vào "cái tôi"
nhất thiết phải được xem như là một sự quán nhận
sai lầm về mọi sự vật, một sự lầm lẫn hoàn toàn
đần độn của sự nhận thức, do đó chủ đích tu tập
của Phật Giáo là phải loại bỏ bất cứ một khái
niệm nào đại loại như thế. Thật vậy, giáo huấn
về vô-ngã chỉ có trong Phật Giáo. Khác với các
tín ngưỡng chủ trương có một cái ngã hầu để bám
víu vào đấy hoặc là phải đạt được nó, chúng ta
(những người Phật Giáo) chủ trương phải
loại bỏ hoàn toàn ý nghĩ về sự hiện hữu của cái
ngã hầu để có thể cảm nhận được thể dạng vô-ngã,
một thể dạng hoàn toàn trống không về cái ngã
của tất cả mọi sự vật.
Tóm lại chỉ có Phật Giáo là nói đến vô-ngã. Sự hiểu biết
và nhận thức về khái niệm đó chỉ có thể phát
hiện nơi những người đã được học hỏi rằng: tất
cả mọi sự vật (dhamma) đều vô-ngã và nhất
thiết không được bám víu vào bất cứ gì. Nếu đã
được học hỏi rằng cái ngã thật sự hiện hữu và
phải bám víu vào đấy thì sau này quả thật sẽ
không còn phương cách nào có thể giúp thực hiện
được thể dạng phi-hiện-hữu của cái ngã ấy nữa.
Thật vậy, khi nào đã nhận biết được là lửa có thể làm
bỏng tay thì chúng ta mới ý thức được một cách
thật minh bạch sự nguy hiểm của mọi sự vật làm
nguyên-nhân-cội-rễ khiến ngọn lửa bùng lên - đấy
là các ngọn lửa của sự thèm muốn, ghét bỏ và vô
minh, của sự nắm bắt và bám víu, nhờ đó dần dần
chúng ta sẽ chán ngấy những thứ ấy và mong cầu
loại bỏ được chúng, hầu có thể giúp mình đủ sức
để buông bỏ và không còn muốn làm cho các ngọn
lửa bùng lên nữa.
Chẳng có gì là tôi và cũng chẳng có gì là của
tôi cả
Đến đây chúng ta hãy bàn luận về ý nghĩa của chữ "tánh
không". Trên đây chúng ta đã khẳng định rằng
khi nào cảm nhận được nó thì khi ấy chúng ta
cũng sẽ tìm thấy được sự toại nguyện của
nibbanâ. Chúng ta phải ý thức thật rõ ràng
rằng tánh không ở cấp bậc tiên khởi chỉ biểu
trưng cho một sự vắng mặt của cảm tính về "cái
tôi" và cái "của tôi". Khi nào cảm tính ấy vẫn
còn hiện diện trong tâm thức thì nó sẽ không thể
nào trống không được, nó vẫn còn tiếp tục bị xao
động bởi sự nắm bắt và bám víu. Nhằm mục đích
thống nhất cách trình bày, nên mỗi khi nói đến
chữ "trống không" thì đấy có nghĩa là thể dạng
thoát khỏi mọi cảm tính về cái ngã và những gì
thuộc vào cái ngã; mỗi khi nói đến sự "xao lãng"
thì đấy có nghĩa là sự hoang mang, hay thể dạng
bấn loạn tâm thần liên quan đến cảm tính cho
rằng mình là một "cái tôi" và có được các sự vật
mà mình xem đấy là "của tôi".
Vậy thể dạng thoát khỏi cảm tính cho rằng mình là một "cái
tôi" sẽ hàm chứa những đặc tính như thế nào?
Kinh Sách có ghi chép một bài thuyết giảng của
Đức Phật nêu lên bốn điểm lên quan đến vấn đề
này. Hai điểm đầu tiên là:
1- Cảm tính nhận biết chẳng có thứ gì là "tôi" cả - (na
aham kavacini).
2- Không một chút lo lắng và nghi ngờ nào về bất cứ một
thứ gì có thể là "tôi" cả - (na kassaci kincanam
kisminci).
Hai điểm kế tiếp là:
3- Cảm tính nhận biết không có gì là "của tôi" cả - (na
mama kavacini).
4- Không một chút lo lắng và nghi ngờ nào về bất cứ một
thứ gì là "của tôi" cả - (kisminci kincanam
natthi).
(đây là bài kinh Ananjasappaya Sutta,
thuộc Majjhima Nikaya / Trung Bộ
Kinh - MN, 106).
Dù chúng ta ý thức được rằng không có gì có thể là "tôi"
cả, thế nhưng đôi khi cũng có thể có một sự nghi
ngờ nào đó là biết đâu cũng có một thứ gì đấy có
thể "là tôi". Chúng ta cảm thấy không có bất cứ
thứ gì có thể là "của tôi", thế nhưng chúng ta
cũng không thể ngăn cản được sự nghi ngờ cho
rằng biết đâu còn có một cái gì đó (mà mình
không biết được) cũng có thể là "của tôi".
Phải thật minh bạch và dứt khoát, phải đạt được
một sự hiểu biết vững chắc không thể lay chuyển
rằng không có gì là cái ngã cả, không có bất cứ
gì có thể làm cho chúng ta phải lo ngại về sự
hiện hữu của một cái ngã; không có gì thuộc vào
một cái ngã cả, và cũng không có bất cứ một thứ
gì có thể bào chữa hay biện minh cho sự lo ngại
về một cái gì đó biết đâu cũng có thể là của cái
ngã.
Đức Phật bảo rằng khi nào tâm thức thoát ra khỏi bốn thứ
ấy thì người ta mới có thể trở thành trống không
được. Các lời bình giải (trong các kinh sách)
mô tả sự kiện này một cách thật ngắn gọn và
chính xác bằng một câu như sau: "Không được xem
bất cứ gì là cái ngã và cũng không được xem bất
cứ gì thuộc cái ngã cả" - thiết nghĩ giải thích
như thế cũng đã quá đủ.
Hãy thử hình dung ra một thể dạng không nắm bắt các vật
thể nhằm bám víu vào đấy, để thử tìm hiểu xem là
nó sẽ như thế nào? Đấy là một thể dạng mà người
ta quán nhìn vào tất cả mọi thứ và hiểu rằng
thật sự ra thì không có bất cứ thứ gì đã, đang
và sẽ mang một tiềm năng để trở thành cái ngã
hay là một thứ gì thuộc vào cái ngã cả. Không
có cái ngã trong hiện tại vì thế cũng không có
lý do gì để e ngại là có một cái ngã trong quá
khứ, hay trong tương lai. Đấy là cách tâm thức
thực hiện được tánh không nhờ vào sự quán thấy
minh bạch rằng tuyệt đối không có bất cứ thứ gì
có thể biện minh cho ý nghĩa hàm chứa trong các
thuật ngữ "cái tôi" và cái "của tôi" cả (nói
đơn giản hơn là "cái tôi" và cái "của tôi" không
hàm chứa một ý nghĩa nào cả hay nói cách khác là
hoàn toàn vô nghĩa). Tất cả đều là dhamma,
tức là các các yếu tố thiên nhiên. Một thể dạng
tâm thức như thế chính là tánh không. Nếu chúng
ta bảo rằng tâm thức thực hiện được hay đạt được
tánh không, thì một số người cũng có thể sẽ hiểu
lầm là tâm thức và tánh không là hai thứ khác
nhau, và nếu đúng như thế thì sẽ không còn cách
nào giúp mình có thể hiểu được tánh không là gì.
Tâm thức trong thể dạng tự nhiên của nó là tánh
không. Sự đần độn chi phối nó và ngăn chận sự
quán thấy tánh không của nó chỉ là những gì từ
bên ngoài thâm nhập vào nó. Vì thế khi nào sự
đần độn đã bị loại bỏ ra khỏi tâm thức thì tâm
thức và tánh không cũng sẽ trở thành một. Vào
chính lúc đó tâm thức sẽ nhận ra chính nó. Không
cần phải đi đâu xa để nhận biết được các đối
tượng mà nó đang tìm kiếm: tự nó đã hàm chứa sẵn
sự hiểu biết về tánh không, nó chỉ cần đơn giản
ý thức được là nó phải thoát ra khỏi sự chi phối
của "cái tôi" và những gì có thể trở thành những
cái "của tôi" (để nhìn thấy tánh không hay là
chính nó).
Tánh không là giáo huấn của Đức Phật, không có một lời
thuyết giảng nào của Ngài lại không liên quan
đến tánh không. Trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta
Nikaya) Đức Phật có nói rằng giáo huấn sâu xa
nhất là những lời thuyết giảng về tánh không,
tất cả các chủ đề khác đều là thứ yếu. Ngài còn
nói thêm là chủ đề nói về tánh không sâu sắc đến
độ phải cần đến một Sinh Linh Giác Ngộ để có thể
giảng dạy trong thế giới này (chúng ta cũng
có thể nhìn vào các sách vở "Phật Giáo" và những
bài viết về "Phật Giáo" lan tràn khắp nơi và cả
trên mạng internet, để thấy rằng phần lớn chỉ là
các sách vở và bài viết thuộc loại "chạy vòng
ngoài" phản ảnh xu hướng và xung năng của người
viết hơn là giáo lý của Đức Phật. Đã gọi là "chạy
vòng ngoài" thì nếu càng chạy nhanh thì sức "ly
tâm" cũng sẽ càng mạnh và càng khiến cho tất cả
mọi thứ - bài viết, người viết cũng như người
đọc - càng bị bắn ra xa hơn với Đạo Pháp và sự
giác ngộ).
Tánh không nằm trong tầm tay của tất cả mọi
người
Trong một phân đoạn khác của bộ kinh này Đức Phật có nói
rằng tánh không lúc nào cũng là một nguồn lợi
ích hay một niềm an ủi và khích lệ lớn lao cho
những người thế tục tức là tất cả những người
thật bình dị trong thế giới này. Đoạn kinh trên
đây có nêu lên một giai thoại kể lại một nhóm
người thế tục tìm gặp Đức Phật. Họ thỉnh cầu
Ngài hãy ban cho họ một bài giảng huấn có thể
mang lại một sự lợi ích lâu dài và một niềm an
vui cho những người thế tục như họ, tức có nghĩa
là cho "những người có gia đình, còn bận bịu vợ
con, còn bôi dầu đàn hương và xức nước hoa". Đức
Phật bèn giảng cho họ bài kinh nói về tánh không
trên đây. Nhóm người thế tục nói với Đức Phật
rằng bài giảng này quá khó và họ không hiểu gì
cả. Đức Phật bèn giảm xuống một bậc và giảng cho
họ một phương pháp tu tập khác, ấy là cách giúp
họ bước vào dòng chảy (bước vào dòng chảy có
nghĩa là hòa mình với dòng suối đưa đến niết-bàn,
và trên thực tế thì có nghĩa là phải quy y, đấy
là cách giúp mình bước theo vết chân của Đức
Phật), tức có nghĩa là thực hiện tinh thần
đích thực của Phật, Dhamma (Đạo Pháp)
và Sangha (Tăng Đoàn), và tuân thủ đạo
đức (tu giới) khiến cho các vị Thánh Nhân
khi trông thấy cũng phải toại nguyện. Thực ra
thì đấy cũng chỉ là cách mà Đức Phật đã hướng họ
vào một chủ đích khác (mang tính cách thực tế
và cụ thể hơn và cũng dễ thực hiện hơn, tức là
chỉ cần quy y và tích lũy đạo đức). Theo
cách hiểu ngày nay thì có thể bảo đấy là một
cách đánh lừa! Khi nhóm người thế tục bảo rằng
họ không thích tánh không (chẳng những họ
không hiểu đấy là gì mà cũng không biết phải làm
thế nào để thực hiện được tánh không, bởi vì đối
với họ đấy là một thứ gì quá trừu tượng, mơ hồ
và không hiểu nổi) Đức Phật đành phải thay
vào đấy bằng một thứ gì khác giúp họ không cần
phải dựa vào tánh không. Thế nhưng thật ra thì
họ cũng không thể tránh khỏi được tánh không,
bởi vì Đức Phật đã ném về phía họ một sợi dây để
kéo họ trở về với con đường thẳng. Thật vậy chỉ
có một con đường duy nhất và đích thật để thực
hiện tinh thần của Phật, Dhamma và
Sangha và tuân thủ đạo đức khiến cho các
vị Thánh Nhân cũng phải toại nguyện: đấy là con
đường giúp mình lúc nào cũng nhìn thấy tính cách
vô nghĩa của các hành động nắm bắt và bám víu
của mình.
Quý vị có nghĩ rằng Đức Phật đã sai lầm khi cho rằng tánh
không cũng liên quan đến người thế tục hay không?
Nếu Đức Phật có lý (tức cho rằng tánh không
cũng liên hệ đến người thế tục) thì chúng ta
cũng có thể sẽ phải phát điên lên được và cảm
thấy mình hoàn toàn sai lầm, bởi vì ngày nay
chúng ta vẫn nghĩ rằng tánh không nào có phải là
để nêu lên cho những người thường tình sống
trong thế giới đâu (tức là những người thế
tục), mà chỉ để dành riêng cho những ai
hướng tất cả đời mình vào sự thực hiện cảnh giới
của nibbanâ (tức là những người xuất
gia) - dù cho họ không biết đích xác đấy là
gì đi nữa.
Người ta vẫn thường nghĩ như vậy, thế nhưng Đức Phật thì
lại nhìn mọi sự một cách khác hơn. Ngài dạy rằng
tánh không là một sự lợi ích trước mặt tức là có
thể mang lại niềm an vui cho người thế tục. Vậy
thì ai có lý? Đức Phật hay là chúng ta? Nếu Đức
Phật có lý thì chúng ta (Buddhadasa muốn nói
đến những người thế tục đang ngồi nghe giảng)
phải lo tìm hiểu sự thật trong những lời thuyết
giảng của Ngài. Để thực hiện điều đó thì chúng
ta cũng nên tự hỏi xem ai là những người khổ đau
nhiều nhất, ai là những người có tâm thức bị
thiêu đốt bởi trận hỏa hoạn và những đống than
hồng? Nhất định đấy là những người thế tục! Nếu
những ai bị bủa vây bởi trận hỏa hoạn thì phải
lo tìm cách làm cho nó phải tắt đi, tức là phải
triệt tiêu dukkha dưới tất cả mọi thể
dạng của nó, phải xông pha trong chốn lửa bỏng,
bởi vì không có bất cứ nơi nào an toàn để có thể
giúp họ lẩn trốn: tất cả đều bốc cháy. Họ phải
tìm cho mình giữa chốn lửa bỏng một nơi hoàn
toàn mát mẻ. Cái nơi ấy chính là tánh không, một
nơi không có cái ngã cũng không có bất cứ gì
thuộc vào cái ngã cả.
Người thế tục phải biết khám phá ra cái tánh không đó để
sống trong bầu không gian tỏa rộng của nó. Nếu
không đủ sức để tạo cho mình một cuộc sống tại
trung tâm của khung cảnh đó (của tánh không)
thì ít ra cũng phải sống bên trong chu vi của
khung cảnh đó với một sự hiểu biết đúng đắn (về
tánh không) - đấy cũng là một cách mang lại
sự an lành lâu bền cho người thế tục.
Nhóm người thế tục trên đây thỉnh cầu Đức Phật hãy giảng
cho họ phải làm thế nào để tìm thấy một sự lợi
ích lâu bền, Đức Phật trả lời rằng: "sunnatapppatysamyutta
lokuttara dhamma" - tức có nghĩa là "dhamma
được ghép thêm tánh không sẽ vượt lên trên thế
giới". Vượt lên trên thế giới có nghĩa là
vượt lên trên ngọn lửa. Thực hiện được tánh
không có nghĩa là thoát khỏi mọi sự bám víu vào
các sự vật để xem đấy là "cái tôi" hay cái "của
tôi". Những lời giáo huấn ấy có thể xem như là
một món quà mà Đức Phật ban tặng cho những ai
đang sống trong thế giới này. Cũng chính vì thế
mà tôi mong rằng quý vị hãy xét lại xem tại sao
lại phải quan tâm đến tánh không đến thế, và
cũng nên tự hỏi xem đấy có đúng là chủ đề duy
nhất xứng đáng để đem ra học hỏi hay không?
Trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya), Đức
Phật khẳng định rằng tánh không chính là niết-bàn,
và niết-bàn thì cũng là tánh không, và
tánh không thì có nghĩa là thoát khỏi mọi thứ ô
nhiễm (những thứ u mê tâm thần) và khổ
đau. Tóm lại là nibbanâ (niết-bàn)
cũng nhất thiết liên quan đến người thế tục (có
nghĩa là người thế tục cũng có thể tu tập để đạt
được niết-bàn). Nếu những người thế tục chưa
đủ sức để hiểu được nibbanâ là gì và cũng
chưa đủ sức để hội nhập cuộc sống của mình vào
khung cảnh của tánh không, thì đấy có nghĩa là
họ vẫn còn sống trong lửa bỏng của hỏa hoạn và
phải gánh chịu hiểm nguy nhiều hơn những người
khác.
Niết-bàn ngay trong những giây phút này
Ý nghĩa của chữ nibbanâ tất nhiên là sẽ mở rộng và
bao hàm cả cấp bậc hoàn toàn vắng mặt mọi thứ ô
nhiễm tâm thần là nguyên nhân mang lại khổ đau.
Vì thế mỗi khi tâm thức trống không về "cái tôi"
và cái "của tôi" thì đấy chính là nibbanâ.
Hãy đưa ra một thí dụ, ngay lúc này và trong khi
quý vị còn đang ngồi đây, thì tôi có thể bảo
rằng tất cả hay ít nhất thì cũng gần như tất cả
đều có một tâm thức vượt thoát tất cả các khái
niệm về "cái tôi" và cái "của tôi", bởi vì không
có bất cứ gì hiện đang xen vào để làm phát lộ ra
cảm tính ấy. Khi chăm chú nghe tôi nói thì quý
vị sẽ không còn để ra một khoảng trống nào cho
cảm tính về "cái tôi" có thể hiện ra. Quý vị thử
nhìn lại xem tâm thức mình ngay trong lúc này có
thật sự trống không về "cái tôi" và cái "của tôi"
hay không? Nếu như có một tánh không nào đó (tôi
xin nhấn mạnh đến chữ "nào đó" bởi vì dù đấy
không phải là một tánh không "đúng nghĩa" của nó
mà thật ra chỉ là một thể dạng bất định của tánh
không) thì cũng có nghĩa là quý vị đang ở trong
khung cảnh (cõi, hay thế giới) nibbanâ
(niết-bàn). Dù rằng đấy chưa phải là
nibbanâ tuyệt đối và hoàn hảo, thế nhưng đấy
cũng vẫn là nibbanâ.
Mỗi sự vật đều mang một ý nghĩa với ít nhiều sắc thái
khác nhau, với các mức độ khác nhau và thuộc các
trường hợp khác nhau. Nibbanâ trong tâm
thức của từng quý vị ngay trong lúc này tương
ứng với mức độ mà quý vị loại bỏ được cảm tính
về "cái tôi" và cái "của tôi". Do đó tôi cũng
mong rằng quý vị ý thức được sự vắng mặt đó của
"cái tôi", luôn nhớ đến nó, tiếp tục giữ được nó
khi quý vị trở về nhà. Khi về đến nhà thì biết
đâu quý vị cũng có thể cảm thấy rằng mình bước
chân vào gian nhà của một người nào khác, hoặc
trong lúc làm một việc gì đó trong nhà thì mình
có cảm giác là mình đang làm thay cho một người
nào khác (không còn nhận ra "cái tôi" của
mình nữa và có cảm tưởng như là một người khác
đang làm không phải là mình) nhằm để hoàn
tất công việc của người ấy. Cảm tính ấy tiếp tục
ngày càng trở nên rõ rệt hơn và các thứ
dukkha do gian nhà và các công việc trong
nhà từng gây ra cho mình trước đây cũng sẽ theo
đó mà biến mất. Lúc nào quý vị cũng giữ được thể
dạng vượt thoát khỏi "cái tôi" và cái "của tôi".
Đấy cũng tương tự như quý vị đeo lên ngực một lá
bùa hộ mệnh gọi là nibbanâ hay tánh không
(người dân Thái Lan thường đeo ở ngực một lá
bùa hay thường hơn là một tượng phật nhỏ, quý
nhất là những tượng Phật thật xưa, và xem đấy
như là một thứ "bùa hộ mệnh"). Đấy là một
cách giúp mình tránh khỏi mọi sự hiểm nguy và
những điều bất hạnh. Đấy là lá bùa đích thật
(tánh không hay niết-bàn trong tâm thức mình)
mà Đức Phật đã ban cho chúng ta, tất cả những
thứ khác đều là dị đoan (chỉ có tánh không
dưới thể dạng niết-bàn thường trú trong tâm thức
mình mới có thể giúp mình được mà thôi, tất cả
các thứ bùa chú, nghi thức lễ lạc hoặc các sinh
hoạt màu mè... chỉ là dị đoan hay nhiều lắm thì
cũng chỉ là những gì phụ thuộc - upaya - mà thôi).
Nếu tôi cứ tiếp tục nói theo cách này thì quý vị cũng có
thể sẽ nghĩ rằng tôi muốn rao bán món hàng của
tôi, thế nhưng xin quý vị không nên xem tôi như
là một người phô trương giá trị (thiêng liêng)
của Đức Phật ở một nơi công cộng. Quý vị chỉ nên
xem tất cả chúng ta chỉ là những người đồng hành
khốn khổ đang bước trên con đường của sinh lão
bệnh tử , thế nhưng toàn thể chúng ta cũng đều
là đệ tử của Đức Phật. Nếu có những điều đã được
nói lên nhằm giúp quý vị ý thức được những gì có
thể mang lại lợi ích cho quý vị thì đấy là những
điều đã được nói lên với tất cả thiện tâm của
tôi. Những ai đã phát huy được trí tuệ của mình
thì cũng sẽ tự động thấu triệt được những gì
được trình bày trên đây, không cần phải tin vào
lời tôi nói. Thật thế sự quán thấy về mọi sự vật
sẽ mở ra cho chúng ta cánh cửa đưa đến một sự
hiểu biết sâu xa hướng vào một sự thật tối
thượng. Vậy đến đây chúng ta hãy đề cập đến chủ
đề liên quan đến các thành phần (tiếng Pa-li
là dhâtu, có thể dịch là thành phần, yếu tố...,
kinh sách tiếng Việt gọi là cảnh giới, không
gian hay yếu tố...).
Các loại thành phần (dhâtu)
Chữ dhâtu và chữ dhamma có cùng một gốc là
chữ "dhr" và chữ này thì có nghĩa là "nắm
giữ", "duy trì"..., tóm lại "thành phần" có
nghĩa là một thứ gì đó có thể tự nó duy trì được
nó - cũng tương tự như cách định nghĩa của chữ
dhamma. Cũng giống như đối với dhamma,
các thành phần gọi là biến đổi thì tự chúng duy
trì được chính chúng ngay bên trong sự biến đổi
của chúng, các thành phần không biến đổi thì tự
chúng duy trì được chính chúng bên trong sự
không-biến-đổi của chúng.
Vậy thành phần nào mà quý vị thấy rằng có thể liên kết nó
với tánh không? Các nhà nghiên cứu về vật lý và
hóa học chỉ biết đến các thành phần vật chất,
tức là các thành phần tinh khiết (éléménts
chimiques / chemical elements / các nguyên tố
hóa học, thí dụ như carbon, oxy...), tất cả
gồm khoảng hơn một trăm thứ và người ta còn tiếp
tục khám phá ra thêm. Các thành phần này không
thể nào trống không được - hay ít ra phải định
nghĩa nó một cách thật sâu xa để có thể nhìn
thấy nó trống không, bởi vì đấy chỉ là những
thành phần vật chất (đây cũng chính là cách "hiểu"
hay "giải thích" khác nhau về chữ tánh không
giữa Theravada và các học phái triết học xưa như
sravaka và pratyekabudha và Phật Giáo Đại Thừa.
Các học phái "nguyên thủy" - theravada, sravaka,
pratyekabudha - chủ trương sự vắng mặt của sự
hiện hữu về một "cái tôi" mang tính cách cá thể,
trong khi đó thì Phật Giáo Đại Thừa nói chung
chủ trương sự vắng mặt của cái ngã đối với tất
cả mọi hiện tượng - dhamma. Tuy nhiên cách giải
thích về tánh không của Buddhadasa đôi khi cũng
cho thấy khá gần với cách hiểu về chữ này trong
các học phái Đại Thừa. Sự kiện này cho thấy tư
tưởng của Buddhadasa "vượt xa" hơn giới hạn của
một số khái niệm sẵn có của Theravada).
Ngoài ra cũng có những thành phần phi-vật-chất,
các thành phần thuộc tâm thần hay là tri thức,
các thành phần này nằm bên ngoài các lãnh vực
vật lý và hóa học. Phải học hỏi và nghiên cứu
ngành khoa học do Đức Phật đưa ra mới có thể
hiểu được các thành phần phi-vật-chất và phi-hình-tướng,
là những gì phát xuất từ con tim và tâm thức.
Tóm lại thì ít ra cũng có hai nhóm thành phần
khác nhau như đã được trình bày trên đây (xin
lưu ý đến chữ "ít ra", vì Buddhadasa sẽ còn nói
đến một loại thành phần khác quan trọng hơn
nhiều trong đoạn dưới đây).
Vậy người ta có thể quy định "tánh không" thuộc vào thành
phần nào? Nếu có ai bảo rằng tánh không là một
thành phần vật chất, thì tức khắc bạn bè chung
quanh sẽ cười người này ngay. Một số những người
khác thì bảo rằng đấy là một thành phần phi-vật-chất
và phi-hình-tướng, thế nhưng trong trường hợp
này thì lại đến lượt các vị Thánh Nhân đã đạt
được giác ngộ ("Noble Ones" / "Nobles Êtres
éveillés", nói chung đấy là các vị tu hành đắc
đạo và uyên bác) sẽ cười họ. Thật vậy, tánh
không là một thành phần không phải là vật-chất
mà cũng không phải là phi-vật-chất, do đó phải
có một thể loại thứ ba: đấy là một thứ thành
phần mà những người bình thường không thể quán
thấy được. Thành phần này được Đức Phật gọi là
nirodhadhâtu - "thành phần của sự tắt nghỉ" (hay
đình chỉ) - đây là thành phần làm cho tất cả
các thành phần khác phải chấm dứt - hoặc còn gọi
đấy là "thành phần không bao giờ chết". Tất cả
các thành phần khác đều chết, bởi vì chúng mang
bản chất phải gánh chịu cái chết (mọi hiện
tượng hiện ra và biến mất như những ảo giác).
Trái lại thành phần tắt nghỉ không liên quan gì
đến sự sinh cũng như cái chết, hơn thế nữa nó
còn biểu trưng cho sự tắt nghỉ hoàn toàn của tất
cả các thành phần khác. Tánh không sống bên
trong thành phần đó, chính vì thế mà người ta
cũng có thể gọi thành phần tắt nghỉ là "thành
phần của tánh không", và đấy cũng là thành phần
đưa tất cả các thành phần khác trở về với tánh
không (định nghĩa gián tiếp niết-bàn, tức là
sự tắt nghỉ, và thể dạng liên đới với nó là tánh
không một cách thật khéo léo và tuyệt vời).
Nếu quý vị muốn hiểu được là các thành phần nào khả dĩ
khá thích hợp nhằm giúp mình hiểu được Dhamma
(Đạo Pháp) thì trên đây là những gì mà
quý vị cần phải thấu triệt. Không nên tin rằng
chỉ cần hiểu được các thành phần đất, nước, khí
và lửa là gì thì cũng đủ - đấy chỉ là những
chuyện để giảng cho trẻ con nghe. Các thứ này đã
được nói đến ngay cả trước thời kỳ của Đức Phật.
Phải đẩy sự hiểu biết xa hơn nữa đến thành phần
tri thức phi-vật-chất, thành phần không gian và
sau hết là thành phần tánh không, tức là sự tắt
nghỉ hoàn toàn của đất, nước, khí và lửa, kể cả
tri thức và không gian. Thành phần tánh không là
thành phần tuyệt vời nhất đã được nêu lên trong
giáo huấn Phật Giáo.
Tóm lại: đất, nước, khí và lửa thuộc vào các thành phần
vật chất.
Tâm thức (spirit, mind), tri thức
(consciousness, mental proceses) thuộc các
thành phần phi-vật-chất. Nibbanâ (niết-bàn)
tức là thành phần của tánh không thì thuộc vào
các thành phần của sự tắt nghỉ (nirodhadhâtu).
Quý vị cũng nên dành thì giờ để suy tư cẩn thận
hơn về tất cả các thể loại thành phần cho đến
khi nào hiểu được một cách thật minh bạch những
gì vừa được tóm lược trên đây. Đấy sẽ là cách
giúp quý vị khám phá ra thành phần nibbanâ
và để hiểu được thấu đáo hơn các khái niệm
về vô-ngã và tánh không mà chúng ta đang bàn
thảo.
Tóm lại chúng ta có thể đưa ra một
nguyên tắc như sau: trong sự nắm bắt và bám víu
vào "cái tôi" và cái "của tôi" có cả hai thành
phần vật-chất và phi-vật-chất, và trong sự vắng
mặt của chúng thì lại có thêm thành phần tắt
nghỉ. Nói một cách ngược lại thì người ta có thể
bảo rằng nếu thành phần tắt nghỉ thâm nhập vào
tâm thức thì người ta chỉ thấy toàn là tánh
không: thể dạng thoát khỏi "cái tôi" và cái "của
tôi" ấy sẽ phát lộ một cách thật rõ rệt. Nếu một
thành phần khác (tức khác hơn với sự tắt nghỉ)
thâm nhập vào tâm thức thì người ta sẽ nhìn thấy
nó dưới các thể dạng như hình tướng, danh xưng,
một vật thể trông thấy được, âm thanh, mùi, vị,
một vật thể sờ mó được, hoặc là các giác cảm
(thích thú, khó chịu), các thứ kỷ niệm, tư
duy, tri thức, v.v... - tất cả đám hỗn tạp đó
tham gia vào sự hiển hiện và biến mất của các
hiện tượng (xin hiểu là quá trình hiển hiện
và biến mất của mọi hiện tượng là một sự cảm
nhận của tâm thức, do đó khiến chúng ta cũng có
thể liên tưởng đến quan điểm về hiện tượng học
của học phái duy thức), và dựa vào đó người
ta sẽ phát lộ ra sự thích thú hay là ghét bỏ
(sự minh bạch trong tâm thức của Buddhadasa và
cách trình bày chính xác của ông đã đạt đến một
mức độ khiến cho chúng ta phải bàng hoàng).
Thật vậy, chúng ta có hai thể dạng tâm
thần nắm giữ một vai trò ưu thế hơn cả: đấy là
sự toại-nguyện và bất-toại-nguyện. Đấy là hai
cách phản ứng đã trở nên quá quen thuộc với
chúng ta (thật thế không mấy khi chúng ta giữ
được một thể dạng trung hòa, khi một giác cảm
xảy ra - nhìn thấy một hình tướng, nghe thấy một
âm thanh, ngửi thấy một mùi... - thì tức khắc
chúng ta đánh giá ngay những thứ ấy bằng sự
thích thú hay khó chịu và không thể giữ được một
thể dạng "vô tư"). Người khác dạy chúng ta
cách phải làm thế nào để chiếm hữu những gì mà
mình thèm muốn (dạy mình phải cố gắng học
hành để kiếm được nhiều tiền chẳng hạn, thế
nhưng mình thì lại chỉ thích… lười biếng),
hay là để loại bỏ hoặc lẩn tránh những gì mà
mình cảm thấy khó chịu (thí dụ như mình lo
buồn thì người khác dạy mình đừng nghĩ đến quá
khứ, thế nhưng mình thì lại cứ quay về quá khứ
hoặc hướng vào tương lai và không thể nào "cột"
tâm thức vào hiện tại được). Đấy là một sự
xao động thường xuyên, nó không để cho tâm thức
có thể tìm thấy được sự trống không. Nếu muốn
cho tâm thức trống không thì chúng ta phải vượt
xa hơn những gì vừa trình bày trên đây, tức có
nghĩa là phải vượt thoát khỏi những thành phần
gây ra sự bấn loạn, hầu giúp mình hòa nhập vào
tâm điểm của tánh không.
Ba thành phần giúp đưa đến niết-bàn
Nhằm để nêu lên các đặc tính của các
thành phần khác nhau, Đức Phật đã phân chia
chúng ra thành ba thể loại. Trước hết Ngài nêu
lên thể loại gọi là nekkhamadhâtu - "thành
phần của sự từ bỏ" như là một nguyên nhân
đưa đến sự rút lui ra khỏi thế giới tham dục
(sensuality - tức là rút lui ra khỏi thế giới
dục tính hay là bối cảnh gia đình); sau đó
là thành phần arupadhâtu - "thành phần
phi-vật-chất" - như là một nguyên nhân đưa
đến sự rút lui ra khỏi thế giới vật chất; thành
phần thứ ba là nirodhadhâtu - "thành
phần của sự tắt nghỉ" - tức là sự rút lui
khỏi thế giới trói buộc (monde conditionné /
conditioned world / thế giới hiện tượng sinh
khởi qua sự trói buộc và chi phối của quy luật
nguyên nhân và hậu quả).
Nếu đủ sức nhìn thấy được thành phần
của sự từ bỏ thì cũng có nghĩa là đã đủ sức rút
lui khỏi thế giới tham dục, bởi vì đấy là thể
dạng đối nghịch với nó. Thường trú trong thành
phần của sự từ bỏ là cách không để cho mình bị
thiêu rụi bởi ngọn lửa tham dục (sensuality /
dục tính. Một người "tại gia" không xem phim ảnh
nhảm nhí, không để cho tâm thức mình bị xâm
chiếm bởi những thứ tưởng tượng bệnh hoạn kích
động bởi bản năng dục tính, không bị thu hút bởi
hình ảnh của người khác phái - hay đôi khi cũng
có thể là đồng tính - thì cũng có thể thực hiện
được khía cạnh nào đó của một người "xuất gia").
Một tâm thức khi đã loại bỏ được thế giới của sự
thèm muốn giác cảm tất sẽ hàm chứa được thành
phần của sự từ bỏ.
Những người từ bỏ được những sự thèm
muốn thô thiển nhất của dục tính sẽ biết hướng
vào những thứ khác cao đẹp và thú vị hơn. Tuy
nhiên những thứ ấy dù mang tính cách thanh tao
hơn thế nhưng vẫn còn thuộc vào thế giới vật
chất. Chẳng hạn như trường hợp của những người
luyện tập du-già (yogi) thành thạo, họ luôn tìm
cách thường trú trong một thể dạng bám víu vào
những thứ thích thú do phép thiền định sâu xa
mang lại cho họ (chúng ta cũng nên ghi nhớ là
tìm kiếm thể dạng thanh thản, phẳng lặng và an
vui bằng thiền định không có gì là Phật Giáo cả.
Thiền định Phật Giáo là cách giúp mình quán nhận
được bản chất đích thật của hiện thực là gì và
để hoà nhập với nó). Ở một cấp bậc thấp hơn,
chúng ta thường thấy các người lớn tuổi hay say
mê đồ cổ hoặc thích sưu tập các loại cây kiểng
hiếm có. Tuy các thứ ấy không dính dáng gì đến
vấn đề tính dục thô thiển, thế nhưng thật ra thì
chúng là một cái bẫy nguy hiểm hơn tính dục rất
nhiều, bởi vì khi đã rơi vào cái bẫy ấy thì khó
lòng mà ra khỏi - tức có nghĩa là rất khó để từ
bỏ những hình thức thích thú vật chất.
Vậy thì ngoài sự bám víu vào thế giới
vật chất ra thì người ta sẽ còn dễ bị khích động
để bám víu vào những thứ gì khác nữa? Người ta
sẽ bám víu vào những sự vật hình thành tùy thuộc
vào các điều kiện tác tạo ra chúng (choses
conditinnées /conditioned things) ở một cấp
bậc cao hơn, tức có nghĩa là mang tính cách tích
cực hơn (thí dụ như những điều tốt lành, đạo
hạnh, nhân ái, từ bi, lý tưởng vị tha...).
Trong lãnh vực này sẽ có nghĩa là tốt hơn không
nên nói đến những gì mang lại sự xấu xa - chẳng
ai muốn nghe nói đến những thứ ấy! Tốt nhất
chúng ta chỉ nên nêu lên cách trau dồi những
phẩm tính tốt và thực thi những hành động đạo
hạnh mà mọi người thường hay cho rằng nhờ đấy sẽ
được tái sinh trong cảnh giới thiên đường. Chẳng
phải là mọi người vẫn thường xuyên mơ tưởng đến
chuyện ấy hay sao! Thế nhưng thật ra thì đấy
cũng chỉ là sankhata - tức cũng chỉ là một thể
dạng trói buộc (état conditionné /
conditioned state. Chúng ta hãy thử tưởng tượng
ra là nếu mình được sống trong một cõi đầy hoa
thơm cỏ lạ cùng âm nhạc và tiếng hát vang lừng,
thế nhưng nếu đấy chỉ là… hoa giả và các bài hát
thì lại quá xưa, lỗi thời và chỉ toàn một điệu,
thử hỏi mình có chịu đựng nổi một tháng hay
chăng? Tưởng tượng như thế tức là cách giúp để
hiểu được chữ sankhata mà Buddhadasa nêu lên là
gì, và một thể dạng tâm thức không loại bỏ được
cái tôi sẽ như thế nào). Chúng ta thường
xuyên bị giam hãm trong các ý nghĩ như muốn được
trở thành thế này hay thế kia và chiếm hữu vật
này hay vật nọ! Trở thành "cái tôi" của một con
thú thì quả là một điều không ai thích, vậy thì
ai cũng muốn được là cái tôi của một con người.
Khi nhận thấy rằng làm người cũng chẳng khá gì
lắm thì lại muốn được làm một thiên nhân
(celestial being / être céleste). Được làm
thiên nhân cũng chưa vừa lòng nên lại muốn được
làm một vị thánh (brahma-god / divinité).
Nếu được làm một vị thánh vẫn chưa phải là hay,
thì lại thích làm vua của các vị thánh (mahabrahma-god
/ roi des divinités)! Thế nhưng trong tất cả
những thứ ấy đều có một "cái tôi", hay tất cả
cũng chỉ là các thành phần trói buộc (sankhata).
Chỉ duy nhất khi nào khám phá ra được thành phần
tắt nghỉ (nirodhadhâtu) thì khi đó mới có thể
giúp mình thoát khỏi thế giới trói buộc được.
Thành phần tắt nghỉ do đó chính là
thành phần tối thượng. Đấy là sự tắt nghỉ hoàn
toàn của "cái tôi" và cái "của tôi". Nếu sự tắt
nghỉ ấy mang tính cách vĩnh viễn và tuyệt đối
thì sẽ trở thành một vị A-la-hán, một sinh linh
đã được giải thoát, một sinh linh giác ngộ. Nếu
sự tắt nghỉ ấy không hoàn hảo, thì chỉ sẽ đạt
được sự Giác Ngộ ở một cấp bậc thấp hơn, bởi vì
vẫn còn dấu vết của "cái tôi", và đấy chưa phải
là tánh không tối hậu.
Tóm lại là chúng ta phải thấu triệt
được các thành phần, tức các yếu tố cấu hợp đích
thật của tất cả mọi hiện tượng. Tôi xin quý vị
nên tìm hiểu những thứ này dựa vào một nguyên
tắc căn bản như sau: có các thứ thành phần mang
hình tướng tức là các thứ thành phần vật chất,
các thứ thành phần không mang hình tướng tức là
các thành phần phi-vật-chất, và sau hết là các
thành phần làm tắt nghỉ tất cả các thành phần
khác, dù chúng mang hình tướng hay không hình
hình tướng. Chúng ta có thể khẳng định một cách
chắc chắn không có bất cứ gì khác ngoài ba thứ
ấy ra.
Trên đây là những gì mà chúng ta học
được từ ngành khoa học do chính Đức Phật đưa ra,
một ngành khoa học bao gồm nhiều lãnh vực, từ
vật lý học, tâm thần học và tâm linh học. Ngành
khoa học đó mang lại cho chúng ta một sự hiểu
biết đầy đủ và toàn vẹn về tất cả mọi hiện tượng,
đầy đủ đến độ mà chúng ta chẳng còn muốn nghĩ
đến việc nắm bắt chúng nữa. Và đấy cũng chính là
ý nghĩa của tánh không (nhờ học hỏi từ những
khám phá khoa học của Đức Phật chúng ta nhìn
thấy tính cách ảo giác, biến động, không thực và
lừa phỉnh của mọi hiện tượng, khiến chúng ta
không còn muốn chạy theo chúng nữa, đấy chỉ là
những thứ vô nghĩa, không thực, trống rỗng, và
nếu lỡ tay mà chạm vào chúng thì sẽ bị bỏng, chỉ
có thế thôi).
Tánh không hay là cõi thường trú của các Chúng
Sinh Thượng Thặng
Nhằm đưa sự hiểu biết về tánh không đi
xa hơn, tôi sẽ triển khai thêm một vài điểm nữa.
Trong một bài thuyết giảng (kinh
Uppannasaka-Sutta trong Majjhima Nikaya) Đức
Phật có nói rằng tánh không là nơi thường trú
của các Chúng Sinh Thượng Thặng (mahipurisavihara).
Các Chúng Sinh Thượng Thặng không bao giờ để cho
tâm thức mình lang thang và xao động, xoay hết
hướng này sang hướng khác tương tự như tâm thức
của những người bình dị. Tâm thức của các Vị
Thượng Thặng an trú trong tánh không, hoà nhập
với tánh không, và trở thành chính tánh không.
Đấy cũng là cách mà tánh không trở thành nơi an
trú hay là tòa lâu đài của các Chúng Sinh Thượng
Thặng, tức cũng có nghĩa là của Đức Phật và của
các Chúng Sinh đã đạt được Giác Ngộ. Khi nói
rằng tánh không là nơi thường trú của các Vị ấy
thì cũng có nghĩa là các Vị ấy sống ở nơi ấy và
hít thở bầu không gian của nơi ấy.
Chính Đức Phật cũng đã cho biết là
Ngài đã từng sống trong cõi tánh không. Trong
khi thuyết giảng Dhamma thì tâm thức của
Ngài trống không về "cái tôi" và cái "của tôi".
Trong khi Ngài đang đi khất thực hay trong những
lúc phải làm những công việc thường nhật, thì
tâm thức của Ngài cũng trống không. Trong những
lúc nghỉ ngơi hay tìm sự thư giãn thì Ngài vẫn
luôn giữ thể dạng trống không về "cái tôi" và
cái "của tôi". Chính vì thế mà Ngài đã từng nói
với người đệ tử là Xá lợi Phất (Sariputta) rằng
Ngài đã trải qua cuộc đời mình trong cõi tánh
không.
Con người mà chúng ta đang đề cập
không phải là một con người bình dị chưa giác
ngộ mà đúng hơn đấy là một Sinh Linh Thượng
Thặng, là Đức Phật: Ngài đã sống như thế nào và
thường trú trong một nơi như thế nào? Nếu quý vị
muốn trông thấy được nơi thường trú của Đức Phật,
thì nhất định quý vị không nên tưởng tượng ra
một kiến trúc nào đó ở Ấn Độ, được xây cất bằng
gạch và xi-măng, mà quý vị chỉ nên hình dung ra
một cõi thường trú gọi là tánh không. Cái cõi đó
trống không một cách thật tuyệt vời.
Tánh không tối thượng không phải là
một cảm tính thoáng qua mà quý vị cảm nhận được
khi còn đang ngồi ở đây và rồi nó sẽ biến mất đi
trước khi quý vị về đến nhà. Cõi thường trú của
tánh không chính là tánh không tối thượng, vì
thế mà người ta đã đặt thêm cho nó một cái tên
khác nữa bằng tiếng Pa-li, một cái tên khá dài:
paramanuttara-sunnata - có nghĩa là "tánh
không tối thượng không có gì vượt hơn được" (parama:
tối thượng, anuttara: không có gì vượt
hơn được, sunnata: tánh không). Nơi đó
tâm thức sẽ tỏa rộng và hòa nhập vào một bầu
không gian thật tinh khiết bởi vì trong nó các
thứ ô nhiễm tâm thần đã bị loại bỏ, và đấy cũng
chỉ là thể dạng vận hành tự nhiên và không gượng
ép của một vị A-la-hán.
Tuy nhiên cũng có một thể dạng trung
gian. Trong thể dạng này tâm thức tuy đã phát
huy được một sự chú tâm thật mạnh và loại bỏ
được mọi thứ ảo ảnh tâm thần, đạt được sự tinh
khiết như trên đây, tức không còn mang một dấu
vết nào của những thứ nọc độc tâm thần nữa, thế
nhưng sự tinh khiết ấy chưa mang tính cách vĩnh
viễn, nó có thể bị thoái lùi hoặc chuyển ngược
về thể dạng tối thượng (tức bị mất đi phẩm
tính "không có gì vượt hơn được" hay "anuttara").
Nếu muốn trở thành một người đệ tử
đích thật của Đức Phật thì quý vị phải hội đủ
khả năng đạt được thể dạng trên đây. Dù chưa đủ
sức loại bỏ hẳn các thứ nọc độc tâm thần thì
cũng vẫn có thể tạm thời vượt thoát khỏi sự chi
phối của chúng. Đấy là một tầm nhìn bao quát về
cảnh giới của Đức Phật và của các vị A-la-hán.
Tầm nhìn đó nhất định sẽ giúp mang lại cho chúng
ta một nghị lực phong phú hơn trên đường tu tập.
Bởi vì những gì mà người ta gọi là tánh không,
sự Giác Ngộ hay niết-bàn thì tất cả đều
có thể đạt được, hoặc toàn vẹn và vĩnh viễn hoặc
cũng có thể chỉ đạt được với tính cách tạm thời
và với một thể dạng chưa được hoàn toàn ổn định,
và đấy cũng là thể dạng nằm trong tầm tay của
những người bình dị như chúng ta. Tuy nhiên cũng
vẫn còn có một thể loại thứ ba có thể xảy đến
nhờ vào sự trùng hợp của một số điều kiện (coinsidences
/ bối cảnh, cơ duyên). Đôi khi có những
trường hợp mà các điều kiện (cơ duyên)
xảy đến một cách thuận lợi giúp tâm thức an trú
trong tánh không được khoảng một hay hai giờ
liên tiếp. Tuy nhiên điều quan trọng là chúng ta
phải quyết tâm tu tập với tất cả khả năng của
mình nhằm để giải thoát cho tâm thức của chính
mình.
Các cấp bậc của tánh không
Thuật ngữ "tánh không tối thượng không
có gì vượt hơn được" (paramanuttarasunnata) do
Đức Phật nêu lên có nghĩa là sự thèm muốn, ghét
bỏ và những ý nghĩ sai lầm về thực thể của mọi
sự vật tất cả đều đã bị loại bỏ, kể cả sự nắm
bắt và bám víu vào "cái tôi" và cái "của tôi"
cũng đã bị trừ khử. Tóm lại là thuật ngữ trên
đây mang ý nghĩa của một sự xả bỏ toàn diện.
Khi nhìn vào cấp bậc cao nhất của tánh
không như trên đây thì chúng ta cũng sẽ hiểu
rằng có các cấp bậc thấp hơn. Bên dưới cấp bậc
tột đỉnh paramanuttarasunnata sẽ có các cấp bậc
thấp hơn, xếp theo thứ tự như sau:
-
nevasannanasannayatana: cảm nhận không cảm nhận
- akincannayatana: cảm nhận sự
trống không tuyệt đối
- vinnancayatana: cảm nhận tri
thức vô biên
- akasanancayatana: cảm nhận
không gian vô tận
- pathavisanna: cảm nhận đất.
- arannasann: cảm nhận rừng
Cấp bậc thấp nhất là arannasanna
có nghĩa là cách "cảm nhận sự hoang dã"
(perception of forest). Nếu chúng ta đang
sống trong một môi trường ồn ào và đầy hoang
mang thì chúng ta hãy tưởng tượng là mình đang
bước vào một khu rừng hoang dã thật yên lặng.
Chúng ta cảm thấy nơi ấy thật an bình, không một
tiếng động. Chỉ cần tưởng tượng ra như thế cũng
đã là một hình thức cảm nhận nào đó về tánh
không rồi - thế nhưng cách tưởng tượng ấy chỉ là
một trò chơi trẻ con.
Trên cấp bậc này là cấp bậc
pathavisanna có nghĩa là cách "cảm nhận đất".
Chúng ta hình dung tất cả mọi hiện tượng đều
toàn là đất (không có giá trị gì cả). Sự
cảm nhận đó sẽ giúp xóa bỏ mọi sự thèm muốn các
lạc thú giác cảm phát sinh từ hình tướng, âm
thanh, nước hoa, vị và sự đụng chạm. Đấy là cách
cảm nhận mà những người còn trẻ nên cố gắng thực
hiện.
Đến đây chúng ta sẽ chuyển sang một
cấp bậc cao hơn nữa là akasanancayatana,
đấy là cách tạo ra cho mình sự "cảm nhận không
gian vô tận". Chúng ta cảm thấy không có một thứ
gì cả ngoài một không gian bao la và vô tận.
Không gian cũng là một biểu trương nào đó của
tánh không thế nhưng không phải là tánh không
đích thật. Tánh không đích thật thuộc vào một
cấp bậc cao hơn không gian trống rỗng.
Dù sao thì cũng không nên cảm thấy sợ
hãi trước sự trống rỗng đó của tánh không và hãy
cố gắng hướng vào một cấp bậc tinh tế hơn nữa là
vinnancayatana, hay sự "cảm nhận tri thức
vô biên". Chúng ta tạo ra cho mình một tri thức
vô tận và chúng ta sẽ không còn cảm thấy bất cứ
một thứ gì khác ngoài cái tri thức thật rộng lớn
ấy.
Ở một cấp bậc cao hơn nữa là
akincannayatana, có nghĩa là "cảm nhận sự
trống không tuyệt đối". Chúng ta hình dung ra
một thể dạng tâm thần hoàn toàn trống không, tức
không để cho tâm thức hướng vào hay trụ vào bất
cứ một thứ gì cả. Tuy nhiên trong thể dạng đó
vẫn còn tồn tại cảm tính về sự trống không.
Một cấp bậc khác cao hơn nữa là
nevasannanasannayatana, có nghĩa là sự "cảm
nhận không cảm nhận". Trong thể dạng này người
ta không cảm thấy là mình đang sống hay đã chết.
Nếu bảo đấy là một sự cảm nhận thì hoàn toàn sai,
thế nhưng nếu nói rằng không có sự cảm nhận thì
cũng sai nốt. Người ta không thể nào gán cho
kinh nghiệm cảm nhận ấy bất cứ một thứ nhãn hiệu
nào cả. Đấy là một "tri thức không nhận thức"
(perception sans perception / awareness without
perception). Sự tinh tế đạt đến một mức độ
thật cao, cao đến độ nếu cho rằng một người
trong thể dạng ấy còn đang sống là sai, thế
nhưng bảo rằng người ấy đã chết thì cũng là sai.
Trạng thái ấy cũng là một hình thức của tánh
không (mô tả tri thức của một người cận kề sự
Giác Ngộ tối thượng - paramanuttarasunnata - một
cách cực kỳ giản dị và tuyệt vời đến độ có thể
khiến cho chúng phải bàng hoàng và kinh sợ).
Sáu cấp bậc của tánh không trên đây
hoàn toàn không phải là cùng một thứ với "tánh
không tối thượng và không có gì vượt hơn được" (paramanuttarasunnata).
Đức Phật nêu lên các thể dạng trống không trên
đây là chỉ nhằm mục đích cho thấy các cấp bậc
khác nhau của tánh không, và trong số này không
có một cấp bậc nào có thể làm nơi thường trú của
các Sinh Linh Thượng Thặng được. Đấy chỉ là
những thể dạng tánh không mà những người du-già
đã từng luyện tập trước cả thời kỳ của Đức Phật.
Dù họ có khám phá ra rất sớm các thể dạng đó thế
nhưng họ đã bị chận đứng lại ở các cấp bậc ấy và
không thể vượt xa hơn được. Riêng chỉ có Đức
Phật đã khám phá ra tánh không đích thật như là
một nơi thường trú cho những Sinh Linh Thượng
Thặng. Đấy là "tánh không không có gì có thể
vượt hơn được" mà tôi vừa trình bày trên đây.
Tiếp xúc với tánh không
Các tập Luận Giải thuộc Kinh Sách Phật
Giáo gọi các kinh nghiệm cảm nhận về tánh không
là sunnataphassa - "tiếp xúc với tánh không".
Chúng ta hiểu rõ về sự tiếp xúc giác cảm xảy ra
giữa mắt và các vật thể trông thấy được, giữa
tai và các âm thanh nghe thấy được, v.v..., thế
nhưng chúng ta chưa hề có một kinh nghiệm nào về
sự tiếp xúc với tánh không, bởi vì chúng ta chỉ
vỏn vẹn biết được các thành phần vật-chất và
phi-vật-chất, chúng ta tuyệt nhiên chưa hề được
biết gì về thành phần của sự tắt nghỉ hay
nirodhadhâtu.
Khi nào chúng ta bắt đầu nhận thấy
được thành phần của sự tắt nghỉ thì chúng ta
cũng sẽ cảm nhận được một thứ gì đó mới lạ hơn,
đấy là gì mà các vị thầy bình giải gọi là "sự
tiếp xúc với tánh không". Và đấy cũng là tên gọi
của Con Đường Cao Cả (Noble Sentier / Noble
Path / Con Đường của Tám Sự Đúng Đắn hay còn gọi
là Bát Chính Đạo. Xin ghi chú thêm là gần đây
cũng có một số học giả Tây Phương cho rằng chữ "đúng
đắn" - "chánh" - mang ý nghĩa tương đối giới hạn
không biểu trưng được ý nghĩa của Con Đường Cao
Cả nên đã đề nghị thay chữ "đúng đắn" bằng chữ "hoàn
hảo") bắt đầu từ giai đoạn mà nó đã loại bỏ
được tất cả các thứ nọc độc tâm thần. Nếu luyện
tập theo con đường đó cho đến khi nào loại bỏ
được tất cả các thứ u mê tâm thần thì sự tiếp
xúc với tánh không sẽ hiện ra. Tâm thức tiếp xúc
với tánh không cũng khá tương tự như dùng bàn
tay để chạm vào sự trống không.
Đối với những ai quán nhận ngày càng
minh bạch hơn rằng không hề có "cái tôi" và cái
"của tôi" mà tất cả chỉ toàn là dhamma và
các chuyển động tự nhiên (anattânupassanâ)
thì sự trống không dưới hình thức một sự
tiếp xúc sẽ phản ảnh được Con Đường của Tám Sự
Đúng Đắn. Khi đã mang bản chất ấy (tất cả chỉ
là dhamma) thì Con Đường của Tám Sự Đúng Đắn
cũng có thể được xem là tánh không, và mọi sự
tiếp xúc xảy đến trên Con Đường ấy cũng sẽ gọi
là sự "tiếp xúc với tánh không" (sunnataphassa).
Sự quán thấy minh bạch không hề có "cái tôi" và
cái "của tôi" là nguyên nhân mang lại sự tiếp
xúc đó, và đồng thời cũng là hậu quả của sự quán
thấy minh bạch về khổ đau (dukkhânupassanâ).
Quán thấy minh bạch được khổ đau cũng tương tự
như đưa tay vào lửa và nhận ra rằng đấy là một
việc không nên làm; hoặc tương tự như khi đã
hiểu rằng không nên nắm bắt bất cứ một dhamma
nào, và cũng không nên bám víu vào chúng, bởi vì
nếu cứ nắm bắt lấy chúng thì chúng sẽ hóa thành
ngọn lửa. Trên phương diện tâm linh, khi đã quán
thấy được một cách minh bạch rằng lửa có thể
thiêu đốt, hủy diệt, làm cho ngạt thở, gây ra
thương tích, bủa vây và giam hãm con người thì
khi đó chúng ta cũng sẽ quán thấy được một cách
minh bạch dukkha là gì (dukkhânupassanâ).
Ở cấp bậc này chúng ta phải nghĩ đến
sự kiện là có một số người cho rằng nếu không
thể tự mình đạt được nibbanâ thì không
thể nào hiểu được nó là gì, tương tự như nếu
không thăm viếng một nước nào đó thì không thể
nói được là đã trông thấy quốc gia ấy. Thế nhưng
nibbanâ không phải là một thứ gì thuộc
lãnh vực vật chất, đấy là những gì liên quan đến
tâm thức và con tim của mình. Như tôi đã nêu lên
trên đây, ngay đang trong giây phút này tâm thức
của hầu hết quý vị là tánh không, và đấy đã cũng
đã là một chút tiền vị của tánh không (đích
thật) rồi. Quý vị hãy triển khai sự quán
thấy ấy về (tánh không của) mọi sự vật.
Kinh Sách có nêu lên các Nền Móng của
sự Chú Tâm (căn bản luyện tập về sự tỉnh thức)
trong phần trình bày về cách quan sát các hiện
tượng (cittânupassanâ) tức là cách tập trung
nhìn vào tâm thức mình: "Nếu tâm thức bị tràn
ngập bởi sự thèm muốn dục tính, thì mình cũng
phải ý thức được sự kiện đó; nếu tâm thức bị chi
phối bởi sự ghét bỏ, thì mình cũng phải ý thức
được sự kiện đó; nếu tâm thức rơi vào tình trạng
hoang mang tâm thần thì mình cũng phải ý thức
được sự kiện đó; nếu tâm thức rơi vào tình trạng
kiệt quệ và mất hết nghị lực, thì mình cũng phải
ý thức được sự kiện đó; nếu tâm thức không kiệt
quệ thì cũng phải ý thức được là nó không kiệt
quệ; nếu tâm thức ý thức được sự Giải Thoát, thì
mình cũng phải ý thức được sự kiện đó; nếu tâm
thức chưa được giải thoát, thì cũng phải ý thức
được là nó chưa được giải thoát".
Nếu tâm thức đã được giải thoát thì nó
sẽ trống không; nếu nó chưa được giải thoát thì
nó sẽ không trống không. Vậy thì chúng ta hãy
nhìn vào tâm thức mình xem sao: hoặc tâm thức
mình đã được giải thoát thì tức có nghĩa là nó
sẽ trống không về tất cả mọi thứ, hoặc là tâm
thức mình còn bám víu vào một thứ gì đó thì tất
nó còn vướng mắc trong sự nắm bắt. Đức Phật
giảng rằng ngay từ lúc mới khởi sự tu tập phải
cố gắng ý thức được thế nào là một thể dạng tâm
thần trống không tức là đã được giải thoát. Đấy
là những gì chỉ có thể nhìn thấy từ bên trong,
không phải là cách nhờ vào sự suy luận và học
hỏi trong sách.
Nibbanâ hay sự trống không đang
ở nơi này, trước mắt của chúng ta, dù cho chúng
ta chưa đạt được giác ngộ cũng vậy. Tánh không
có thể hiện ra một cách đột ngột, thí dụ như
ngay trong lúc này, nếu các cơ duyên hội đủ. Nếu
tập trung tâm thức thật đúng đắn nhằm giúp nó
đạt được thể dạng hoàn toàn thư giãn và an bình
(nếu nói phóng đại thêm thì thể dạng ấy cũng có
thể so sánh với thể dạng khi tâm thức cảm nhận
được một sự thích thú thông thường). Tuy nhiên
thể dạng này cũng đã là một khía cạnh nào đó của
"sự giải thoát bằng cách ngăn chận" (vikkambhanavimutti
/ release by suppression). Vì thế ngay cả trường
hợp chưa đạt được sự Giải Thoát tối hậu của một
vị A-la-hán đi nữa thì chúng ta vẫn có thể nhận
biết được tánh không để khảo sát nó - như là một
món hàng làm mẫu do Đức Phật ban tặng! Nếu muốn
nhận được món hàng mẫu ấy thì quý vị cũng có thể
tìm thấy nơi nội tâm của chính mình.
Tóm lại là quý vị phải luyện tập về
Bốn Nền Móng căn bản của sự Chú Tâm theo từng
giai đoạn một: trước hết là phát huy sự suy tư
về thân xác, sau đó đến các giác cảm, tiếp theo
là tâm thức và sau cùng là các đối tượng của tâm
thức. Sự luyện tập này sẽ mang lại cho quý vị "hương
vị" của tánh không suốt trong thời gian ngay từ
khi mới khởi sự tập luyện cho đến lúc hoàn tất.
Vào giai đoạn cuối cùng khi đã quán thấy được
các hậu quả khổ đau do sự nắm bắt và bám víu
mang lại thì quý vị cũng sẽ hiểu được tánh không
là gì. Vào chính thời điểm ấy, tâm thức cũng sẽ
tức khắc hướng vào bầu không gian của nibbanâ
để tìm lấy sự toại nguyện cho mình.
Đấy là cách giúp chúng ta thường xuyên
trông thấy được tánh không (và để hưởng "hương
vị" của nó) trong khi chờ đợi đạt được nó ở
cấp bậc tột đỉnh. Quá trình đó là một sự thăng
tiến tự nhiên và phù hợp với một thứ quy luật
riêng chi phối nó, tuy nhiên cũng có thể cho đấy
chỉ là một thứ quy luật của thiên nhiên. Khi tự
mình quán nhận được thật minh bạch một điều gì
đó thì sự hiểu biết ấy sẽ rất vững chắc. Nó sẽ
không biến đổi giống như trường hợp của một sự
hiểu biết sai lầm hay là một sự hiểu biết học
hỏi được từ một người khác.
Sự chấm dứt của nghiệp
Chúng ta cũng chẳng cần phải cố gắng
quá đáng mới có thể mang lại hạnh phúc cho mình.
Thật vậy, chẳng có gì là phức tạp lắm. Tất cả
những gì cần phải làm là giải thoát cho tâm thức
mình khỏi sự thèm muốn, ghét bỏ và các ý nghĩ
sai lầm, hoặc nếu nói cách khác là phải trút bỏ
mọi sự nắm bắt và bám víu vào "cái tôi" và cái "của
tôi". Khi nào tâm thức đã loại bỏ được sự thèm
muốn, ghét bỏ và các ý nghĩ sai lầm thì nó sẽ
trở nên trống không và mọi thứ khổ đau cũng sẽ
chấm dứt.
Trong Tăng Nhất Bộ Kinh (Anguttara
Nikaya) có nói rằng khi nào tâm thức đã loại bỏ
được sự thèm muốn, ghét bỏ và các ý nghĩ sai lầm,
trút bỏ hết "cái tôi" và cái "của tôi", thì tự
nhiên kamma (nghiệp) cũng sẽ tự nó chấm
dứt. Điều đó có nghĩa là kamma, quả của
nó và các sự u mê tâm thần làm nguyên nhân tạo
ra nghiệp cũng sẽ tự động theo đó mà chấm dứt.
Chúng ta không nên sợ hãi kamma, tức
không nên lo sợ phải gánh chịu tác động của nó.
Không cần phải quan tâm đến kamma một
cách quá đáng, tốt hơn nên nghĩ đến tánh không.
Nếu chúng có thể tạo ra tánh không cho "cái tôi"
và cái "của tôi" thì kamma theo đó cũng
sẽ tan biến hết và chúng ta cũng sẽ tránh được
mọi tác động của nó.
Chính vì lý do đó mà một người mang
tên là Angulimala có thể trở thành một vị A-la-hán.
Không nên hiểu sai như nhiều người khác về câu
trả lời của Đức Phật cho Angulimala : "Ta đã
dừng lại từ lâu rồi, chính con vẫn chưa dừng lại
đấy thôi" (nhằm giúp người đọc theo dõi dễ
dàng hơn ý của Buddhadasa trình bày trong đoạn
này nên cũng xin mạn phép nhắc lại câu chuyện về
Angulimala như sau:... Một hôm Đức Phật đi đến
một nơi có tiếng là nguy hiểm vì nơi này có một
tên sát nhân là Angulimala vô cùng hung dữ và
lại đang tìm giết người thứ một ngàn. Chủ nhân
một quán trọ thiết tha xin Đức Phật hãy dừng
chân lại và đừng đi đâu cả. Đức Phật không nghe
và vẫn lẳng lặng lên đường. Thị trấn vắng tanh,
nhà nhà đóng cửa. Angulimala thấy một nhà sư
đang đi một mình trong một con phố vắng, hắn bèn
rút thanh kiếm và đi theo. Đức Phật thấy có kẻ
lạ đến gần và biết ngay đấy là tên sát nhân mà
mọi người sợ hãi, tuy nhiên Ngài vẫn thản nhiên
bước một cách thanh thản. Angulimala rất ngạc
nhiên trước thái độ bình thản đó, hắn đưa cao
thanh kiếm đứng chắn trước mặt Đức Phật và thét
lên ra lịnh cho Đức Phật phải dừng lại. Đấng Như
Lai không tỏ vẻ sợ hãi một chút nào và cất lời
nói với Angulimala một cách thật dịu dàng: "Này
Angulimala, con có biết không, ta đã dừng lại từ
lâu lắm rồi. Chính con vẫn còn đang múa may
trong lửa đỏ của hận thù, của giận dữ và dục
vọng điên cuồng". Angulimala hết sức bất ngờ
trước câu nói đó liền ngước nhìn để dò xét gương
mặt của Phật. Trước vẻ mặt tràn đầy lòng từ bi
và nhân ái của Đức Phật, Angulamala bỗng cảm
thấy trơ trụi và cô đơn, và bất thần hắn nhận
thấy mình đang bước trên con đường của khổ đau
và bất hạnh. Hắn bèn ném bỏ thanh kiếm và quỳ
xuống dưới chân của Đấng Giác Ngộ và xin nguyện
sẽ từ bỏ cuộc sống hung ác (kinh
Angulimala-sutta, trong Trung Bộ Kinh -
Majjhima-Nikaya. Đoạn trên đây trích từ một bài
viết mang tựa đề "Khái niệm về ba cửa ngõ trong
Phật Giáo" - có thể xem trên Thư Viện Hoa Sen).
Câu trả lời ấy không có nghĩa là Angulimala
trước đây là một tên sát nhân, thế nhưng nay thì
đã dừng lại và không còn giết người nữa và nhờ
đó mà Angulimala đã trở thành một vị A-la-hán.
Cách hiểu như thế là hoàn toàn sai. Đức Phật
dùng chữ "dừng lại" với dụng ý là không còn nắm
bắt và bám víu vào "cái tôi" và cái "của tôi"
nữa, nói cách khác thì sự dừng lại ấy chính là
tánh không. Tánh không là một sự ngưng nghỉ, và
đấy cũng chính là một hình thức dừng lại duy
nhất có thể giúp cho tên cướp Angulimala trở
thành một vị A-la-hán cao cả. Nếu chỉ nhờ vào sự
kiện không còn sát nhân nữa mà Angulimala đã trở
thành một vị A-la-hán thì tại sao bao nhiêu
người khác không sát nhân mà nào họ có đạt được
giác ngộ đâu? Bởi vì sự đình chỉ hay sự dừng lại
đích thật, mới đúng là tánh không. Khi nào không
còn có "cái tôi" để trú ngụ ở nơi này, để đi đến
nơi kia hay quay về từ một nơi khác, thì khi ấy
mới có thể gọi là một sự dừng lại đích thật. Khi
nào vẫn còn một "cái tôi" thì sẽ không có cách
gì để dừng lại được.
Quý vị cũng nên hiểu rằng chữ "tánh
không" mang cùng một ý nghĩa với chữ "dừng lại"
và đấy cũng là chữ mà Đức Phật đã sử dụng để làm
cho Angulimala phải thức tỉnh, trong khi mà hai
tay của hắn vẫn còn vấy máu và trên cổ vẫn còn
đeo một xâu chuỗi với 999 đốt xương lấy từ các
ngón tay của các nạn nhân mà hắn đã giết. Nếu
muốn cho kamma tự nó phải chấm dứt và để
đạt đến điểm "dừng lại" thì chúng ta phải luôn
tâm niệm câu sau đây: "Phải thực hiện được sự
trống không về cái tôi và cái của tôi" - và nhất
là không được nắm bắt các sự vật, cũng không bám
víu vào chúng.
Sở dĩ phải giải thích dông dài như
trên đây đấy nhằm vào mục đích làm sáng tỏ ý
nghĩa của chữ "tánh không". Thoát khỏi những thứ
u mê tâm thần tức có nghĩa là trống không về cảm
tính của "cái tôi" và cái "của tôi". Nhờ đó
người ta sẽ đạt được tánh không và loại bỏ được
dukkha. Tóm lại là thể dạng trống không
về các thứ u mê tâm thần cũng là thể dạng trống
không về mọi thứ khổ đau. Chỉ cần đơn giản thực
hiện được sự trống không của "cái tôi" và cái "của
tôi" thì cũng đủ để đạt được sự trống không của
tất cả mọi sự vật. Thể dạng trống không đó không
thuộc vào thành phần đất, thành phần nước, thành
phần lửa, thành phần khí hay thành phần không
gian, v.v... (xin ghi chú thêm là ngoài tứ
đại gồm đất, nước, lửa và khí, Đức Đạt-lai Lạt-ma
và một số kinh sách còn nêu thêm một thành phần
thứ năm là không gian, tức là thành phần cần
thiết để chuyển tải tứ đại). Chính Đức Phật
đã nói rõ là thành phần trống không đó không
thuộc vào những thứ như vừa kể. Trống không là
thành phần của sự tắt nghỉ, là sự vắng mặt của "cái
tôi" và cái "của tôi", là sự đình chỉ của
kamma, là sự loại bỏ của các thứ u mê tâm
thần và của khổ đau.
Thực hiện thể dạng thanh thản
Điểm sau cùng cần phải bàn luận và
cũng đã được nêu lên ngay từ lúc đầu, đấy là sự
liên hệ giữa tánh không và tất cả mọi sự vật.
Quý vị cũng nên ghi nhớ một điều là "tất cả mọi
sự vật" đều là dhamma, và dhamma
thì cũng chẳng phải là gì khác hơn là thiên
nhiên hay những gì "tự chúng là như thế"; chúng
hoàn toàn trống không về "cái ngã" và về những
gì thuộc vào "của chúng". Sở dĩ các thứ
dhamma của sự đần độn, của các ý nghĩ sai
lầm và u mê thường xuyên hiện lên đấy là vì văn
hóa (chữ này trong nguyên bản là "culture",
có thể hiểu là giáo dục, truyền thống, tập quán...)
và đời sống xã hội (trong nguyên bản là "la
façon dont nous vivons" / "the way that we
live") đều nhằm vào chủ đích củng cố các
dhamma liên quan đến "ego" ("cái tôi")
và các thể dạng của sự thiếu-hiểu-biết
(unknowing) và không hề quan tâm đến các
dhamma của sự hiểu biết thật sự. Vì thế
chúng ta phải thường xuyên và tự động gánh chịu
sự trừng phạt vì cái "tội tổ tông" ấy (trong
nguyên bản là péché originel / original sin, đấy
là ngụ ý nói đến quan điểm về "khổ đau" của một
số các tín ngưỡng khác, khi các tín ngưỡng này
cho rằng tất cả chúng ta đều phải gánh chịu lỗi
lầm của tổ tiên mình đã vi phạm. Buddhadasa xem
cái tội tổ tông ấy chính là các truyền thống,
tập quán, giáo dục và các hình thức sinh hoạt xã
hội, tất cả những thứ này đã dự phần củng cố "cái
tôi" của mỗi cá thể con người trong xã hội)
của mình từ khi chúng mới phát sinh, đấy là cái
tội hành động thiếu ý thức của mình (bị chi
phối và điểu khiển bởi "cái tôi" và cái "của tôi"
mà không hay biết) và không hề ý thức kịp
thời để rút tỉa một bài học cho mình (tương
tự như đứa bé đưa tay vào lửa). Thế hệ trẻ
không ý thức được việc đó; người trung niên cũng
không, và hầu hết những người trọng tuổi cũng
thế (có nghĩa là chẳng có ai biết rút tỉa cho
mình một bài học nào cả từ sự trừng phạt vì sự "phạm
tội tổ tông" đó). Ít ra thì khi đã trưởng
thành hay vào lúc tuổi già chúng ta cũng phải ý
thức được sự kiện ấy nếu muốn tránh khỏi sự
trừng phạt và vượt thoát khỏi cái lưới của sự
sinh và cái chết đang giam giữ mình hầu có thể
bay bổng lên bầu không gian trong sáng và vô tận.
Khi giáo huấn Phật Giáo được truyền bá
sang Trung Quốc thì những người Trung Quốc vào
thời bấy giờ cũng đã chứng tỏ cho thấy là họ khá
thông minh và sáng suốt khi biết tiếp nhận giáo
huấn ấy. Sau đó tại Trung Quốc cũng đã hình
thành nhiều học phái do các vị thầy thuộc tầm cỡ
lớn như Hui Neng (Huệ Năng) và Hoang Po
(Hoàng Bá Hy Vân) chủ xướng. Trong các
học phái này người ta nhận thấy cách giải thích
về tâm thức, Dhamma, Đức Phật, Con Đường
và tánh không đều rất chính xác (Phật Giáo
Theravada khen Thiền Học), và nổi bật hẳn là
một câu thật then chốt như sau: "tâm thức, Đức
Phật, Dhamma, Con Đường và tánh không cũng chỉ
là một thứ" (tuyệt vời thay sự hiểu biết thâm
sâu của Buddhadhasa, chỉ cần vài chữ cũng đủ để
tóm lược cốt tủy của Thiền Tông. Dù sao thì
chúng ta cũng có thể thêm vào đấy "hiện thực"
hay "thực tại", bởi vì tất cả những gì vừa kể ra
trên đây đều hòa nhập với nhau để trở thành một
tức là "hiện thực" và để tỏa rộng trong bầu
không gian vô tận và trống không xuyên qua tâm
thức của mỗi cá thể con người ngay trong "thực
tại"). Câu nói ấy cũng đã thừa đủ, không cần
phải dông dài gì nữa cả. Nó có thể thay cho tất
cả kinh sách. Thế nhưng đấy lại là một câu mà
những người tu tập theo lối cổ điển (lễ bái,
tụng niệm, cầu xin, chuông mõ vang rền...)
không thể nào hiểu nổi. Chúng ta phải cảm thấy
hổ thẹn về chuyện ấy. Người Trung Quốc còn nói
thêm rằng "tánh không từ bản chất của nó lúc nào
cũng đang hiện hữu, thế nhưng chỉ vì chúng ta
không nhìn thấy mà thôi". Tôi có thể chứng minh
được điều ấy bằng cách lập lại thêm một lần nữa
là ngay trong giây phút này những ai đang ngồi
đây, từ bản chất đều có một tâm thức trống không,
thế nhưng quý vị chẳng những không nhìn thấy nó
mà lại còn khăng khăng không chấp nhận đấy đúng
thật là tánh không.
Hoang Po (Hoàng Bá) luôn cảnh
giác các đệ tử của mình bằng cách đưa ra hình
ảnh một người có một viên kim cương dính trên
trán mà không hề hay biết, và cứ chạy đôn đáo
khắp cả địa cầu và cả các thế giới khác để tìm
cách hiến dâng một xu hầu mong cầu mua được cõi
thiên đường và các phương tiện giúp làm thỏa mãn
tất cả những gì mà mình khao khát. Thật vậy, chỉ
vì không nhìn thấy viên kim cương đang dính trên
trán mình nên chúng ta đành phải chạy khắp nơi
trong thế giới này và cả bên ngoài địa cầu (cõi
cực lạc và chốn thiên đường) để tìm kiếm nó.
Vì thế tôi mong rằng quý vị hãy cố nhìn thấy, dù
chỉ trong một thoáng thật ngắn ngủi, xem có gì
dính trên trán mình hay không, và để hiểu rằng
phải đặt bàn tay mình lên đấy.
Các lời chỉ dẫn giúp khám phá ra viên
kim cương của các vị thầy Trung Quốc còn ẩn chứa
một sự sâu sắc khác nữa, ấy là: "Chẳng cần phải
làm gì cả, cứ đơn giản giữ lấy sự thanh thản
(be still / être tranquille / bình thản... -
cũng có nghĩa là giữ sự yên lặng trong tư thế
bất động của phép ngồi thiền) thì tâm thức
tự nó cũng sẽ trút bỏ tất cả để trở thành trống
không". Câu phát biểu: "Cứ đơn giản giữ lấy sự
thanh thản và chẳng cần phải làm gì cả" trên đây
mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Tâm thức chúng ta
thích nghịch ngợm và ham vui đùa (naughty and
playful). Tâm thức chỉ muốn thoát ra bằng
các cửa ngõ như mắt, tai, mũi, lưỡi và thân xác.
Tâm thức thu góp các đối tượng giác cảm và cất
chứa bên trong nó. Thế nhưng sau đó thì tâm thức
lại tỏ ra quá sức đần độn vì nó cứ để mặc cho
các dhamma của vô minh (sự u mê tâm
thần) lèo lái nó, hậu quả mang lại sẽ toàn
là các hình thức nắm bắt và bám víu vào "cái tôi"
và cái "của tôi". Tình trạng đó gọi là ham thích
nghịch ngợm và không thích sự thanh thản.
"Giữ sự thanh thản" có nghĩa là cứ để
cho các đối tượng giác cảm thâm nhập vào tâm
thức mình, thế nhưng cứ mặc kệ để cho chúng chết,
tương tự như những gợn sóng đập vào bờ. Hãy lấy
một thí dụ, khi mắt trông thấy một hình tướng,
nếu đấy chỉ là một "sự thấy", thì cũng sẽ có
nghĩa là không cho phép các thứ "hình tướng
trông thấy được" thâm nhập vào tâm thức - đối
với các giác quan khác cũng vậy. Nếu không làm
được như thế và các thứ cảm tính như toại nguyện
và bất toại nguyện hiện ra sau đó, thì quý vị
cũng nên cố gắng dừng lại ở đấy! Không được để
cho các thứ cảm tính ấy chuyển thành sự thèm
muốn. Nếu mọi sự dừng lại ở đấy thì vẫn có thể
giữ được sự thanh thản. Trái lại nếu chúng ta cứ
để cho chúng tiếp tục phát triển để biến thành
cảm tính toại nguyện, thì tức khắc ngay vào lúc
ấy "cái tôi" và cái "của tôi" sẽ hiện ra. Hoặc
nếu phản ứng ấy là một cảm tính bất toại nguyện
thì khổ đau sẽ hiện ra. Và đấy có nghĩa là không
giữ được sự thanh thản.
Tóm lại ý nghĩa trong câu "giữ được sự
thanh thản" do Huệ Năng đưa ra rất phù hợp với
tinh thần tu tập do Đức Phật đã giảng dạy, tức
là không được bám víu vào bất cứ thứ gì để xem
đấy là "cái tôi" và cái "của tôi". Nếu chúng ta
không bám víu vào bất cứ thứ gì cả thì lấy gì để
có thể làm xao động và mang lại sự hoang mang
cho chúng ta được. Thay vì chỉ biết chạy theo
các sự vật tạo ra sự bấn loạn cho mình thì chúng
ta nên giữ lấy sự thanh thản.
Chúng ta phải cố gắng tạo ra cho mình
tánh không vì đấy là một thứ gì thật xứng đáng
cho chúng ta hoài vọng. Nếu nói rằng có một thứ
tánh không có thể mang lại sự đình chỉ, sự tinh
khiết, sự minh bạch và sự an bình thì đấy cũng
vẫn còn là một cách nói sử dụng các thuật ngữ
quy ước. Bởi vì nếu đã thực sự là tánh không thì
chỉ toàn là tánh không, chỉ có một thứ duy nhất
ấy mà thôi và nhất thiết nó không phải là một
thứ nguyên nhân nào cả nhằm để mang lại bất cứ
một thứ gì cả. Cái tánh không ấy là Đức Phật, là
Dhamma, là Sangha, là sự tinh khiết, minh
bạch, là sự an bình và niết-bàn... tất cả
đều hiện hữu chính trong cái thể dạng bất biến
ấy. Nếu cứ tiếp tục bảo rằng tánh không là
nguyên nhân tạo ra cái này hay cái kia thì đấy
sẽ là bằng chứng cho thấy chúng ta chưa đạt đến
chỗ tối thượng, bởi vì nếu đã đạt được cấp bậc
ấy thì sẽ chẳng còn có gì để mà làm nữa (nếu
đã đạt được tánh không đích thật thì sẽ không
còn có gì khác để mà đạt được nữa, nếu giả sử
còn có một cái gì khác để đạt được thì nhất định
đấy phải là một sự thụt lùi và sẽ không còn phải
là tánh không nữa). Giữ được sự thanh thản
thì Đức Phật, Dhamma, Sangha, sự tinh
khiết, sự minh bạch, sự an bình, nibbanâ,...tất
cả sẽ hiện hữu trong thể dạng bất biến ấy.
Hoang Po (Hoàng Bá) sử dụng một
phương pháp thật đơn giản để giúp những người
gặp quá nhiều khó khăn trong việc tìm hiểu tánh
không: Ông đưa ra một câu đố như sau: "Hãy thử
nhìn vào một hài nhi trước khi nó được hình
thành". Tôi cũng rất muốn lập lại câu đố ấy với
tất cả quý vị đang ngồi đây. Quý vị thử nhìn vào
tâm thức của một hài nhi trước khi nó được hình
thành để xem cái tâm thức ấy của nó đang ở đâu?
(trước khi hiện hữu tức là trước khi ngũ uẩn
kết hợp để tạo ra một cá thể thì cá thể ấy chưa
có cái tâm thức để có thể hàm chứa "cái tôi",
cũng chưa có năm thứ cấu hợp - ngũ uẩn - để cho
nó có thể gọi đấy là cái "của tôi", do đó cái "tâm
thức" trong thể dạng nguyên sinh trước khi một
cá thể được cấu tạo sẽ phải trống không về những
thứ ấy tức về "cái tôi" và cái "của tôi").
Nếu quý vị giải đáp được câu hỏi trên đây thì
nhất định quý vị cũng sẽ tìm thấy tánh không
thật dễ dàng, chẳng khác gì như quý vị lấy tay
sờ vào viên kim cương trên trán mình.
Kết luận
Tóm lại, chủ đề về tánh không bao hàm
tất cả giáo huấn Phật Giáo bởi vì chính Đức Phật
hít thở bằng tánh không (hiện hữu, trường tồn
và sống trong tánh không). Tánh không vừa là
một sự hiểu biết lý thuyết, vừa là một sự luyện
tập và cũng lại vừa là quả mang lại từ sự luyện
tập ấy. Dù học hỏi bất cứ thứ gì (tông phái
nào, học phái nào, kinh sách nào...) thì
cũng đều phải học hỏi tánh không; nếu luyện tập
thì đấy cũng là phương tiện nhằm giúp mang lại
quả tạo ra bởi tánh không; nếu tiếp nhận được
quả thì đấy cũng sẽ là tánh không, tóm lại là
sau cùng người ta sẽ đạt được một thứ gì đó vô
cùng xứng đáng. Thật vậy, không có gì có thể
vượt hơn tánh không được. Khi đã thực hiện được
nó, tất cả các khó khăn đều chấm dứt. Tánh không
không ở trên, không ở dưới cũng không ở bất cứ
một nơi nào cả. Tôi cũng chẳng biết phải nói gì
hơn, vì thế tốt nhất là tôi xin câm miệng lại!
Đơn giản chúng ta chỉ cần biết rằng tánh không
là niềm phúc hạnh tối thượng (Buddhadasa trở
lại cách nói thường tình và quy ước của những
người thế tục để nói với những người thế tục
nhằm khuyến khích họ "mạnh dạn" bước vào Con
Đường. Thế nhưng trong các câu kết luận sau cùng
dưới đây Buddhadhasa sẽ ném về phía họ một chiếc
dây thòng lọng để lôi họ trở vể con đường thẳng
đưa đến tánh không hay niết-bàn đích thật).
Dù sao thì quý vị cũng cần phải cố
gắng hiểu được một cách đúng đắn các câu sau đây:
"Nibbanâ (niết-bàn) là niềm phúc
hạnh tối thượng", "Nibbanâ là tánh không
tối thượng". Không nên lầm lẫn chữ "phúc hạnh"
trên đây với niềm hạnh phúc mà quý vị có thể đã
từng cảm nhận được - có một học phái mang hình
thức tôn giáo phát triển trước cả thời kỳ của
Đức Phật, đã từng tin rằng nibbanâ là
điểm tột đỉnh của khoái lạc dục tính, tương tự
như trường hợp của một số học phái khác (du-già)
tin rằng các thể dạng tinh tế của thiền định
chính là một niềm hạnh phúc tối thượng. Đức Phật
mong muốn chúng ta phải ý thức được là phải
tuyệt đối lánh xa những thứ ấy dù bằng bất cứ
phương tiện nào: dù đấy là cách chọn thành phần
của sự từ bỏ (nekkhamadhâtu) (xuất gia)
như một phương tiện để tránh khỏi dục tính, dù
đấy là cách chọn thành phần mang tính cách phi-vật-chất
(arupadhâtu / immateriality) như một phương tiện
để tránh khỏi phép lắng sâu vào thiền định để
tìm thấy các thể dạng vật-chất-tinh-tế
(fine-material plane / các loại cảm giác thanh
thoát, lâng lâng và an bình tạo ra bởi thiền
định), và sau hết dù đấy là cách chọn thành
phần của sự tắt nghỉ (nirodhadhâtu) như là
phương tiện để tránh khỏi tất cả mọi thứ mang
tính cách trói buộc (conditionné /
conditioned / có lẽ nên dùng chữ conditionnant
hay conditioning thì thích nghi hơn, bởi vì tất
cả các hiện tượng trong vũ trụ - trong đó gồm có
cả chúng ta - vừa "tự trói buộc" lẫn nhau và
cũng vừa làm nguyên nhân để "tạo tác" ra những
hiện tượng khác - thí dụ như chúng ta có thể tạo
ra đủ mọi thứ chuyện. Do đó thế giới của mọi
hiện tượng không nhất thiết mang tính cách thụ
động mà thật ra cũng rất tích cực và chủ động,
tuy rằng luôn bị chi phối bởi các quy luật
tương-liên và nguyên-nhân-hậu-quả. Chọn thành
phần tắt nghĩ là cách thoát ra khỏi tính cách
vừa "trói buộc" lại vừa "tạo tác" của thế giới
hiện tượng). Đấy chính là cách khiến cho tất
cả mọi thể loại hoang mang tâm thần đều phải hội
tụ (tan biến) vào tánh không.
Dù cho quý vị có thấu triệt được những
gì vừa trình bày hay không, và dù cho quý vị có
đem những thứ ấy ra để luyện tập hay không, thì
đấy cũng là chuyện của quý vị. Bổn phận của tôi
là giải thích mọi sự vật đúng là như thế, còn về
sự hiểu biết và lĩnh hội, cũng như việc luyện
tập thì đấy là trọng trách của từng quý vị.
Hôm nay tôi xin chấm dứt ở đây.
Phần III
Phải luyện tập như thế nào để thường trú trong
tánh không
Trong buổi thuyết trình lần thứ hai
vừa qua, tôi đã giải thích thế nào là tánh không.
Vì thế hôm nay thiết nghĩ chỉ cần trình bày về
các cách luyện tập nhằm giúp thường trú trong
tánh không – một điều mà tất cả mọi người đều có
thể thực hành được, kể cả những người chưa được
học hỏi nhiều về kinh điển Phật Giáo hoặc không
có căn bản học vấn cao.
Nhập đề
Để có thể hiểu được "thường trú trong
tánh không" là gì thì phải tìm hiểu cặn kẽ ý
nghĩa của một vài từ như: "hiểu biết", "thực
hiện", "quán thấy minh bạch", "thường trú trong...",
"trở nên trống không". Dưới đây là cách định
nghĩa thông dụng của các từ này:
Hiểu biết = có nghĩa là hiểu biết tánh
không
Thực hiện = có nghĩa là thực hiện tánh
không
Quán thấy minh bạch = có nghĩa là quán
thấy minh bạch tánh không
Thường trú trong... = có nghĩa là
thường trú trong tánh không
Trở nên trống không = có nghĩa là trở
nên trống không trong tánh không, hay trở thành
tánh không.
Vậy đâu là những khía cạnh khác biệt
và tinh tế có thể giúp phân biệt các từ và các
cách diễn đạt trên đây? Chúng ta phải hiểu như
thế nào về ý nghĩa của từng chữ và từng cách
diễn đạt ấy tùy theo các bối cảnh và trường hợp
khi chúng được nhắc đến?
Tìm hiểu tánh không
Nếu bảo rằng chúng ta "hiểu tánh
không", thì tức khắc mọi người sẽ nghĩ rằng
chúng ta đã từng có dịp được học hỏi và nghiên
cứu về chủ đề này. Thế nhưng nếu không cố gắng
suy nghĩ xa hơn thì chúng ta cũng sẽ không thể
nào hiểu được tánh không một cách đúng đắn được.
Theo ý nghĩa trong Dhamma (Đạo Pháp)
thì chữ "hiểu biết" không phải là một sự hiểu
biết nhờ vào nghiên cứu, nghe giảng, hay nhờ vào
bất thứ gì khác đại loại như thế. Nếu chỉ dựa
vào cách hiểu biết như vừa kể (tức nhờ vào sự
học hỏi) thì dù cho chúng ta có quả quyết
cho rằng mình đã thấu triệt tường tận đi nữa,
thì nó vẫn chưa phải là một sự hiểu biết hoàn
hảo. Theo cách nói thông thường thì các chữ "biết"
và "hiểu" chỉ đơn giản phản ảnh những gì thâu
thập được nhờ vào việc đọc sách, nghe giảng, suy
nghĩ hay cách suy luận lô-gic (sự hợp lý).
Đối với tánh không thì tất cả các cách trên đây
không thể nào giúp mang lại sự hiểu biết đúng
thật được. "Hiểu tánh không" có nghĩa là
ý thức được tánh không với một tâm thức khi nó
đã thật sự trống không (trong thiền học thì
người ta gọi đấy là một sự hiểu biết - hay quán
thấy - bằng trực giác, tuy nhiên phải nói rằng
cách giải thích của Buddhadasa trên đây cụ thể
và dễ hiểu hơn nhiều. Trong thiền học người ta
thường quanh co tìm những phương tiện gián tiếp
để chận đứng sự suy nghĩ và hiểu biết quy ước để
"quán nhận bằng trực giác", thế nhưng nhiều
người bị "khựng" lại vì không thấu triệt được "quán
nhận bằng trực giác" là gì vì đấy cũng chỉ là
một cách bắt họ phải quay trở lại với các thuật
ngữ quy ước). Để có thể hiểu được tánh không
là gì thì phải cảm nhận được tánh không ngay vào
lúc ý thức được nó (bằng trực giác nếu nói
theo thiền học): đấy là giây phút xảy ra một
sự cảm nhận trực tiếp. Đấy là gì mà người ta gọi
là "hiểu biết tánh không".
Cũng có thể xảy ra trường hợp chẳng
hạn như khi được nghe nói đến một thứ gì đó đôi
lần và sau đó thì tiếp tục suy nghĩ thêm về
chuyện ấy, và cuối cùng thì tâm thức nhờ đã quen
với lối suy nghĩ lô-gic của nó nên sẽ cho rằng
chuyện ấy là đúng, và trên thực tế thì cũng có
thể xảy ra trường hợp là đúng thật như thế. Tuy
nhiên đấy cũng vẫn chưa phải là sự hiểu biết mà
chúng ta đề cập trên đây (tức sự "hiểu biết"
trực tiếp vượt lên trên sự học hỏi). Những
gì vừa giải thích cũng chỉ là một sự hiểu biết
và thấu triệt theo ý nghĩa thông thường về các
chữ ấy. Do đó tôi cũng xin quý vị hãy ghi nhớ ý
nghĩa đặc thù của chữ "hiểu biết" trong giáo
huấn Phật Giáo ("hiểu biết" trong giáo huấn
Phật Giáo là một sự "nhận biết" hay "quán thấy"
bằng trực giác vượt lên trên các ngôn từ và các
cách diễn đạt quy ước, chẳng hạn như Ma-ha Ca-diếp
mỉm cười khi Đức Phật cầm một cành hoa đưa lên.
Đức Phật và Ca-diếp cả hai không nói lên một lời
nào).
"Hiểu biết Dhamma" có nghĩa là
Dhamma thật sự đang hiện hữu và đồng thời
chúng ta cũng đang ý thức được sự hiện hữu đó.
Cũng thế, hiểu biết tánh không có nghĩa là ý
thức được tánh không đang hiển lộ. Chính vì thế
mà tôi luôn khuyên mọi người phải thường xuyên ý
thức được tánh không bất cứ lúc nào mà nó hiện
ra trong tâm thức mình, dù đấy chưa phải là tánh
không thật hoàn hảo và toàn diện đi nữa. Thực ra,
tánh không phát lộ nhiều lần trong một ngày, và
dù chưa thật sự đúng là tánh không bền vững và
tuyệt đối đi nữa thì nó cũng vẫn đáng để cho
chúng ta theo dõi và tìm hiểu. Nếu ngay từ đầu
(trong việc luyện tập) mà chúng ta biết
quan tâm đến thể dạng tánh không ấy (dù chưa
được hoàn hảo) thì chúng ta cũng có thể làm
phát sinh ra được một sự thích thú nào đó khi
cảm thấy mình trống không (một thoáng giác
ngộ thật nhỏ), và điều đó cũng sẽ góp phần
không ít giúp chúng ta đạt được tánh không đích
thật (sau này). Tóm lại, "hiểu biết tánh
không" có nghĩa là ý thức được tánh không khi nó
hiển lộ ra (cách giải thích về sự "hiểu biết"
trong Đạo Pháp trên đây vừa giản dị lại vừa
chính xác và nhất là «khéo léo» hơn nhiều so với
cách mà các vị thiền sư sử dụng các công án để
giải thích cùng một sự "hiểu biết" ấy, và để gọi
nó là sự nhận thức, quán thấy, nhận biết... bằng
trực giác. Sự khéo léo và tuyệt vời của
Buddhadasa là cách sử dụng các thuật ngữ rất
thông thường để giải thích những gì thật cao
siêu và khó nắm bắt. Các công án chỉ là những
cách giải thích "không-giải-thích", do dó dù các
công án ấy có giúp ich được nhiều người, thế
nhưng cũng có thể đã làm cho nhiều người khác
rơi vào sự hoang mang nếu họ không đủ sức nắm
bắt).
Đối với cách diễn đạt "nhìn thấy
minh bạch tánh không" (voir clairement la
vacuité / seing emptiness clearly) thì cũng
tương tự như cách hiểu trên đây. Đấy là cách
nhìn thấy ngày càng minh bạch hơn và chính xác
hơn. Khi nào chúng ta ý thức được tánh không của
chính tâm thức thì chúng ta cũng nên suy tư về
nó, tập trung sự chú tâm vào nó cho đến khi nào
đạt được một sự quán thấy trong sáng, sắc bén,
và sự quán thấy ấy cũng sẽ có thể gọi là một sự
"hiểu biết thâm sâu" (Buddhadasa sẽ trình bày
sâu sắc và chi tiết hơn về tánh không hay sự
trống không của chính tâm thức trong các đoạn
sau, vì đấy chính là niết-bàn. Sở dĩ nêu lên ghi
chú này là có ý nhắc người đọc nên lưu tâm đến
sự trống không của chính tâm thức hầu có thể
nhận thấy quá trình về việc luyện tập đưa đến
niết-bàn mà Buddhadasa sẽ trình bày trong phần
dưới đây. Thật thế khi nói đến sự quán thấy tánh
không thì phản ứng tự nhiên của chúng ta là
phóng tưởng ra tánh không của mọi sự vật và quên
rằng chính tâm thức mình cũng là một sự trống
không).
Đối với cách hiểu của câu "thực
hiện tánh không" (raliser la vacuité /
realize the emptiness) thì cũng tương tự như
trường hợp vừa trình bày. Đấy là thời điểm xảy
ra sự thực hiện (sự loé sáng của trực giác).
Đối với cách phát biểu quy ước thì chúng ta có
thể bảo rằng chúng ta thực hiện được tánh
không, thế nhưng trên thực tế thì chính tâm
thức (spirit) thực hiện được việc ấy.
Tri thức (consciousness) giữ vai
trò chủ thể để "ý thức" và "thực hiện" tánh
không (sự chính xác ngày càng gia tăng: "chúng
ta" thực hiện được tánh không, thế nhưng thật ra
thì tâm thức thực hiện, và trong cái tâm thức ấy
thì thành phần tri thức giữ vai trò thực hiện.
Nếu suy nghĩ kỹ hơn nữa thì chúng ta cũng sẽ
nhận thấy tính cách cấu hợp của các chữ "chúng
ta", "tâm thức"... và kể cả "tri thức" nếu xem
tánh không là một thứ gì khác mà nó thực hiện
được. Sự sai lầm của chúng ta là cách "vơ đũa cả
nắm" để căn cứ vào đấy - tức là các thứ cấu hợp
- như là một tổng thể để tự nhận diện nó là "cái
chúng ta" hay "cái của chúng ta").
Thuật ngữ "thường trú trong tánh
không" (demeurer dans la vacuité /
abiding with the emptiness) được dịch từ
tiếng Pa-li sunnatavihara, và có nghĩa là
"sống và hít thở bên trong sự ý thức thường
xuyên về tánh không".
Sau hết là các câu "là tánh không"
hay "trở thành trống không" (être vide
/ being empty) có nghĩa là gì? Các câu này
hàm chứa ý nghĩa là không có một cảm tính nào về
"cái tôi" hay cái "của tôi" cả, vì chúng chỉ là
một thứ cảm tính phát sinh từ sự bám víu (ngược
lại với tánh không). Loại bỏ được cảm tính
ấy tức là "trở thành trống không". Thế nhưng cái
gì trống không? Xin nhắc lại, đấy là tâm thức
trống không (nếu bảo rằng "tôi" trống không
hay "chúng ta" trống không thì "cái tôi" vẫn còn
lù lù ra đấy), nó đã trút bỏ được cảm tính
về "cái tôi" và cái "của tôi" trong cả hai thể
dạng thô thiển cũng như tinh tế của nó. Nếu tâm
thức khi đã trở thành trống không đến một mức độ
mà thể dạng tinh tế của "cái tôi" cũng không còn,
thì lúc đó có thể nói rằng tâm thức chính "là
tánh không". Cách nói đó cũng trùng hợp với chủ
trương của các học phái Phật Giáo khác (các
học phái thiền học), vì theo các học phái
này tâm thức là tánh không, tánh không là tâm
thức; tánh không là Đức Phật, Đức Phật là tánh
không, tánh không là Đạo Pháp, Đạo Pháp là tánh
không. Tất cả cũng chỉ là một. Hằng hà sa số
những thứ mà chúng ta hiểu biết cũng chỉ là tánh
không. Tôi sẽ cố gắng tiếp tục phân tích thêm
dưới đây về chữ "trống không" hầu làm sáng tỏ
hơn về chữ này.
Vậy tánh không là gì
Chữ "trống không" hay chữ "tánh không"
thật sự là để chỉ định hai thứ khác nhau, hay
đúng hơn là hai đặc tính khác nhau.
Trước hết nó chỉ định đặc tính của tất
cả mọi hiện tượng (xin nhắc lại đây cũng là
cách hiểu chủ yếu về chữ tánh không theo các học
phái Đại Thừa). Tôi xin quý vị hãy nhớ rằng
tất cả mọi hiện tượng đều là tánh không. Ngoài
ra cũng nên ghi nhớ thêm là mỗi khi tôi nói đến
"tất cả mọi hiện tượng" thì đấy có nghĩa là bao
gồm tất cả các vật thể vật chất cũng như tâm
thần; hoàn toàn tất cả, từ một hạt bụi cho đến
nibbanâ (khi nói đến tất cả mọi hiện
tượng thì phản ứng đầu tiên của chúng ta là nghĩ
đến những gì xảy ra chung quanh chúng ta, đấy
chẳng qua bởi vì cảm tính về "cái tôi" chi phối
chúng ta quá mạnh - có đúng thế hay không? Nếu
sự kiềm tỏa của "cái tôi" được nới lỏng bớt đi
thì chúng ta cũng sẽ có thể phản ứng tự nhiên
hơn và dễ dàng hơn để hiểu rằng chính mình và
những gì hiển hiện ra trong tâm thức mình cũng
chỉ là các hiện tượng, và cũng không khác gì như
các hiện tượng "vô nghĩa" và "trống không" khác
trong vũ trụ). Phải ý thức thật rõ là một
hạt bụi cũng hàm chứa tánh không hay là sự vắng
mặt của cái ngã, tức là sự vắng mặt của một thực
thể trường tồn và độc lập. Vàng, bạc, kim cương
cũng đều hàm chứa chung một đặc tính về sự vắng
mặt ấy của một thực thể bất biến. Các vật thể
tâm thần - như tư duy, giác cảm, xúc cảm - đều
mang đặc tính của tánh không, tức vắng mặt một
thực thể trường tồn và độc lập (độc lập ở đây
có nghĩa là tự nó không hiện hữu được, đấy chỉ
là hậu quả của sự tương tác và tương kết giữa
nhiều hiện tượng khác tạo ra nguyên nhân đưa đến
sự hiện hữu của nó, và sự hiện hữu tạm thời đó
của nó cũng chỉ là một hiện tượng được sinh ra
và nó sẽ tương tác và nối kết với các hiện tượng
khác để trở thành một nguyên nhân khác làm phát
sinh ra các hiện tượng khác). Việc nghiên
cứu và luyện tập Dhamma (Đạo Pháp) cũng
mang cùng một đặc tính như thế tức là sự vắng
mặt của một thực thể trường tồn và độc lập. Đối
với việc thực hiện được Con Đường, quả của Con
Đường và niết-bàn, thì tất cả cũng mang
cùng một đặc tính ấy - chỉ vì chúng ta không
quán thấy được mà thôi. Một con chim sẻ bay
ngang trên đầu chúng ta cũng mang đặc tính của
tánh không, thế nhưng chỉ vì chúng ta không nhìn
thấy cái tánh không ấy của nó mà thôi. Tôi mong
rằng quý vị hãy luôn suy nghĩ đến điều này để
chiêm nghiệm, quán xét, suy tư, cho đến khi nào
có thể nhận thấy được là tất cả đều hàm chứa cái
đặc tính ấy của tánh không và để hiểu rằng trước
đây chúng ta hoàn toàn mù tịt về sự kiện ấy. Tóm
lại thì ai là những người đáng bị chê trách? Có
phải là chính chúng ta hay không? Chẳng hạn như
câu đố - còn gọi là công án - rất quen thuộc của
thiền học Zen như sau: "Một cội thông già cũng
tự bảo rằng mình là Đạo Pháp". Cái cội thông ấy
biểu lộ cái tánh không của nó, cái tánh không mà
nó chia sẻ với tất cả mọi thứ khác, thế nhưng
mọi người lại không nhận ra được sự biểu lộ đó,
không hiểu được những lời giáo huấn của
Dhamma (Đạo Pháp) về sự kiện đó, cũng không
nghe thấy những lời tuyên bố đó của tánh không.
Đấy là ý nghĩa tiên khởi nhất của chữ "trống
không" liên hệ đến tất cả mọi hiện tượng.
Ý nghĩa thứ hai của chữ "trống không"
liên quan đến các đặc tính của tâm thức khi tâm
thức đã loại bỏ được mọi sự nắm bắt và bám víu.
Quý vị nên ghi nhớ điều này: tâm thức trong
trạng thái bình thường luôn trống không về "cái
tôi", thế nhưng sở dĩ nó không ý thức được là nó
trống không chẳng qua là vì nó thường xuyên bị
bấn loạn và bị bao phủ bởi các ý nghĩ mang tính
cách khái niệm (pensée conceptuelle /
conceptual thought) sinh ra và được nuôi
dưỡng bởi những sự tiếp xúc giác cảm. Tóm lại là
tri thức không ý thức được tánh không của chính
nó và cả tánh không của tất cả mọi hiện tượng.
Thế nhưng mỗi khi tâm thức trút bỏ hoàn toàn
được những gì bao phủ nó - tức là sự u mê và các
thứ nắm bắt và bám víu vào các ý nghĩ sai lầm -
và tránh xa được hẳn những thứ ấy, thì nhờ vào
sự không-bám-víu ấy mà nó sẽ trở thành tánh
không.
Do đó có hai thứ tánh không tương quan
với nhau: "tánh không của tâm thức không-bám-víu"
và "tánh không của tất cả mọi hiện tượng" (tánh
không của "nội tâm" và tánh không "bên ngoài").
Vì sự kiện tất cả mọi hiện tượng thật sự đều
mang đặc tính về sự vắng mặt của "cái tôi", tức
là một thực thể trường tồn và độc lập hầu có thể
nắm bắt hay bám víu vào đấy, nên chúng ta cũng
nhờ đó mà có thể nhìn thấy được sự thật về tánh
không. Thật vậy, nếu chúng không trống không về
cái ngã của chúng thì không thể nào có thể nhận
ra được cái tánh tánh không của chúng (một sự
suy luận vô cùng lô-gic). Tuy thế, dù cho
tất cả mọi hiện tượng đều trống không thế nhưng
chúng ta lại nhìn thấy chúng không-trống-không.
Tâm thức bị che khuất bởi một màn bao phủ kín
mít làm cho nó bị u mê nên khiến nó cứ thế mà
nắm bắt tất cả và bám víu vào tất cả để rồi xem
đấy là cái ngã. Một hạt bụi cũng không tha! Một
hạt bụi dù bé tí xíu cũng vẫn cứ được xem là một
thực thể độc lập, và vì thế nên một "người khác"
là một "một người khác" nhất định không phải là
"tôi". Chúng ta dán vào trán của "người ấy" một
nhãn hiệu nào đó, và dán luôn các nhãn hiệu khác
cho các thứ chung quanh chúng ta và cả bên trong
chúng ta - đây là cái này, đó là cái kia - và cứ
thế chúng ta nhìn mọi sự vật đều hàm chứa một
thực thể trường tồn và độc lập (cách "suy
nghĩ" và "quán thấy" của chúng ta là cách phá vỡ
hiện thực ra từng mảnh vụn để xác định và đặt
tên cho từng "mảnh một" để xem đấy là "từng thứ"
một, mang một "thực thể" riêng biệt).
Chính vì lý do đó nên thật hết sức
quan trọng phải thấu triệt một cách đúng đắn chữ
"trống không" là gì. Một cách vắn tắt thì trước
hết đấy có nghĩa là hiểu được rằng tánh không
chỉ là một đặc tính của tâm thức khi nó
không bám víu vào bất cứ thứ gì (đặc tính của
một tâm thức thực hiện được tánh không).
Khía cạnh thứ nhất ấy của tánh không là một đối
tượng của sự hiểu biết mà nó tự thực hiện được
cho chính nó. Đối với khía cạnh tánh không thứ
hai thì đó là đặc tính của chính tâm thức khi
nó trống không và đã thực hiện được sự thật
của tánh không (tâm thức đã trở thành chính
tánh không). Vì thế khi tâm thức nhìn thấy
tánh không của tất cả mọi sự vật thì tâm thức tự
nó sẽ tan biến hết và chỉ còn lưu lại tánh không
(khi mọi hiện tượng trở thành trống không
trong tâm thức thì tâm thức cũng là một hiện
tượng nên nó cũng sẽ trở thành trống không như
sự trống không của những hiện tượng khác mà nó
quán nhận được, những gì còn lại là một sự trống
không toàn diện và tuyệt đối). Tâm thức sẽ
trở thành chính tánh không và sẽ nhận thấy tất
cả chỉ toàn là trống không, từ một hạt bụi cho
đến niết-bàn. Khi nào thực hiện được một
cách hoàn hảo sự thực đó thì các vật thể vật
chất, con người, thú vật, thời gian, không gian,
tức là mọi thể loại dhamma, tất cả đều sẽ
tan vào tánh không. Đấy là ý nghĩa của chữ "trống
không".
Sự tắt nghỉ của cái tôi
Những gì tôi trình bày cho đến đây có
lẽ cũng đủ để giúp quý vị tự mình hiểu được hay
nhận thấy được rằng ý nghĩa của chữ "trống không"
cũng tương đương như sự tắt nghỉ tuyệt đối của "cái
tôi" và cái "của tôi", sự hủy diệt hoàn toàn cảm
tính cho rằng mình là một cá thể con người tách
rời ra khỏi thế giới.
"Cái tôi" chỉ là một sự tạo dựng tâm
thần. Nó sẽ hiện ra khi có sự nắm bắt và bám víu
xảy ra trong tâm thức. Thế nhưng chúng ta lại
không nhìn vào sự tạo dựng ấy như là một thứ gì
trống không mà chúng ta lại trông thấy nó như là
"cái tôi", lý do là vì sự nắm bắt và bám víu ấy
trong tâm thức bị chi phối bởi u mê. Vì tâm thức
u mê - tức là không nhận biết được sự thật - thì
tự nhiên sẽ sinh ra bám víu. Chúng ta không hề
cố tình tạo ra sự bám víu hay chủ tâm làm phát
sinh ra "cái tôi". Khi tâm thức u mê thì không
thể nào tránh khỏi sẽ cảm nhận được đủ mọi thứ
hiện tượng hiện ra với tính cách là những thực
thể độc lập, không nhất thiết bắt buộc phải cần
đến một ý định mang tính các chủ tâm nào cả (nếu
"cái tôi" là một sự "cố tình" thì tương đối sẽ
dễ loại bỏ nó, thế nhưng nếu "cái tôi" là một
hậu quả hiện ra một cách tự nhiên từ một tâm
thức u mê thì sẽ rất khó để có thể loại bỏ được
nó).
Nếu thực hiện được một sự hiểu biết
đích thật và nhìn thấy mọi sự vật đúng thật là
như thế thì cũng nhờ đó sẽ nhận ra tánh không
cũng chẳng phải là gì khác hơn là sự tắt nghỉ
hoàn toàn của cái ngã. Do đó cũng có thể nêu lên
nguyên tắc cho rằng sự "trống không" cũng chính
là sự tắt nghỉ tuyệt đối của cái ngã. Vì thế đến
đây chúng ta cũng nên tìm hiểu xem "sự tắt nghĩ
tuyệt đối" thật sự có nghĩa là gì.
Một sự tắt nghỉ không tuyệt đối và một
sự tắt nghỉ tuyệt đối sẽ khác nhau như thế nào?
Sự tắt nghỉ không tuyệt đối chỉ đơn thuần là một
sự thay đổi hình tướng; thí dụ một hình tướng
cho thấy rõ ràng là nó tắt nghỉ, thế nhưng trên
thực tế thì nó vẫn còn lưu lại một mầm mống nào
đó làm nguyên nhân cho sự phát sinh ra một hình
tướng khác, và do đó sự nắm bắt và bám víu vẫn
còn tồn lưu trong tâm thức (để bám víu vào
cái mầm mống ấy).
Khi tri thức nhận biết sự thật - tức
là sự hiểu biết Dhamma - chưa đạt đến chỗ
tối hậu thì nó cũng sẽ chưa hội đủ khả năng để
làm chấm dứt được một số hình thức bám víu nào
đó trong một số trường hợp nào đó. Thí dụ một số
người có thể sẽ cho rằng hạt bụi bé tí xíu chẳng
có một thực thể độc lập nào cả, nhưng một con
chim sẻ thì nhất định là phải có. Một số người
khác thì cho rằng cây cỏ và thú vật không có một
thực thể độc lập, nhưng con người thì có. Trong
số những người cho rằng con người là một thực
thể độc lập hàm chứa một cái ngã, thì cũng có
một số cho rằng thân xác là vô ngã nhưng tâm
thức thì hữu ngã. Đấy là những gì gọi là một sự
tắt nghỉ không tuyệt đối (không được trọn vẹn
và hoàn toàn). Một số thể dạng thì tắt nghỉ
thế nhưng đối một số thể dạng khác thì vẫn có
người xem là có cái ngã (thí dụ như trường
hợp mà Buddhadasa vừa nêu lên trên đây: thân xác
tắt nghỉ thế nhưng "linh hồn" thì trường tồn nhờ
có "cái ngã", đấy là những sự hiểu biết chưa đạt
đến chỗ tối hậu), và kể cả trường hợp có
người mặc dù cho rằng tâm thức không có cái ngã
thế nhưng lại xem một số phẩm tính nào đó của
tâm thức thì có cái ngã, thí dụ như đạo đức
chẳng hạn. Hoặc là người ta cũng có thể cho rằng
đạo đức không có "cái tôi" thế nhưng những gì
vượt ra khỏi thời gian, thí dụ như thành phần
nibbanâ, thì hữu ngã (cũng xin phép được
nhắc lại là nibbanâ - niết-bàn - cũng chỉ là một
đối tượng cảm nhận của tâm thức, do đó nó cũng
chỉ là một hiện tượng như các hiện tượng khác,
vì thế nó phải là vô ngã). Các hình thức tắt
nghỉ không được hoàn toàn như trên đây luôn luôn
lưu lại một hạt mầm (có thể liên tưởng đến "vết
hằn" của nghiệp trên dòng lưu chuyển của tri
thức). Tóm lại là chỉ khi nào xóa hết tất cả
mọi thứ, kể cả thành phần nibbanâ, như là
những thứ không hàm chứa cái ngã, thì đấy mới là
một sự tắt nghỉ đích thật và tuyệt đối của cái
ngã.
Tóm lại sự "tắt nghỉ tuyệt đối của cái
ngã" có nghĩa là sẽ không còn một sự hiển hiện
nào của một tri thức hàm chứa "cái tôi" nữa.
Trên phương diện thực hành thì đấy là cách phải
ngăn chận sự hiển hiện của nó, và phải dựa vào
đấy để luyện tập thật đúng đắn và kiên trì. Sự
ngăn chận không cho trí thức hàm chứa "cái tôi"
có thể hiển hiện cũng có thể gọi là sự "tắt nghỉ
tuyệt đối của cái ngã". Một sự luyện tập đúng
đắn không chê trách được là một sự luyện tập
nhằm loại bỏ vĩnh viễn tri thức về một cái ngã -
nói một cách khác là không cho sự ý thức đó có
thể hiện lên bất cứ lúc nào.
Sự sinh của cái tôi
Những gì đã được giải thích đến đây có
lẽ cũng đã đủ để mỗi người có thể hiểu được thế
nào là "sự sinh ra cái tôi". Sự sinh ở đây không
liên quan gì đến sự sinh ra đời của một hài nhi,
mà là sự sinh bên trong bầu không gian rộng lớn
của tâm thức. Do đó tôi cũng xin quý vị cố gắng
lưu ý là cảm tính cho rằng "đây là tôi" hiện ra
- tức sinh ra bên trong tâm thức - là sự sinh mà
chúng ta đang đề cập, đấy không phải là sự sinh
của một thân thể vật chất (dụng ý là không
nên lầm lẫn với một sự tái sinh thuộc chu kỳ
luân hồi).
Cũng nên hiểu thật rõ rằng dù cho thân
thể vật chất được sinh ra từ trong bụng mẹ thế
nhưng người ta vẫn có thể xem sự sinh thể xác ấy
hoàn toàn vô nghĩa nếu nó không được kèm thêm
một sự sinh mang tính cách tâm thần: tức là sự
sinh của tri thức về cái ngã. Thân thể sẽ chỉ là
một khối vật chất cho đến khi nào có sự nắm bắt
và bám víu vào một cái ngã được ghép thêm vào
đấy. Chỉ khi nào có sự ghép thêm sự nắm bắt và
bám víu ấy thì sự sinh ra cái khối thịt mới có
thể gọi là toàn vẹn (thật ra não bộ của một
hài nhi đã bắt đầu "hoạt động" từ trong bụng mẹ,
thế nhưng sự bám víu vào "cái tôi" của nó, tức
là sự sinh ra cái ngã, chỉ xảy đến sau này khi
đứa bé tiếp xúc với bối cảnh chung quanh và khi
các cơ quan giác cảm của nó hoạt động một cách
hữu hiệu và trọn vẹn giúp cho tâm thức nó ý thức
được "cái" tôi của chính nó). Vào thời điểm
khi sự ý thức về cái ngã hiện ra với đứa bé, thì
khi đó người ta mới có thể nói là nó đã thực sự
"sinh ra". Tóm lại khi nào cảm tính đó vắng mặt
thì con người "chết" và trở thành một khối thịt.
Khi nào không có bất cứ một thứ cảm tính hay
giác cảm nào kích động sự xuất hiện của cái ngã
thì khi đó không có sự sinh - và đấy cũng tương
tự như một người đã chết. Thế nhưng khi vừa xảy
ra một sự tiếp xúc với một đối tượng giác cảm và
tri thức về cái ngã hiện ra, thì tức khắc một "sự
sinh" mới cũng sẽ xảy ra, và không lâu sau đó
cũng sẽ xảy đến một "cái chết" mới. Do đó người
ta có thể nói rằng mỗi con người được "sinh ra
nhiều lần" trong một ngày.
Phép luyện tập để có thể sống trong
tánh không là: phải luyện tập như thế nào để tri
thức về cái ngã không hiện ra được trong cái
khối thịt ấy (để cắt đứt sự sinh). Đấy là
điều chủ yếu nhất. Phần còn lại là phải luyện
tập như thế nào và vào những lúc nào, tức là
trong những bối cảnh như thế nào. Các điểm này
sẽ được giải thích trong phần dưới đây.
Nhằm giúp cho việc trình bày được dễ
hiểu hơn, chúng ta sẽ phân chia việc luyện tập
căn cứ vào ba bối cảnh hay hoàn cảnh sau đây:
1) những lúc bình thường
2) những lúc có sự tiếp xúc giác cảm
xảy ra
3) và lúc xảy ra cái chết vật chất
1- Luyện tập trong những lúc bình thường
Tại sao lại phải luyện tập trong những
lúc bình thường tức là những khi chưa xảy ra sự
tiếp xúc với các đối tượng giác cảm? "Những lúc
bình thường" là những lúc sinh hoạt đơn độc một
mình, thí dụ như khi làm các công việc thường
nhật hay là trong những lúc thiền định nghiêm
chỉnh. Trong những lúc như thế chúng ta thường
không gặp các khó khăn gây ra bởi các thứ tiếp
xúc giác cảm. Đấy là những lúc đang làm một việc
gì đó thật đơn giản, chẳng hạn như đọc sách,
hoặc suy nghĩ về một chuyện gì đó - điều thiết
yếu là không được để cho tâm thức bị xao động
bởi một sự tiếp xúc giác cảm nào. Trong những
lúc ấy chúng ta sẽ suy nghiệm và tìm hiểu xem
mọi sự vật trống không về cái gì và phải làm thế
nào để trút bỏ tất cả những gì làm cho tâm thức
bị u mê, hầu có thể giải thoát cho nó. Nên suy
tư về các chuyện ấy, tập luyện cho chính mình,
hỏi han những người chung quanh và thường xuyên
cùng nhau thảo luận. Phải thật kiên trì.
Ngoài ra cũng có thể thực hiện bằng
một con đường tắt dành cho những người thế tục,
nhất là những người chưa có dịp quy y hoặc học
hỏi Kinh Sách, kể cả những người không biết đọc.
Dù sao thì cách luyện tập này cũng mang cùng một
ý nghĩa và mục đích như đã được trình bày trên
đây: tức là hiểu biết về tánh không của tất cả
mọi sự vật. Đối với nhóm người này, chúng ta
không nên nói đến tánh không bởi vì họ sẽ chẳng
hiểu gì cả. Chúng ta chỉ nên đơn giản tập cho họ
biết suy tư về những gì đáng để chiếm hữu và
những gì đáng để trở thành như thế. Thí dụ trong
số những thứ như: kiếm được nhiều tiền, nhiều
của cải, danh vọng, uy quyền... thì có thứ nào
đáng cho mình được trở thành như thế và đáng cho
mình đạt được nó hay không?
Có được nó và được trở thành như thế
Trước hết chúng ta phải nắm vững các
chữ "có được nó và được trở thành như thế" (avoir
et être / having and being) mang ý nghĩa như
thế nào. Các chữ này liên quan trực tiếp đến sự
nắm bắt và bám víu. Các chữ "có được nó" hay "chiếm
hữu được nó" có nghĩa là chúng ta nắm bắt một
thứ gì đó và xem đấy là của mình. Thí dụ chúng
ta đem kim cương và nữ trang chất đầy một gian
phòng thế nhưng không nắm bắt một thứ nào cả,
không hề có một mảy may cảm tính nào về sự chiếm
hữu những thứ ấy, tương tự như chúng ta chẳng hề
có chúng. Cái đống đá quý đó đang sờ sờ ra đấy
thế nhưng đối với chúng ta thì nó chẳng mang một
giá trị gì cả. Trái lại nếu nắm bắt vào khái
niệm về một "cái tôi" thì tức khắc sẽ phát sinh
ra ngay các ý nghĩ như sau: "Tôi có nó, nó là
của tôi" - như thế gọi là "có nó" hay "chiếm hữu"
được nó. Nên hiểu các chữ này đúng theo ý nghĩa
trên đây.
Tôi lại xin lập lại với quý vị thêm
một lần nữa câu hỏi đã được nêu lên trước đây:
vậy thì cái gì đáng cho chúng ta có nó, chiếm
hữu được nó? Cái gì sau khi đã trở thành của quý
vị mà không mang đến cho quý vị khổ đau? Tuyệt
đối bất cứ gì hiện hữu đều sẽ thiêu đốt, đâm
thủng, bóp ngạt, cột chặt, bao phủ và đè bẹp
người chiếm hữu được nó, ngay vào lúc mà nó trở
thành sở hữu của người ấy (tuyệt vời thay một
sự nhận xét! Chiếm hữu những gì "từ bên ngoài"
sẽ đem đến cho mình khổ đau là một điều khá dễ
để nhận thấy. Chiếm hữu những gì "từ bên trong"
tương đối ít có ai chú ý: thật thế thân xác và
tâm thức "của chúng ta" đang bốc cháy và sẽ
thiêu rụi chúng ta chỉ vì chúng ta đang nắm bắt
và bám víu vào chúng như là chính "chúng ta".
Chúng ta có bao giờ lo buồn, hy vọng, sợ hãi,
yêu thương, mặc cảm, hãnh diện, soi gương ngắm
nghía dung nhan của mình hay không? Ấy là "cái
tôi" và cái "của tôi" đang thiêu đốt chúng ta
đấy). Thế nhưng nếu như cái đống đá quý chất
đầy trong gian phòng không gợi lên bất cứ một
cảm tính chiếm hữu hay xác định nào (là của
tôi), thì cũng sẽ không có một vết bỏng nào,
một sự bóp ngạt nào hay môt sự đè bẹp nào cả.
Đấy là điều mà người ta gọi là "không có nó" và
"không trở thành như thế". Vậy thì những gì có
thể giải thoát chúng ta khỏi khổ đau khi chúng
ta chiếm một cái gì đó để làm sở hữu hay là khi
chúng ta trở thành như thế?
Mỗi khi mà cảm tính có được nó hay
được trở thành hiện ra thì dù là mình đang ở
trong gian phòng chất đầy đá quý hay đang ở giữa
một khu rừng hoang hoặc đang ở vào phía bên kia
địa cầu, thì chúng ta cũng không thể nào tránh
được khổ đau. Nếu quý vị có con cái sống ở nước
ngoài và nếu quý vị cứ bám víu vào cái tôi của
mình thì quý vị cũng sẽ hiểu rằng dù con cái ở
nơi xa xôi thế nhưng chúng vẫn có thể làm cho
quý vị mất ăn mất ngủ, kể cả gây ra tình trạng
khủng hoảng tinh thần cho quý vị?
Do đó tôi khuyên quý vị nên thường
xuyên suy nghĩ xem những gì đáng cho mình bám
víu và những gì đáng cho mình được trở thành như
thế. Thử hỏi có chăng một thứ gì đó mà khi mình
chiếm hữu được nó hay được trở thành như thế mà
lại không mang lại khổ đau cho mình hay không?
Khi nào chúng ta nhìn thấy được sự thật - rằng
không có bất cứ một thứ gì trong thế giới này
đáng để cho chúng ta phải khổ sở vì các hậu quả
mang lại từ cảm tính "được có nó" hay "được trở
thành như thế" - thì khi đó chúng ta mới có thể
trở nên dửng dưng đối với tất cả mọi sự vật được.
Dù phải làm một việc gì - thu dọn đồ đạc, sắp
xếp công việc, gom góp các vật dụng, tiêu xài...
hoặc bất cứ thứ gì khác, thì chúng ta cũng chỉ
nên làm những gì cần phải làm. Có nghĩa là không
nên để cho tâm thức cảm thấy rằng nó có được cái
này hay trở thành như thế kia! Quý vị nên giữ
tâm thức luôn phù hợp với nguyên tắc: "hành động
nhưng không có chủ thể hành động" (l'action
sans l'acteur / doerless doing):
Hành động được hoàn tất, thế nhưng không hề có
một chủ thể nào hành động cả
Con đường đã đi hết, thế nhưng chẳng hề có một
người nào bước đi trên con đường
Các lời phát biểu ấy của Đức Phật là
nhằm để gợi lên hình ảnh của một vị A-la-hán,
một Sinh Linh đã đạt được sự thực hiện, đã tu
tập Dhamma, đã đi trọn Con Đường Cao Quý
(Bát Chánh Đạo) và đã đạt được nibbanâ.
Thế nhưng nơi vị ấy không hề còn lưu lại bóng
dáng của một người tu tập hay của một người đang
đi nào cả.
Nguyên tắc "hành động nhưng không có
chủ thể hành động" phải được thấu triệt và đem
ra áp dụng vào đời sống thường nhật của mình. Dù
đang ăn, đang thiền định, đang ngủ, đang đi hay
làm việc, hoặc làm bất cứ một công việc gì, thì
chúng ta cũng phải cẩn thận không để cho cảm
tính của cái tôi hiện lên, tức là cảm tính cho
thấy chính "tôi" đang hành động, đang ăn, đang
làm việc, v.v... Chúng ta phải thường xuyên trút
bỏ "cái tôi" ra khỏi tâm thức mình, hầu tánh
không có thể trở thành một thể dạng tự nhiên
giúp chúng ta luôn ý thức được rằng không có bất
cứ gì đáng cho chúng ta có nó hay để trở thành
bất cứ một thứ gì.
Chúng ta có thể vừa tu tập Dhamma
vừa hoàn tất một cách bình thường các công việc
hằng ngày dù chúng có bắt buộc chúng ta phải
thường xuyên di chuyển hết nơi này đến nơi khác
cũng thế. Không có bất cứ một lý do gì bắt buộc
chúng ta phải tách rời Dhamma ra khỏi
cuộc sống thường nhật của mình. Hòa nhập cả hai
thứ (Đạo Pháp và cuộc sống thường nhật)
vào nhau là một phép tập luyện ở vào một cấp bậc
thật cao. Nếu sự chú tâm luôn hiện diện và kết
hợp với sự ý thức minh bạch về vô ngã, thì chẳng
những mọi công việc sẽ được hoàn tất một cách
hoàn hảo và không sai lầm, mà đồng thời
Dhamma sẽ còn được phát huy thêm và sẽ trở
nên vững vàng hơn trong tim mình. Không tìm cách
để có được cái này cũng không tìm cách để chiếm
giữ cái kia phải là thể dạng bình thường của tâm
thức.
Tìm cách đối phó để không "trở thành
như thế" là một việc tương đối dễ dàng. Quý vị
hãy suy nghĩ như thế này: có một thể dạng nào mà
sau khi đã đạt được nó mà nó lại không mang lại
đau khổ hay không? Phải luôn tự hỏi như thế để
suy tư, đấy là một phương pháp thật hữu hiệu.
Chữ "trở thành như thế" (être / being)
cũng giống như chữ "có được nó" (avoir /
have) hay "chiếm hữu" được nó (obtenir /
gain) chỉ mang một ý nghĩa nào đó trong
trường hợp "trở thành như thế" đi kèm theo một
sự nắm bắt và bám víu vào ý nghĩ "tôi là như thế"
(je suis / I am). Nếu đang ở giữa một
gian phòng chất đầy vàng thế nhưng chúng ta
không phát lộ một cảm tính nào về sự chiếm hữu
cả, thì cũng sẽ chẳng có một ý nghĩ nào về sự
kiện "có được nó" hay "trở thành như thế". Dù
trên phương diện luật pháp, các quyền tư hữu
cũng như các quy ước do tập thể xã hội thiết đặt
có mang một giá trị nào đi nữa, thế nhưng chúng
ta cũng nên cố gắng từ trong thâm tâm không để
cho những thứ sự thật tương đối ấy lừa phỉnh
mình khiến cho mình cứ tưởng đấy là những sự
thật tuyệt đối (một câu nói đáng để suy nghĩ:
chớ nên bám víu vào cái quyền sở hữu của mình,
vào các quy ước xã hội, vào luật pháp được cho
là để bảo vệ mình, bởi vì sự bám víu ấy cũng chỉ
là một hình thức ngây thơ và dại dột, một cách
tự lừa phỉnh mình mà thôi).
Thí dụ, khi một người phụ nữ sinh ra
một đứa bé, thì theo cách suy nghĩ thường tình
đương nhiên có thể bảo rằng người phụ nữ ấy đã
trở thành một người mẹ. Bởi vì nếu không tự cho
rằng mình là một người mẹ thì mình cũng sẽ không
phải là một người mẹ (trên thực tế mình là
một người mẹ thế nhưng nếu không bắt tâm thức ý
thức rằng mình là một người mẹ thì mình cũng sẽ
không phải là một người mẹ). Hoặc ngược lại,
tự lừa dối mình bằng cách tưởng tượng ra rằng
mình là một người mẹ thì cũng không phải vì thế
mà mình sẽ trở thành một người mẹ (tức là các
cách bám víu của con người để tự nhận diện lấy
mình như thế này hay thế nọ, và đấy là sự vận
hành đặc thù của tâm trí con người khác hơn với
thú vật). Con gà mái mẹ, con chó cái mẹ, con
bò cái mẹ, và đủ mọi thứ mẹ khác nữa, tất cả tự
xem mình là mẹ (một cách tự nhiên - hay "tự
nó" là như thế - không cần phải suy nghĩ hay bám
víu gì cả) và xem tình thương con mình là
một sự tự nhiên, không cần phải tạo ra cảm tính
ấy để bám víu vào nó: đấy chỉ là bản năng tự
nhiên của sinh vật (nhắm để giải thích thêm
về cách lý luận khá khúc triết và dự nhận xét
tinh tế trên đây, nên cũng xin mạn phép kể hầu
người đọc một câu chuyện nhỏ như sau: một hôm
tôi trông thấy trong ngôi vườn của tôi có một
con chim sáo vừa nhảy cuống quýt trên một cành
cây thấp vừa phát ra những tiếng kêu rất thống
thiết và bất thường. Lấy làm lạ tôi bèn bước đến
gần gốc cây thì thấy trong một cái thùng lớn
trống không dùng để hứng nước mưa tưới vườn đặt
bên cạnh gốc cây, có một con chim sáo con rơi
trong đó, tuy đã đủ lông nhưng chưa biết bay.
Tôi đưa tay định lật nghiêng cái thùng để giúp
nó thoát ra ngoài. Chưa kịp nắm vào miệng thùng
thì con chim mẹ bay sầm vào mặt tôi để tấn công,
tôi vội vung hai tay để đỡ. Con chim sợ hãi bay
trở lại cành cây và tiếp tục kêu. Lúc ấy tôi mới
có thể lật nghiêng chiếc thùng để giải thoát cho
chim con. Sau khi ra thoát thì nó chui vào một
bụi cây gần đó, chim mẹ bay theo rồi đứng sát
bên cạnh chim con và nhìn tôi. Câu chuyện trên
đây cho thấy chỉ cần bản năng thúc đẩy thì một
con chim nhỏ xíu cũng dám liều lĩnh chống lại
con người để bảo vệ con nó. Con người thì ngoài
bản năng còn tạo ra thêm cho mình đủ mọi thứ nắm
bắt và bám víu dưới đủ mọi hình thức phức tạp -
thí dụ con mình đẹp nhất, thông minh nhất, ngoan
ngoãn nhất, mình hãnh diện là một người mẹ,v.v...
- khiến tạo ra thêm cho mình mọi thứ khổ đau từ
thô thiển cho đến thật tinh tế).
Những ai quán thấy được sự thật sẽ
vượt lên một mức độ cao hơn. Họ biết sẽ phải làm
thế nào để loại bỏ mọi sự nắm bắt và bám víu
phát sinh từ sự u mê không cho phép mình nhìn
thấy được sự thật tuyệt đối (tình thương con
phát sinh từ bản năng là một sự tuyệt đối, cảm
tính cho rằng mình "là một người mẹ" (être /
being) là một sự bám víu. Dù sao thì cách lập
luận và thí dụ do Buddhadasa nêu lên trên đây
cũng khá tinh vi và khó nắm bắt, người đọc có
thể suy nghĩ thêm một chút xíu sẽ nhận thấy được
sự khác biệt giữa bản năng tự nhiên và sự bám
víu).
Cũng có thể sẽ có một số người phụ nữ
phản kháng lại rằng: "Tại sao không được xem
chúng tôi là mẹ? Đấy là những gì vô cùng tàn
nhẫn và vô tình! Có phải là quý vị muốn chúng
tôi không được thương yêu con cái của chúng tôi
hay sao?". Quý vị nên lắng nghe thật kỹ nhé, nào
có phải đấy là tất cả những gì mà tôi muốn nêu
lên đâu. Tôi chỉ muốn nói rằng mình vẫn có thể
là một người mẹ, hành động như một người mẹ với
tất cả sự quán thấy trong sáng về sự thật tối
hậu của mọi sự vật. Không nhất thiết phải nắm
bắt và bám víu vào cảm tính ấy (cho mình là
một người mẹ) thì khi đó mình mới là một
người mẹ, vì đấy chỉ là những gì sẽ mang lại khổ
đau. Nào có cần đến phải cảm thấy bất hạnh, lòng
mình tan nát và nước mắt đổ xuống đâu (mới
cảm thấy được mình là một người mẹ). Niềm
khổ đau đó phát sinh từ tình trạng không còn
biết phải làm thế nào để trở thành một người mẹ,
và cho thấy mình chỉ là một người mẹ hành động
không thích nghi với Dhamma (xin được chắp
tay kính phục tư tưởng và sự nhận xét của một
người tu hành).
Do đó, khi đã là một người mẹ thì
đương nhiên sẽ phải gánh chịu cái khổ đau của
một người mẹ; khi đã là một người con trai hay
một người con gái thì mình cũng sẽ khổ đau cái
khổ đau của một người con trai hay một người con
gái; khi đã là một người cha thì mình cũng phải
khổ đau cái khổ đau của một người cha. Quý vị
hãy tự hỏi như thế này: được làm mẹ có phải là
một sự vui thích hay không? Được làm cha có phải
là một sự vui thích hay không? Trong số quý vị
nếu có những ai trọng tuổi và đã nuôi con mình
đến lúc trưởng thành thì hãy nghĩ lại xem sao.
Cứ thử trả lời câu hỏi ấy đi? Nếu không trả lời
được thì biết đâu quý vị cũng có thể nhún vai để
biểu lộ một sự đồng tình nào đó. Được làm mẹ có
phải là một sự thích thú hay không? Được làm cha
có phải là một sự thích thú hay không? Đấy là
những điều mà quý vị cần phải suy nghĩ thật sâu
xa, để có thể ý thức được chúng một cách thật
giản dị và tự nhiên trong những lúc mà tâm thức
quý vị không bị xao động bởi một sự tiếp xúc
giác cảm nào.
Có thể xem là một sự vui sướng khi được trở
thành một thứ gì đó, dù cho đấy là bất cứ gì hay
không
Được trở thành một người chồng có phải
là một sự vui sướng hay không? Được trở thành
một người vợ có phải là một sự vui sướng hay
không? Quý vị hãy tự vấn xem sao. Những ai đã
từng kinh nghiệm trong các vai trò ấy tất sẽ
phải lắc đầu.
Được làm một người đàn ông có phải là
một sự thích thú hay không? Được làm một người
phụ nữ có phải là một sự thích thú hay không?
Nếu quý vị biết phát huy sự chú tâm của mình
từng bước một thật đúng đắn và khéo léo nhằm
giúp mình nhận biết được sự thật của mọi sự vật,
và nếu sự chú tâm ấy trở nên thật tinh tế và
sáng suốt, thì quý vị cũng sẽ phải lắc đầu để
trả lời rằng không. Làm một người phụ nữ sẽ phải
khổ đau với tư cách một người phụ nữ; làm một
người đàn ông sẽ phải khổ đau với tư cách một
người đàn ông.
Được làm một đứa bé có phải là một sự
vui sướng hay không? Được làm một người trưởng
thành có phải là một sự vui sướng hay không?
Những đứa trẻ con có thể sẽ bảo rằng: "Có chứ,
thích lắm", thế nhưng hiện nay chúng ta đang là
những người người lớn, hoặc là những người đã
trọng tuổi, và nếu nhìn lại phía sau thì thử hỏi
chúng ta còn có thể bảo đấy là một sự vui sướng
hay không? Nếu cứ nắm bắt và bám víu thì một đứa
bé sẽ phải gánh chịu khổ đau của một đứa bé, một
người lớn sẽ gánh chịu khổ đau của một người lớn
(những gì trình bày trên đây là những hình
thức biến dạng của khổ đau, bởi vì sự sinh chính
nó đã là nguyên- nhân-cội-rễ của tất cả mọi thứ
khổ đau rồi).
Nếu đẩy sự suy luận xa hơn: thì được
làm con người có phải là một điều đáng để mong
ước hay không? Có đáng để trở thành một con
người hay không? Con người mà quý vị đang có, có
phải là một điều đáng để có nó hay không? Hay
tốt hơn nên trở thành một con thú? Dù trở thành
bất cứ gì, một vật thể hoặc một thứ gì ngược lại
với nó - thì thứ nào tốt hơn hết? Được làm người,
làm một sinh linh nơi địa ngục, làm một thiên
nhân trên trời - thì thử hỏi tất cả những thứ ấy
có đáng để mình trở thành hay không?
Tất cả những câu hỏi trên đây sẽ giúp
chúng ta, nhờ vào sự hiểu biết sáng suốt của
mình, để nghĩ lại xem là mình đã đánh giá đúng
vị thế và vai trò của sự nắm bắt và bám víu
trong mối tương quan giữa chúng ta và các sự vật
cũng như của cả thế giới hay không? Những ai đã
nhận thấy được những đau khổ mang lại từ sự nắm
bắt và bám víu tất sẽ tiếp tục lắc đầu, bởi vì
trở thành một con người sẽ phải chịu đựng những
khổ đau của một con người, hoặc trở thành một
thiên nhân thì cũng sẽ phải chịu đựng những khổ
đau của một thiên nhân. Nếu chúng ta trống không,
không tự xem mình là bất cứ một thứ gì cả, không
phải là một con người cũng chẳng phải là một
thiên nhân, thì khổ đau của một con người cũng
như khổ đau của một thiên nhân cũng sẽ không có.
Nếu chúng ta là con người hay là các thiên nhân
bị kiềm tỏa bởi những xung năng của sự nắm bắt
và bám víu, thì đấy có phải là một sự vui sướng
hay không? Tất cả những ai đã thực hiện được sự
thật cũng sẽ lắc đầu cho biết là không.
Chúng ta hãy thử suy luận xa hơn nữa
để xem là có đáng để được làm một người tốt hay
không? Có đáng để được làm một người xấu hay
không? Nếu nêu lên câu hỏi: ai muốn được làm một
người tốt, tất sẽ có nhiều cánh tay đưa lên. Thế
nhưng những người này nào có hiểu được là bám
víu vào sự kiện được làm một người tốt thì cũng
sẽ phải gánh chịu khổ đau của một người tốt,
chẳng khác gì như một người xấu phải gánh chịu
khổ đau của một người xấu. Nếu nắm bắt chính
mình và bám víu vào cảm tính được "trở thành"
một cái gì đó hay một nhân vật nào đó, thì mình
cũng sẽ chẳng tìm thấy được hạnh phúc bởi vì
chính cái thể dạng hay nhân vật mà mình được trở
thành cũng sẽ bị nghiền nát dưới sức nặng của
chính thể dạng ấy hay nhân vật ấy. Nếu có một
vài thể dạng khổ đau không phát lộ một cách hiển
nhiên - bởi vì chỉ cần một chút thích thú hay
xao lãng thật nhỏ nhoi xen vào cũng đủ để che
khuất được cái khổ đau ấy - thì thật ra đấy cũng
chỉ là một tình trạng bị đánh lừa bởi sự vui
sướng hay các thứ xao lãng khác, vì thế người ta
vẫn cứ muốn được có nó, được là như thế, được
chiếm hữu nó hoặc tranh đấu để đạt được nó với
tham vọng sẽ được trở thành như thế này hay thế
nọ.
Thật thế, thiên nhiên luôn tìm cách
đánh lừa và gài bẫy chúng ta khiến chúng ta phải
rơi vào khổ đau. Sau đây là một thí dụ thật hiển
nhiên: sự phát tán và lan truyền của một loài
sinh vật - nói cách khác là sự sinh sản - là một
hình thức khổ đau. Thế nhưng đấy cũng chỉ là một
cách đánh lừa thật khéo léo (của thiên nhiên)
khiến mọi người nhất quyết xem sự sinh đẻ là một
niềm hân hoan (khoa học phân tích được quá
trình của sự sinh, một nhà tư tưởng nhìn thấy
được bản chất của sự sinh ấy, một người tu hành
nhìn thấy được khổ đau tàng ẩn và bàng bạc bên
trong cái bản chất ấy của sự sinh). Nếu họ
nhìn thấy được sự thật thì tất nhiên là họ sẽ
không để cho thiên nhiên diễu cợt mình đến như
thế.
Được trở thành một người tốt có phải
là một sự vui sướng hay không? Được trở thành
một người xấu có phải là một sự vui sướng hay
không? Hãy cứ suy nghĩ đi!
Tuy nhiên cũng có thể là nên suy nghĩ
như thế này: có đáng để được trở thành một người
may mắn hay không? Có đáng để được trở thành một
người thiếu may mắn hay không? Những ai hấp tấp
và thiếu thận trọng sẽ có thể vội vàng trả lời
ngay là được may mắn thì nhất định sẽ phải thích
thú lắm chứ, thế nhưng những ai đã từng trải qua
hết một thời kỳ may mắn thì sẽ lắc đầu để bảo
đấy là không. Một người được may mắn sẽ phải
gánh chịu khổ đau của một người tưởng rằng mình
may mắn, chẳng khác gì như một người kém may mắn
phải gánh chịu khổ đau của một người kém may mắn.
Sau hết là các câu hỏi: Có đáng để trở
thành một người hạnh phúc hay không? Có đáng để
trở thành một người bất hạnh hay không? Số người
trả lời rằng mình muốn được hạnh phúc sẽ có thể
còn nhiều hơn cả số người đã trả lời cho câu hỏi
đã được nêu lên trên đây (tức là muốn được
may mắn). Thế nhưng những người đã từng được
hạnh phúc và đã trải qua cái hạnh phúc đó sẽ lắc
đầu để trả lời là không. Rất có thể quý vị cũng
không hiểu được rõ lắm các lời giải thích trên
đây, do đó tôi cũng xin lập lại như sau: những
người sung sướng cũng phải gánh chịu khổ đau của
những người sung sướng (chính Đức Phật cũng
đã từng chịu đựng "khổ đau" trong lâu đài do vua
cha dựng lên để giam hãm Ngài, những người trên
thiên đường và nơi cõi cực lạc có thật sự "sung
sướng" theo đúng với sự tưởng tượng của những
người còn đang sống trên quả đất này hay không?
Hay họ cũng chỉ là những người bị giam hãm trong
sự bám víu vào "cái tôi" của họ, dù họ đang ở
trên địa cầu này hay sẽ ở vào những nơi nào khác?).
Nói thế để quý vị luôn nhớ rằng chính xã hội đã
áp đặt các thứ tiêu chuẩn mang lại hạnh phúc, và
quả quyết rằng những ai có tiền bạc, uy quyền,
những ai có khả năng cung phụng lạc thú cho mình
là những người hạnh phúc. Thế nhưng nếu suy xét
cẩn thận hơn thì chúng ta cũng sẽ nhận thấy là
những người ấy thật ra rất khổ đau: dường như có
một cái gai đâm vào da thịt của sự lạc thú của
họ. Kể cả đối với cái phúc hạnh thật tinh tế
phát sinh từ sự tập trung thật mạnh và lắng sâu
vào thiền định của những người du-già cũng thế,
nếu cảm tính cho rằng "tôi đang hạnh phúc" hiện
ra thì đấy cũng sẽ là cách mà những người du-già
tự lấy một cái gai để đâm vào da thịt của cái
hạnh phúc ấy của mình và làm cho chính mình phải
khổ đau. Những ai nắm bắt hạnh phúc mang lại từ
việc thiền định và để bám víu vào đấy thì cũng
sẽ không tránh khỏi được mọi thứ khổ đau.
Đấy là lý do cho thấy tại sao Đức Phật
đã khuyên chúng ta lánh xa lạc thú của những vật
thể vật-chất cũng như phi-vật-chất. Đấy là hai
thứ chướng ngại (còn gọi là phiền não thuộc
khái niệm gọi là "Thập Đại Phiền Não" hay
samyojana, đã được nêu lên trong một ghi chú
trên đây) đầu tiên ngăn chận con đường đưa
đến Giác Ngộ. Nếu bám víu vào ý nghĩ được hạnh
phúc, dù đấy là một thứ hạnh phúc liên quan đến
Dhamma (Đạo Pháp) đi nữa (nắm
bắt và bám víu vào Đạo Pháp như là một nguồn
hạnh phúc) thì nó cũng sẽ tạo ra một cái gai
thật tinh tế đâm vào da thịt khiến mình không
sao còn nhận biết được Dhammma đích thật
là gì nữa (đấy chỉ là những hình thức tín
ngưỡng cực đoan).
Cũng có thể xảy ra trường hợp nắm bắt
nibbanâ và xem đấy là "cái tôi" hay là
cái hạnh phúc "của tôi". Trong trường hợp đó tất
nhiên người ta sẽ nghĩ rằng: tôi đã đạt được
nibbanâ, thế nhưng đấy cũng chỉ là một cách
nói, bởi vì sự kiện ấy không thể nào có thể xảy
ra được. Bất cứ ai còn vướng mắc trong sự nắm
bắt và bám víu sẽ không thể nào đạt được
nibbanâ (nếu nói rằng "tôi" đạt được niết bàn
thì ngay chính chữ "tôi" ấy cũng đã tố cáo một
sự u mê nào đó, một sự bám víu nào đó, hay nói
cách khác là một sự biểu lộ rõ rệt của cái ngã).
Nếu một người nào đó thật sự nghĩ rằng mình đang
hưởng niềm phúc hạnh của nibbanâ, thì đấy
cũng chỉ là một thứ nibbanâ giả mạo. Bởi
vì nibbanâ đích thật do nơi bản chất của
nó (là tánh không) sẽ là một thứ gì không
thể nào có thể nắm bắt được bằng cách như thế.
Vậy thì chỉ còn cách là đành phải loại
bỏ hạnh phúc vậy! Hãy gạt nó sang một bên, dù
đấy là hạnh phúc của trẻ con, của người lớn, của
thanh niên thiếu nữ, của người trọng tuổi; của
những kẻ quyền thế, của những vị thiên nhân, của
những người hành thiền cao thâm (du-già)
và kể cả hạnh phúc của nibbanâ (niết-bàn).
Nếu chúng ta nghĩ rằng: "tôi đang hạnh phúc",
thì đấy cũng đủ để phải gánh chịu khổ đau. Những
ai đã thực hiện được sự thật sẽ ý thức được điều
đó (để mà tránh không bám víu vào hạnh phúc).
Ngược lại những người khác sẽ lâm vào một tình
trạng hỗn loạn triền miên: họ sẽ đấm đá nhau vì
tham vọng, vì thèm muốn của cải, uy quyền, lạc
thú; hoặc trên một bình diện khác thì họ cũng có
thể sẽ ra sức phấn đấu với đầy tham vọng mong
cầu sẽ đạt được sự quán thấy sâu xa và sự lắng
sâu vào thiền định hay là những thứ thực hiện
tâm linh khác, đến độ đôi khi cũng phải đưa họ
vào dưỡng trí viện. Những gì vừa trình bày thiết
nghĩ cũng đã đủ để nói lên mọi thứ nguy hiểm của
sự nắm bắt và bám víu vào hạnh phúc. Có thể trẻ
con không hiểu đấy là gì, thế nhưng người lớn
thì phải ý thức được điều ấy chứ!
Suy tư về khổ đau của sự sinh
Đến đây chúng ta hãy tìm hiểu những
câu song hành và đối ngữ khác (Buddhadasa
mượn cách trình bày và diễn đạt trong Pháp Cú
Kinh - Dhammapada). Có phải sinh ra là một
sự vui mừng hay không? Có phải cái chết là một
sự vui mừng hay không? Nếu phải chọn một trong
hai thứ thì quý vị sẽ chọn thứ nào? Trong hai
thứ thì thứ nào thích thú nhất: sinh ra hay là
chết? Nếu thật sự thấu triệt được Dhamma
là gì thì nhất định là chúng ta sẽ lắc đầu để tỏ
cho biết là mình chẳng muốn thứ nào cả. Thế
nhưng thông thường hơn thì không ai mong muốn
cái chết, và nhất định chỉ muốn được sinh ra.
Người ta muốn có một sự sinh không có cái chết;
hơn thế nữa: người ta muốn cuộc sống phải trường
cửu, hoặc nếu phải chết thì cũng phải được tái
sinh. Đấy chẳng phải là những thứ nắm bắt và bám
víu hay sao? Chỉ khi nào không còn sự sinh và
cái chết và tâm thức đã trở nên trống không, thì
khi đó mới có sự chấm dứt của khổ đau.
Tại sao quý vị lại không suy tư về
những thứ ấy trong những lúc đang nằm hay đang
đi, đấy là những lúc mà tâm thức của quý vị
không bị xao động bởi những sự tiếp xúc giác cảm
(thật ra thì cũng có đấy chứ, chỉ bớt đi mà
thôi). Ngay cả những lúc đang làm một việc
gì đó hay trở thành một thứ gì đó thì tại sao
quý vị lại không thử nhìn mọi sự dưới khía cạnh
trên đây? (để xem sự hiện hữu này của mình có
phải là khổ đau hay không?).
Trong những lúc khổ sở vì bổn phận làm
mẹ khiến cho mình phải kiệt quệ, thì tại sao quý
vị lại không tự thú nhận rằng đấy là những gì
quá ư bực bội? (sinh ra hay được sinh ra thì
cũng đều là khổ đau). Dù làm chồng, làm vợ,
hay bất cứ thứ gì mà tôi đã nêu lên trên đây -
khi đã bị bấn loạn và phải đối đầu với những
chuyện nghịch ý mình vì lý do bắt buộc phải trở
thành một thứ gì đó (sự nhịn nhục, giả
vờ...chẳng hạn) - thì tại sao quý vị lại
không bao giờ cảm thấy đấy là những thứ vô cùng
khó chịu ? Quý vị cố gượng để tỏ cho thấy đấy là
một sự thích thú, trong lúc mà nước mắt cứ muốn
trào ra!
Quý vị nên suy tư sâu xa về sự kiện
không một ai muốn có sự sinh cũng như sự
không-sinh (non-naissance / non-birth) cả
bởi vì cả hai thứ ấy đều không phải là tánh
không. Dù chúng ta có bám víu vào sự không-sinh
thì đấy cũng không phải là tánh không. Sinh và
không-sinh là một chủ đề khó thấu triệt nhất và
cũng là một thể dạng khó luyện tập nhất (tìm
được sự giải thoát ngay trong cuộc sống này).
Giữa sinh và không-sinh, chúng ta không nên chọn
thứ nào cả, vì nếu không nắm bắt chúng và cũng
không bám víu vào chúng thì chúng ta sẽ tìm thấy
tánh không (con đường trung đạo của Long Thụ
cũng tương tự như thế: không-sinh thế nhưng cũng
không-phải-là-không-sinh, vị trí của nó nằm ở
giữa sự sinh và sự không-sinh - đấy cũng là một
cách tiếp cận với tánh không nói chung bằng
phương pháp tứ đoạn luận của Long Thụ).
Chúng ta đã đề cập khá đầy đủ về hai
chủ đề "có được nó và trở thành như thế" và "không
có được nó và cũng không trở thành như thế". Vậy
tiếp theo đây chúng ta hãy thử tìm hiểu về "sinh"
và "không-sinh" xem sao. Tất nhiên là chúng ta
sẽ bám víu ngay vào thể dạng không-sinh! Thế
nhưng khi đã bước vào giai đoạn cuối cùng của
việc luyện tập thì chúng ta cũng sẽ phải bắt
buộc đạt đến trình độ mà sự hiểu biết về
không-sinh của chúng ta sẽ tan biến hết và không
hóa thành một đối tượng nắm bắt hay bám víu nào
cả. Chính đấy là cách khiến cho tánh không hiện
ra, cái tánh không ấy không phải là sinh cũng
không phải là không-sinh, hoặc nói cách khác thì
đấy là sự không-sinh đích thật, hay là sự tắt
nghỉ tuyệt đối (tức là niết-bàn). Nếu
giải thích như thế thì người ta cũng có thể sẽ
hiểu lầm là chúng ta muốn chẻ sợi tóc làm tư
(cách trình bày này khá gần với phép lý luận
lo-gic gọi là tứ đoạn luận của Long Thụ,
đã nhắc đến trong ghi chú trên đây), thế
nhưng ý nghĩa của tất cả các thứ ấy thật hết sức
minh bạch: có một sự khác biệt thật rõ rệt giữa
hai thể loại không-sinh ấy (một thể loại
"không-sinh" hàm ý là một sự đối nghịch với
"sinh", một thể loại "không-sinh đích thật" biểu
trưng cho "tánh không" hay "niết-bàn") . Vì
thế nên cũng xin quý vị đừng bám víu vào ý nghĩ
cho rằng nibbanâ là không-sinh (đối
nghịch với sinh), là một thứ gì đó thật
tuyệt vời và kỳ diệu dù là bất cứ ở nơi này hay
nơi kia (tức đấy chỉ là một hình thức bám
víu), và cũng không được hiểu lầm rằng
samsara (bánh xe xoay vần giữa sự sinh và
cái chết) là một chuỗi dài tái sinh đầy
thích thú (vì bị đánh lừa bởi vô minh).
Tuyệt đối không được nắm bắt và bám víu vào bất
cứ nơi nào (dù đấy là cõi niết-bàn hay cõi
luân hồi) thì mới có thể có được tánh không
đích thật và sự không-sinh đích thật.
Trên đây là phép luyện tập mà chúng ta
phải thường xuyên mang ra thực hành vào những
lúc bình thường.
1. Luyện tập trong khi thiền định
Những gì mà chúng ta sắp nói đến là
cách mang ra áp dụng một khía cạnh kỹ thuật cao
nhất gọi là kammatthâna thuộc một phép
luyện tập thiền định đúng nghĩa của nó gọi là
samadhivipassana, đấy là cách thiền định nhằm
giúp chúng ta quán xét những hậu quả tai hại do
sự nắm bắt và bám víu mang lại, và thật ra thì
đấy cũng chỉ là cách làm thế nào để trở nên
trống không. Chủ yếu của phép luyện tập này là
phải học hỏi các lời chỉ dạy. Nếu một người
không có một kiến thức đầy đủ thì sẽ khó lòng có
thể chuyển sang phần thực hành, do đó cần phải
tuân theo những điều chỉ dẫn và học hỏi những
lời giải thích. Dù sao thì những thứ ấy cũng có
thể học được trong sách hay vào những dịp được
nghe giảng. Tất cả những gì liên quan đến "phép
luyện tập trong những lúc bình thường" cũng có
giá trị trong khi thiền định.
2- Luyện tập lúc xảy ra sự tiếp xúc giác cảm
Cơ hội thứ hai giúp luyện tập về tánh
không là lúc xảy ra sự tiếp xúc với một đối
tượng giác cảm. Đấy là cách luyện tập để khi có
các hình tướng trông thấy được, âm thanh, mùi,
vị và các vật thể sờ mó được, tiếp xúc với mắt,
tai, mũi, lưỡi và thân thể, thì chúng ta có thể
giữ cho những sự tiếp xúc ấy phải dừng lại ở sự
tiếp xúc, và giác cảm thì phải dừng lại ở giác
cảm, như chúng ta đã từng có dịp nói đến nhiều
lần (có thể xem lại đoạn nói đến
paticcasamuppada trong Phần I của quyển sách,
tức trong buổi thuyết giảng đầu tiên). Cách
để cho sự tiếp xúc dừng lại ở tiếp xúc là một
cách luyện tập cao độ. Ở cấp bậc bình thường
(có nghĩa là đối với những người không tu tập)
thì sự tiếp xúc sẽ trở thành một giác cảm rất
nhanh, tuy nhiên vẫn còn có thể làm cho sự diễn
tiến của quá trình này phải dừng lại không cho
phép nó lôi kéo theo sự thèm muốn hay bám víu
vào "cái tôi" hay cái "của tôi".
Một vài vị giảng sư có tài hùng biện
trong chốn chùa chiền hay các đại học Phật Giáo
cho rằng việc làm cho quá trình diễn tiến phải
dừng lại ở cấp bậc tiếp xúc không thể nào thực
hiện được, luôn luôn sẽ phải đưa đến giác cảm.
Thế nhưng thật ra thì đấy chỉ là cách hiểu căn
cứ vào ý nghĩa của ngôn từ và chữ viết mà thôi,
sự thật thì hoàn toàn khác hẳn. Thật thế Đức
Phật đã từng nói: khi nhìn thấy hình tướng thì
phải xem đấy chỉ là sự trông thấy; khi ngửi thấy
mùi thì đấy chỉ sự ngửi thấy; khi nếm thấy vị
thì đấy chỉ là một sự nếm thấy; khi sờ vào các
vật thể thì đấy chỉ là một sự đụng chạm. Nếu quý
vị thực hiện được như thế, thì sẽ không có cái
gọi là "quý vị", và trong trường hợp đó thì ego
tức là cái "ngã" cũng sẽ không phát sinh ra được
(thí dụ nghe thấy một âm thanh, ngửi thấy một
mùi, và hoàn toàn ý thức được sự nghe thấy và
ngửi thấy, thế nhưng không để cho những thứ "giác
cảm" ấy gây ra bất cứ một "cảm nhận" mang tính
cách toại nguyện hay bất toại nguyện nào, bởi vì
khi đã sinh ra các "cảm tính" toại nguyện hay
bất toại nguyện thì phải có một "cái tôi" để "cảm
thấy" là mình toại nguyện hay bất toại nguyện,
và tiếp theo đó sẽ phát sinh ra sự bám víu hay
ghét bỏ phát hiện từ "cái tôi" ấy). Đấy là
sự chấm dứt của khổ đau, là tánh không vững bền.
Chỉ cần theo dõi cách phản ứng khi
chúng ta nhìn thoáng qua một vật thể mang tính
cách "trung hòa" không gây ra một sự chú ý nào
đối với mình thì cũng có thể nhận ra sự kiện
tiếp xúc không đưa đến một cảm tính nào như đã
được trình bày trên đây. Chẳng hạn như khi nhìn
vào một khung cửa sổ hay một cửa ra vào và ý
thức được đấy chỉ là một sự tiếp xúc thị giác,
không kèm theo một cảm tính toại nguyện hay bất
toại nguyện nào cả. Khi mà các hình tướng, âm
thanh, mùi, vị hay các vật thể sờ mó được tiếp
xúc với các giác quan của mình thì quý vị hãy
chận đứng chúng ngay ở cấp bậc ấy, tương tự như
trường hợp của các thí dụ trên đây.
Hãy tưởng tượng ra một người lính đang
ngủ gật bên cạnh một khẩu đại pháo. Nếu có một
quả đạn được bắn đi thì người lính ấy dù có nghe
thấy tiếng nổ nhưng không cảm thấy gì cả và vẫn
cứ tiếp tục ngủ. Dù quả đại pháo có nổ to như
thế nào thì hắn vẫn không hề nao núng. Đấy chỉ
là tiếng nổ do khẩu đại pháo phát ra và tiếng nổ
ấy tiếp xúc với tai của hắn và chấm dứt sau đó
(nếu người lính bám víu vào "cái tôi" của
mình và để cho sự tiếp xúc với tiếng nổ trở
thành một "cảm tính", tức là một sự "diễn đạt",
thì sẽ hắn sẽ "phân biệt" được ngay là tiếng nổ
phát ra từ một quả đại pháo do "phe ta" bắn đi
hay do "phe địch" bắn lại. Nếu là do "phe ta"
bắn đi thì sẽ gây ra sự "bất toại nguyện" ngay
vì hắn bị đánh thức, hắn sẽ cau có và có thể sẽ
phát ra một tiếng chửi thề. Tuy nhiên nếu đấy là
do "phe địch" bắn lại thì hắn sẽ tỉnh ngủ ngay
và phóng chạy, đấy là sự "bám víu" vào "cái tôi"
của hắn và vợ con "của hắn" kích động hắn co giò
phóng chạy. Cả hai trường hợp đều là dukkha tức
là khổ đau, phát sinh từ sự "tiếp xúc" của tai
với một tiếng nổ và sự "bám víu" vào tiếng nổ ấy).
Quý vị cũng nên tập phản ứng theo cách
như thế (tức giống như người lính tiếp tục
ngủ khi nghe thấy tiếng nổ) mỗi khi quý vị
nghe thấy tiếng của một người đàn ông, của một
phụ nữ, hay tiếng của một người thân thiết nào
đó chẳng hạn? Nếu quý vị thành công thì đấy có
nghĩa là quý vị có một khả năng đáng kể. Trong
lãnh vực này thì thú vật vượt xa hơn chúng ta
nhiều bởi vì chúng không bị chi phối quá nặng nề
bởi các thứ hành trang tâm thần dư thừa của con
người. Nếu muốn đạt đến tột đỉnh thành công thì
chúng ta phải luyện tập như thế nào để sự tiếp
xúc sẽ đơn giản dừng lại ở sự tiếp xúc.
Nếu quý vị không thành công và đành
chịu thua thì quý vị vẫn còn một cơ hội khác tức
là dừng lại ở cấp bậc giác cảm (thay vì ở cấp
bậc tiếp xúc). Ngay khi phát sinh ra sự cảm
nhận thích thú hay khó chịu của sự toại nguyện
hay bất toại nguyện thì phải làm cho chúng chấm
dứt ngay, không để cho các thứ khát vọng ấy kịp
thời bùng lên khi chúng bị khích động bởi các sự
thèm muốn hay bám víu.
Trên đây là phép luyện tập về tánh
không khi xảy ra sự tiếp xúc giác cảm.
3- Phép luyện tập khi cái chết xảy đến
Cũng sắp hết giờ rồi, do đó tôi xin đề
cập ngay đến giai đoạn luyện tập thứ ba giúp
chúng ta ý thức về tánh không: đấy là lúc tâm
thức sắp tắt, thân xác suy sụp và đang đi đến
cái chết. Làm thế nào để có thể luyện tập nhằm
để quán thấy được tánh không vào giai đoạn này?
Để thực hiện việc luyện tập này, chúng
ta phải xem sự tắt nghỉ tuyệt đối như là một
nguyên tắc căn bản cho sự sống (tức là thể
dạng không còn cái chết).
Cái chết tự nhiên của người lớn tuổi
là một sự kiện hiển nhiên và chắc chắn. Người ta
thường bảo rằng một người khi đã cao tuổi thì
cũng sẽ không còn sống được bao lâu nữa. Vậy
trong quãng thời gian ngắn ngủi còn lại người ta
sẽ còn có thể làm được gì hay không? Đối với
những người lớn tuổi mà trước đây chưa hề được
học hỏi nhiều tất sẽ không còn đủ thì giờ và khả
năng để học thêm gì nữa, tuy nhiên họ có thể dựa
vào nguyên tắc của sự tắt nghỉ tuyệt đối đề cập
trên đây để luyện tập nhằm chuẩn bị kịp thời
trước cái chết.
Quý vị cần tập để giúp mình ý thức
được một cách hiển nhiên rằng: được làm một con
người cũng chẳng phải là một sự thích thú gì,
được làm một nhân vật lừng danh cũng chẳng phải
là một sự thích thú gì, được làm một người cha,
một người mẹ, một người nam, một người nữ, một
người chồng, một người vợ, một người giúp việc
nhà, một vị chủ nhân, một người thắng cuộc, một
kẻ thất bại, một người khả ái, một người hung dữ,
một người may mắn, một người kém may mắn... -
thì cũng chẳng có một ai vui thích cả, và cũng
chẳng có gì gọi là hay ho cả. Phát xuất từ điểm
đó, tâm thức sẽ biết buông bỏ mọi sự mong chờ,
mọi niềm ước vọng sẽ có được cái này hay trở
thành bất cứ gì khác. Chẳng phải là người ta vẫn
thường hay nói là cứ "tha hồ ước mơ" được làm
A-la-hán hay sao? Đấy không có nghĩa là phải rút
lui và chọn sự lười biếng. Hoàn toàn không đúng
như thế! Đấy chỉ là sự vắng mặt của mọi thứ hy
vọng nơi những người khôn ngoan và sáng suốt khi
họ đã nhận thấy rằng trong thế giới này hay
trong bất cứ một thế giới nào khác, không còn có
bất cứ gì để cho mình có thể thèm muốn hay là
được có nó, hoặc để trở thành như thế. Tuyệt đối
không có bất cứ gì đáng để có hay là để trở
thành bất cứ gì, trong bất cứ thời điểm nào và ở
bất cứ nơi nào.
Vậy thì tâm thức của một người không
còn một sự mong đợi hay ước vọng gì nữa sẽ phải
chọn cho mình một hướng đi như thế nào? Cái tâm
thức đó sẽ không chọn một con đường nào cả, bởi
vì nó nhận thấy không có bất cứ gì đáng để thèm
muốn, và đấy cũng là mục tiêu mà nó quy định để
căn cứ vào đấy mà thực hiện sự tắt nghỉ cho
chính nó. Bởi vì khi nào tâm thức không còn chất
chứa một sự thèm muốn có được một thứ gì hay trở
thành bất cứ gì, thì nó cũng sẽ tan biến trong
tánh không. Đấy cũng chính là một phương pháp
khéo léo để đánh lừa thiên nhiên trên một khía
cạnh nào đó. Khi giây phút của cái chết đã thật
sự gần kề thì chúng ta phải phát lộ trong tâm
thức mình cảm tính rằng chẳng có bất cứ gì, dù
là ở bất cứ nơi nào (dù là trên địa cầu này
hay ở một cõi nào khác cũng thế) đáng để có
nó hay được trở thành bất cứ gì khác. Nếu cảm
tính đó phát lộ trong tâm thức của một người
trong lúc chết thì người ấy nhất định sẽ đạt
được nibbanâ (niết-bàn) nhờ vào
chính cái chết của mình. Quả đấy là một chuyện
mua bán quá lợi: bởi vì chỉ cần đầu tư thật ít
thế nhưng lãi thì lại rất nhiều!
Cứ thử mời các vị học giả cao thâm đến
để họ trông thấy tận mắt một tâm thức đương đầu
với cái chết bằng một cảm tính đích thật không
còn bất cứ gì, ở bất cứ nơi nào, đáng để có nó
hay được trở thành bất cứ gì, sẽ là như thế nào.
Cái chết là một sự tan rã kèm theo những thành
phần của sự tắt nghỉ. Tâm thức sẽ chuyển thành
thành phần tắt nghỉ nhờ vào cái chết vật chất.
Nếu một người lớn tuổi thuộc vào cấp bậc ông bà
của mình dù không được may mắn học hỏi nhiều khi
còn trẻ, thế nhưng nếu họ có thể phát động được
cảm tính đơn giản như trên đây thì cũng đủ để
giúp họ thực hiện được sự tắt nghỉ đích thật.
Khi giây phút của cái chết gần kề thì
nên để cho cảm tính đó xâm chiếm lấy mình. Không
nên quên rằng trong những giây phút đó thì tâm
thức cũng suy yếu dần. Trong khi thân xác gần kề
giây phút cuối cùng thì tri thức cũng tuần tự
tan biến, và quý vị cũng sẽ tự tách ra càng lúc
càng xa cho đến khi ra đi hoàn toàn. Khi đó quý
vị sẽ không còn biết là lúc này đang là mấy giờ,
ban ngày hay ban đêm, cũng chẳng biết mình đang
ở đâu, đang ở nhà ai. Quý vị cũng sẽ không còn
nhớ được tên của mình và cũng không nhớ được
đúng các câu tụng niệm. Thế nhưng nếu muốn lưu
lại bên cạnh tâm thức mình (lưu lại với cái
tánh không của tâm thức mình hay là niết bàn
trong chính tâm thức mình) cho đến những
giây phút chót thì quý vị phải ý thức được một
cách thật minh bạch rằng không có bất cứ gì đáng
để có nó hay là được trở thành bất cứ gì. Hãy cố
gắng hướng vào sự tắt nghỉ tuyệt đối! Hãy chú
tâm giúp cho cảm tính ấy tỏa rộng một cách tự
nhiên và không một chút do dự vào sự tắt nghỉ
tuyệt đối, và xem nó như một người bạn đồng hành
của tâm thức còn lưu lại bên cạnh tâm thức cho
đến phút cuối cùng. Nhờ vào phương pháp khéo léo
đó tâm thức sẽ hòa nhập dễ dàng vào tánh không,
tức là nibbanâ.
Trên đây là phép luyện tập vào lúc cái
chết vật chất xảy đến dành cho những người không
được học hỏi nhiều. Nhờ đó một cụ ông hay một cụ
bà cũng có thể đạt được một sự tắt nghỉ tối hậu.
Chúng ta gọi đấy là một phương tiện thiện xảo
nhằm biến một cái ngã từ bậc cao nhất của một
chiếc thang trở thành một bước nhảy vọt mang một
chủ đích rõ rệt.
Thân xác tất nhiên là phải chết khi đã
già yếu và đã tiêu dùng hết vốn liếng thời gian
còn lại của nó - đấy là một sự ngã xuống. Thế
nhưng khi rơi từ chiếc thang xuống thì người ta
cũng có thể nhảy, và cái nhảy ấy cũng có thể là
để rơi vào một sự tắt nghỉ tuyệt đối mang theo
trong tâm thức mình cảm tính cho rằng chẳng có
bất cứ gì đáng cho mình có nó hay được trở thành
bất cứ gì. Người ta gọi đấy là một bước "nhảy
đúng cách". Một bước nhảy hoàn toàn không gây ra
một sự đau đớn nào - trái lại còn giúp đạt được
một kết quả mà mọi người hằng ước mơ: đấy là sự
tắt nghỉ tuyệt đối. Tất nhiên là phải thật cẩn
thận; từ trên thang rơi xuống thì cũng phải biết
ngã như thế nào - để không bị gẫy cổ, gẫy chân
như những người điên rồ. Ngay cả những người học
cao hiểu rộng, du lịch đó đây, thuyết giảng hùng
hồn nơi chốn chùa chiền cũng vẫn có thể ngã gẫy
xương như thường. Thật thế, nhất là trong lãnh
vực này thì không thể đem họ ra mà so sánh với
những người biết quan tâm đến giáo huấn của Đức
Phật một cách đúng đắn được.
Trong trường hợp chết vì tai nạn -
chẳng hạn như bị tai nạn lưu thông, bị nhà sập
đè chết, hay bị bò mộng húc và cặp sừng của nó
đâm thủng vào người, hoặc chết vì bom nguyên tử
- thì phải làm thế nào? Nếu suy nghĩ kỹ thì quý
vị sẽ hiểu ngay là cũng chẳng có gì khác cả. Nếu
còn giữ được một chút tỉnh táo thì phải hướng
ngay tức khắc tâm thức mình vào sự tắt nghỉ
tuyệt đối. Nếu trước đây quý vị đã từng luyện
tập về sự buông xả bằng cách phát động cảm tính
rằng chẳng có bất cứ thứ gì đáng để có nó, hay
là để trở thành bất cứ gì, thì cách phản ứng
trên đây cũng sẽ dễ dàng và tự động khi cái chết
gần kề. Quý vị có thể làm hiện ra trong chớp mắt
cảm tính ấy trong tâm thức mình trước sự chấm
dứt cuối cùng. Thí dụ một người bị một chiếc xe
đâm thẳng vào người và chưa chết ngay thì người
này cũng sẽ còn được một chút thì giờ, dù đấy
chỉ là một phần giây đồng hồ hay thời gian của
một tia chớp, để hướng tâm thức mình vào sự tắt
nghỉ tuyệt đối một cách vững chắc, như thế cũng
đủ.
Đến đây chúng ta hãy bàn đến trường
hợp mà cái chết xảy đến vào một thời điểm không
có một thứ cảm tính nào cả (đã loại bỏ được "cái
tôi" và cái "của tôi") - thì nhất định đấy
sẽ là môt sự tắt nghỉ tuyệt đối! Như tôi đã giải
thích trên đây là vào những lúc bình thường nếu
quý vị tập luyện cách phát động thường xuyên
trong tâm thức mình cảm tính không có bất cứ thứ
gì đáng để có nó hay để trở thành bất cứ gì, thì
đến lúc cái chết xảy đến mình cũng sẽ không còn
suy nghĩ đến bất gì khác (sợ hãi hay bám víu
chẳng hạn), cũng không còn cảm thấy gì khác
(không đau đớn hay lo sợ chẳng hạn), bởi
vì cảm tính ấy lúc nào cũng hiển hiện trong đầu
mình, và nhờ đó cũng sẽ thực hiện được sự tắt
nghỉ tuyệt đối. Nếu có thể dành ra được một
khoảnh khắc thật ngắn của tư duy dù đấy chỉ là
nửa giây, thì cũng thừa đủ để chúng ta thanh
thản nghĩ đến cảm tính ấy. Vì thế quý vị không
nên sợ hãi, không nên tỏ ra yếu đuối! Không nên
để cho sự yếu hèn và khiếp sợ làm suy yếu nghị
lực của quý vị khiến quý vị phải thốt lên những
lời khẩn khoản: "Làm ơn đưa tôi đi bác sĩ, mang
tôi vào bệnh viện nhanh lên!", đại khái như thế.
Dù có đưa quý vị đến các nơi ấy thì quý vị cũng
chết, và cũng chết giống như chết tại nơi này.
Chỉ tội là mất thêm thì giờ mà thôi.
Nhằm giúp để đối phó với cái chết vì
tai nạn, hoặc một cái chết xảy đến bất thần,
cũng như thái độ không dám nhìn thẳng vào cái
chết trước mặt để lo liệu trước, thì Dhamma (Đạo
Pháp) không những sẽ mang lại một phương
pháp hoàn toàn hiệu nghiệm để che chở cho quý vị
mà còn đặt cả nibbanâ (niết-bàn)
trong tầm tay của quý vị khi quý vị đang bị một
chiếc bánh xe đè lên người, hay bị chôn vùi dưới
một đống gạch vụn của một tòa nhà bị sập, hay bị
cặp sừng của con bò mộng cắm thẳng vào người,
hoặc đang nằm lẫn lộn giữa các thây người bị
cháy bỏng vì bom nguyên tử. Không hề có một cái
chết khiếp đảm và bất ngờ nào cả, bởi vì nó đã
được thay thế bởi nibbanâ (đây là điểm
khác biệt căn bản nhất giữa Theravada và Kim
Cương Thừa đối với cái chết. Theo Theravada thì
sự chuyển tiếp giữa cái chết và niết-bàn hoặc là
sự tái sinh xảy ra trong một chớp mắt vì đấy chỉ
là một thể dạng của tâm thức - cũng xin nhắc
thêm là Buddhadasa không hề thuyết giảng gì về
sự tái sinh vì theo ông chuyện ấy không có ích
lợi gì cả. Trong khi đó thì Kim Cương Thừa chủ
trương phải có một giai đoạn chuyển tiếp xảy ra
giữa cái chết và sự tái sinh hoặc giữa cái chết
và tánh không - tức là sự giải thoát hay
niết-bàn. Ngoài ra Kim Cương Thừa còn dựa vào sự
quán thấy bằng thiền định để mô tả thật chi tiết
về giai đoạn chuyển tiếp và đưa ra các phép tu
tập thật tinh tế giúp "người chết" chủ động được
giai đoạn chuyển tiếp ấy để hoặc là hội nhập
vĩnh viễn vào thể dạng của tánh không hiện ra
trong giai đoạn này hoặc là để tái sinh trở lại
thế giới luân hồi để tiếp tục cứu giúp chúng
sinh).
Những người ít được học hành, có kiến
thức kém, kể cả trường hợp không biết đọc, cũng
đều có thể hiểu được giáo huấn trên đây để
thường xuyên mang ra luyện tập hầu giúp mình hòa
nhập với sự hiểu biết đúng đắn ấy.
Tuy nhiên mọi sự cũng sẽ khác hẳn đối
những người có một kiến thức toàn vẹn hơn, đã
từng phát huy được một sự chú tâm và một trí tuệ
có thể giúp nhận biết được sự thật của các sự
vật. Họ là những người đã từng học hỏi và thấu
triệt được Dhamma trên phương diện lý
thuyết cũng như thực hành. Vào lúc cái chết xảy
đến thì những người ấy không cần phải chờ đến
khi bị ngã từ trên một chiếc thang để biến cái
ngã ấy trở thành một bước nhảy đầy tính toán. Họ
vượt thoát cái chết trước khi ngã bệnh. Bởi vì
khi đã đạt được một cấp bậc cao thâm của
Dhamma thì sẽ không còn chết nữa. Nếu một
người đã đạt được một sự hiểu biết về sự thật
như trên đây (không có gì để có nó hay để trở
thành như thế) và đến khi cái chết thật sự
xảy đến, thì tất nhiên là người ấy đã được chuẩn
bị kỹ lưỡng hơn, không như những người phải nhảy
từ chiếc thang để khỏi ngã xuống đất. Cũng nên
hiểu rằng khi nào đã phát huy được sự tỉnh thức
và sự chú tâm vững chắc thì đấy sẽ là một cách
cho phép mình mỉm cười trước mặt cái chết. Người
ta bảo rằng đấy là cách "bước xuống các nấc
thang của chiếc thang từng bậc một". Đấy là cách
tiến bước của những người đã đạt được một sự
hiểu biết toàn vẹn.
Đến đây tôi sẽ đề cập đến trường hợp
của những người bệnh chuẩn bị cho cái chết của
mình. Khi đã hiểu rằng cái chết không thể tránh
khỏi được, thì khi ngã bệnh và đã đến giai đoạn
cuối cùng thì cũng nên dành ngay lấy phần thắng
về mình, ấy là cách biết dựa vào sự chú tâm và
sự tỉnh thức để không tỏ ra yếu hèn và sợ hãi.
Tôi xin mạn phép kể ra một chuyện mà
tôi có dịp được đọc về cách mà người ta chuẩn bị
cho cái chết vào thời kỳ của Đức Phật còn tại
thế. Đối với những ai tuân thủ Tám Giới Hạnh thì
sẽ không khó khăn gì cho họ khi cần phải nhịn
đói, bởi vì nếu đã phát nguyện giữ tám giới thì
họ cũng đã quen không ăn gì cả sau giờ ngọ và
vào những ngày trăng tròn và trăng non (ngày
rằm và đầu tháng). Khi nào họ cảm thấy mình
chỉ còn sống thêm được độ năm mười ngày nữa thì
họ ngưng hẳn không ăn uống gì cả - quả thật đấy
là những gì trái ngược hẳn đối với chúng ta ngày
nay! Thật thế, ngày nay khi có một người cận kề
cái chết thì người thân chung quanh hối hả mua
cho họ ăn những thức ăn đắt tiền và thật cầu kỳ
- đến độ khiến cho người bệnh vì ăn những thứ ấy
nên đã chết sớm hơn. Vào thời kỳ của Đức Phật,
nhịn ăn là để tránh cho tâm thức khỏi bị xao
động thêm. Khi thân xác bắt đầu suy yếu thì nó
cũng sẽ mất đi khả năng tiêu hóa, thức ăn khi ăn
vào sẽ trở thành độc dược khiến cho tâm trí thêm
xao động và hoang mang. Người bệnh tốt hơn nên
nhịn đói để chuẩn bị cho cái chết của mình, họ
chỉ cần uống thuốc và uống nước. Khi cái chết đã
gần kề thì ngay cả nước và thuốc cũng không cần
uống nữa để có thể giúp sự chú tâm cũng như sự
tỉnh thức của mình hiệu quả hơn, nhằm giúp mình
bước vào cái chết bằng con đường tắt nghỉ tuyệt
đối.
Những người chủ trương lòng nhân từ và
đạo đức thì chuẩn bị cái chết của mình bằng cách
bám víu vào lòng nhân từ và đạo đức (một cách
nói rất khéo: dù bám víu vào đạo đức thì đấy
cũng là một sự bám víu như những sự bám víu khác
khi cận kề cái chết), trong khi đó thì những
vị hiền nhân (những người tu hành, những
người hiểu được Dhamma) chuẩn bị buông xả
tất cả để tìm thấy sự tắt nghỉ tuyệt đối cho
mình, họ không hề biết thèm muốn bất cứ một thứ
gì nữa. Tiêm thuốc và bơm thức ăn cho họ để giữ
cho họ sống chỉ là một hành động gây ra thêm
nhiều bấn loạn cho họ mà thôi. Sự buông xả ấy
gọi là "cứ để cho thân xác ra đi". Để cho thân
xác ra đi khi người ta vẫn còn đang sống đấy là
cánh giành lấy phần thắng về mình bằng cách đón
lấy sự tắt nghỉ tuyệt đối (những gì vừa trình
bày cho thấy trái ngược hẳn lại với quan điểm
của một số tôn giáo và của các xã hội Tây Phương
trước tình trạng đau đớn hay đã hôn mê của những
người sắp chết, khi các tôn giáo và các xã hội
này chống lại cách gây chết không đau gọi là
euthanasia).
Ngày nay người ta rối rít vây quanh
các vị bác sĩ, đôi khi gian phòng của người bệnh
chật ních cả người; họ ép người bệnh uống thuốc,
bắt phải ăn, phải cố gắng chịu tiêm thuốc. Người
ta rối rít đến độ khiến cho người bệnh bị chấn
động và lo âu, không để cho tâm thức họ tìm thấy
được sự an bình. Người bệnh hoang mang không còn
biết là mình sẽ chết như thế nào và cũng không
biết là mình sẽ chết thật hay không. Chỉ toàn là
hoang mang và lo sợ. Do đó người bệnh cũng sẽ
không thể phát huy được cảm tính về sự chiến
thắng cái chết và cũng không thể nào thực hiện
được tánh không như tôi đã trình bày trên đây.
Trái ngược hẳn lại với thời kỳ của Đức
Phật, ngày nay người ta tìm đủ mọi cách để có
được một cái giường tiện nghi nhất, một gian
phòng tiện nghi nhất, các loại thức ăn và thuốc
men nào đắt tiền nhất, để rồi sau khi chết sẽ để
lại mọi thứ nợ nần cho người khác. Họ chỉ muốn
tiếp tục được sống, kéo dài thêm kiếp sống của
mình, dù chỉ được một phút. Họ uống và tiêm mọi
thứ thuốc, trị liệu theo đủ mọi cách, đến khi
chết thì chẳng phát huy được một sự tỉnh thức
nào, cũng chẳng thực hiện được một sự chú tâm
nào. Cách hành xử của họ thật đúng là hoàn toàn
thiếu suy nghĩ.
Để có thể tìm thấy cho mình một cái
chết đúng đắn thì phải nhờ vào sức mạnh do
Dhamma mang lại giúp mình chết bằng sự chiến
thắng cái chết, tức là chết trong sự thực hiện
tánh không vào lúc trút hơi thở cuối cùng. Tôi
mong quý vị đừng quên là mọi sự đều vẫn có thể
còn thực hiện được cho đến những giây phút chót
(dù đang bị chiếc bánh xe đè lên người hay
cặp sừng của con bò mộng xuyên vào bụng).
(Trong quyển "Một trăm con voi trên
đầu cọng cỏ" - Cents éléphants sur un brin
d'herbe, Points Sagesses, 1997, tr 195 - Đức
Đạt-lai Lạt-ma có viết như sau: "Khi cận kề cái
chết, phải hướng tâm thức mình vào sự tu tập.
Thể dạng tâm thức vào đúng thời điểm ấy sẽ mang
tính cách quyết định cho những gì sẽ xảy ra sau
đó. Những giây phút cuối cùng ấy hàm chứa một
sức mạnh vô song, tất cả những điều xứng đáng
gom góp trong suốt cuộc sống cũng không thể sánh
kịp". Câu này cho thấy rằng quan điểm của Kim
Cương Thừa cũng rất gần với Theravada về những
gì cần phải tu tập hay thực hiện trong giây phút
cận kề cái chết).
Sau đây là tóm lược các phương pháp
luyện tập phân chia theo ba thời điểm hay ba
giai đoạn khác nhau:
1- Trong những lúc bình thường: tức là
trong những lúc làm các công việc thường nhật,
hay trong những lúc thiền định nghiêm chỉnh.
2- Trong những khi xảy ra một sự tiếp
xúc giác cảm: tức là phải biết phản ứng như thế
nào để tạo ra tánh không vào những lúc đó.
3- Trong lúc cái chết gần kề: thì phải
biết hành động như thế nào khi năm thứ cấu hợp
(ngũ uẩn) tạo ra thân xác và tâm thức đã
đi hết con đường của chúng.
Trên đây là những
gì cần phải nói ra để nhìn vào đấy mà suy tư;
đấy là những vấn đề cần phải được thường xuyên
nêu lên, tương tự như thảo luận với nhau về các
chương trình truyền hình hay là các biến cố xảy
ra trên thế giới, thí dụ như những người say mê
quyền thuật thì hăng say phẩm bình thao thao bất
tuyệt về những chuyện quyền thuật. Thế thì tại
sao chúng ta lại không có thể bàn luận ngày đêm
với nhau về những vấn đề trên đây. Khi cần đề
cập đến các vấn đề quan trọng thì chúng ta lại
không dám mở lời mà nói một câu nào? Tại sao
chúng ta lại chẳng bao giờ bàn thảo với nhau
cách phải đối đầu với cái chết như thế nào, phải
chiến thắng cái chết như thế nào, hầu giúp mình
tránh khỏi cả cái chết lẫn sự sinh. Nếu thực
hiện được như thế thì mọi sự cũng sẽ trở nên dễ
dàng hơn ngay trong lúc này. Nếu chúng ta biết
thảo luận với nhau về các vấn đế ấy thường xuyên
hơn, tương tự như đề cập đến các vấn đề (hằng
ngày) khác, thì cũng không phải chờ lâu
để thấy rằng viêc tu tập của mình nhờ đó sẽ trở
nên dễ dàng hơn. Khi luyện tập đúng phương pháp
thì tất cả cũng chẳng có gì là khó, kể cả chuyện
đạt được nibbanâ, hay nhảy xuống từ bậc
cao nhất của một chiếc thang.
Tóm lại, chúng ta phải thấu triệt được
ý nghĩa của các chữ "trống không", "thực hiện
được tánh không", "trở thành trống không một
cách tự nhiên" và "trở thành chính sự trống
không".
Tánh không hiện hữu nơi mọi sự vật; nó
là đặc tính của mọi sự vật. Nếu tâm thức đã loại
bỏ được sự nắm bắt và bám víu vào mọi sự vật,
thì chính nó cũng sẽ là tánh không, là sự tắt
nghỉ tuyệt đối của "cái tôi" và cái "của tôi",
và sẽ không còn có sự sinh nữa.
Tôi xin chấm dứt buổi nói chuyện về
phép luyện tập mang lại tánh không ở đây.
Phụ lục
Vài nét về Ngài Buddhadasa
Trong phần lời tựa dành cho ấn bản
tiếng Đức của quyển "Cốt lõi của cội Bồ-đề" Jack
Kornfield một Phật tử và học giả lỗi lạc người
Mỹ, đã viết như sau: "Nếu Buddhadasa sống ở
Nhật thì nhất định ông sẽ phải là một danh nhân
trong lịch sử hiện đại của xứ sở này. Dầu sao đi
nữa thì người ta cũng đã biết đến ông vào cuối
đời như là một trong số những vị Thầy uyên bác
và đáng kính nhất của Phật Giáo Thái Lan từ
nhiều thế kỷ nay".
Thật thế, chiếc am nhỏ trong khuôn
viên của ngôi chùa Suan Mokkh, còn gọi là "Khu
vườn Giác Ngộ", tại tỉnh Surat Thani thuộc miền
nam Thái-lan đã bao che kín đáo một phần cuộc
đời của một nhà sư thật bình dị và khiêm tốn và
cả một trí tuệ bao la tàng ẩn bên trong sự bình
dị và khiêm tốn ấy.
Ngày nay, mỗi ngày đều có những chuyến
xe đò dừng lại ở trạm Suan Mokkh để đổ xuống
hàng toán người hành hương. Họ là những người
trọng tuổi, là thanh niên, thiếu nữ và cả trẻ em.
Họ đến từ mọi thành phần trong xã hội kể cả
những nông dân từ vùng quê hay những người buôn
thúng bán mẹt từ các chốn thị thành xa xôi.
Giữa "khu vườn"
là một ao sen thật lớn, bên cạnh là một dãy nhà
xây theo mô hình một con thuyền nhằm để biểu
trưng cho sự Giác Ngộ. Dãy nhà được trang trí
bằng các hình tượng điêu khắc, tranh ảnh và các
biểu đồ đơn giản nhằm gợi lên ý nghĩa của giáo
lý. Những người dù không có kiến thức cao hoặc
không được học hành nhiều mỗi khi nhìn vào đấy
cũng có thể lĩnh hội được những gì chính yếu
trong Đạo Pháp. Buddhadasa thường đặt các tảng
đá cạnh một gốc cây hay xếp các viên đá nhỏ
chung quanh để nhắc nhở khách thập phương đến
viếng phải biết yêu quý thiên nhiên và cây cỏ.
Thật vậy Đức Phật đã ngồi xuống cạnh một gốc cây
để đạt được Giác Ngộ, và Ngài cũng đã nằm xuống
giữa hai gốc cây để hòa nhập với Đại-bát
Niết-bàn. Một lần Jack Kornfield tâm sự với
Buddhadasa rằng trong các xã hội Tây phương có
nhiều người mang những vết thương thật sâu kín
trong lòng họ, và hỏi rằng phải làm thế nào để
có thể giúp họ chữa khỏi. Buddhadasa kê ra cho
Jack Kornfield một phương thuốc như sau:
trước hết là phải mở rộng lòng từ bi, sau đó là
phải hòa nhập sự sống của mình với cây cỏ, núi
rừng và thiên nhiên.
"Khu Vườn Giải Thoát" không có chính
điện đồ sộ với các trang trí cầu kỳ. Thật thế
ông không thích những nghi thức lễ lạc và màu mè
giả tạo. Nếu có ai định chắp tay vái lạy ông thì
ông chộp lấy tay người ấy mà kéo xuống ngồi bên
cạnh để ông trò chuyện và thăm hỏi như một người
bạn lâu đời.
Pháp danh của ông là Buddhadasa có
nghĩa là người tỳ kheo hầu hạ Đức Phật, thế
nhưng người dân Thái thì lại gọi ông là Ajhan
Buddhadasa. Chữ Ajhan phát xuất từ tiếng Phạn
acarya có nghĩa là một người hướng dẫn hay chỉ
đạo, và khi đã chuyển thành tiếng Thái thì lại
có nghĩa là một vị "Thầy" với một sự tôn kính
đặc biệt. Thế nhưng chính ông thì chỉ muốn xem
mình là một người tỳ kheo hầu hạ Đức Phật:
Buddhadasa Bikkhu.
Tôi xin hiến dâng thân xác và sự sống này
cho vị Thầy của tôi là Đức Phật
Tôi chỉ là một người hầu hạ Ngài
Vì thế mà người ta gọi tôi là Buddhadasa
(chữ Pa-li dasa có nghĩa là một người hầu, một
người tôi tớ để sai bảo - a bondsman)
Phần lớn những tài liệu
về Buddadasa được thế giới biết đến ngày nay
cũng là nhờ một Phật tử người Mỹ. Người thanh
niên trẻ này tham gia tổ chức Thiện Nguyện
"Peace Corps" ở Thái Lan và nhờ đó đã biết được
Phật Giáo. Sau đó ông đã xuất gia và trở thành
đệ tử của nhà sư Buddhadasa với pháp danh
Santikaro. Đây là một tấm ảnh đặc biệt của
Buddadasa mà Santikaro còn giữ lại, với lời
ghi chú như sau:
"Trong hình này
tôi chỉ là một nhà sư bé tí, ngồi dưới chân vị
Thầy của tôi (bên trái) và vị giám hộ của tôi
(bên phải) ở giữa là một vị đại sư thi sĩ, bạn
của Thầy tôi và vị giám hộ của tôi. Cả ba đã gặp
nhau vào mùa Kiết Hạ (Vassa) năm 1934 nơi " Khu
Vườn Giải Thoát" và họ đã kết thân với nhau.
Người dân Thái thường gọi ba vị này là "Ba Con
Hổ" của miền Nam nước Thái. Ngày Thầy tôi được
tám mươi tuổi thì tôi chỉ là một tỳ kheo non trẻ
vừa mới thụ phong được một năm. Ảnh chụp ngày 27
tháng 5, năm 1986 đúng vào ngày sinh nhật tám
mươi tuổi của Thầy tôi".
Bảy năm sau đó thì Buddhadasa cũng đã từ bỏ
thân xác của kiếp nhân sinh này của ông.
Santikaro tiếp tục lưu lại "Khu Vườn Giải Thoát"
đến năm 1999 và trong khoảng thời gian này ông
cũng đã dịch sang tiếng Anh phần lớn
các bài giảng Pháp của Buddhadasa.
Nhằm để tìm hiểu thêm về vị đại sư
này, có lẽ chúng ta hãy cùng đọc hai bài thơ sau
đây mà ông đã viết cách nhau gần nửa thế kỷ. Hai
bài thơ có thể xem như biểu trưng cho hai quãng
đời tu tập của ông:
Bài thơ thứ nhất:
Tôi làm việc vượt hơn cả sức người
Tôi làm việc vượt hơn cả sức người
thế nhưng con tim vẫn đủ sức để hân hoan nhảy
múa.
Ấy chẳng qua trong thâm tâm, tôi đã quyết
vì Đạo Pháp hiến dâng kiếp sống này.
Dù hoàn cảnh và cơ duyên đưa đẩy
khiến tôi phải chết - vì nghiệp lực do chính
mình tạo ra.
Thì đấy cũng ví như được nghỉ tay sau những lúc
nhọc nhằn,
được yên giấc trong đêm, hay dừng tay trong một
thoáng.
Khi bình minh ló dạng, tôi lại bắt tay
hoàn tất công việc còn bỏ lại.
Mỗi ngày lại một lần sinh, cả hai cũng chỉ là
một:
sinh ra lúc vừng dương ló dạng, chết đi khi màn
đêm buông xuống.
Quay đều vòng luân hồi chuyển động,
tạo ra muôn ngàn gợn sóng để vỗ về và an ủi tim
ta.
Hỡi những ai mong cầu hân hoan và hạnh phúc,
phải nhớ rằng:
tất cả đều do mình hiểu thế nào là hân hoan.
Đối với tôi hân hoan chẳng mang ý nghĩa nào khác
là được sinh ra để hăng say làm việc.
Tạo ra cơ duyên giúp mình và tất cả mọi người
hiểu được bản chất của thế giới, hầu chinh phục
và chiến thắng nó.
Thiên Nhiên sinh ra ta, lành mạnh cả thể xác lẫn
tâm thần.
Lớn lên - cũng lại nhờ Thiên Nhiên!
Thế nhưng sự sáng tạo ấy cũng chỉ là được sinh
ra, tan rã và để chết.
Tuy thế cũng đã tạo cho tôi dịp may (được làm
người),
Để phấn đấu nhằm vượt lên hàng đầu,
hầu đạt được mục đích trước tất cả mọi người.
Bạn bè thi nhau sống trong buông thả,
Bao công việc bỏ lại, đưa vai tôi gánh vác.
Trong cuộc sống, bổn phận bủa vây tôi,
tựa trên đầu chất cao trăm món nợ,
Như cơn lốc ngăn chận bước chân tôi.
Biết khi nào vượt được, an bình và giải thoát
còn xa một cõi nào?
Muốn đến được Niết-bàn bao chông gai phải vượt,
đấy là cửa ải do chính mình dựng lên.
Quy Luật (nhân quả) ấy nghiệt ngã hơn bất cứ một
lệ luật nào,
Mạng lưới của nó, dù khôn ngoan đến đâu cũng
không sao tránh thoát.
Bất cứ một hành động nào,
nếu mang lại lợi
ích cho người khác và cho mình,
Thì phải thực hiện nhanh lên, phải đấu tranh và
ra sức,
hoàn tất thật tốt đẹp nhằm hồi đáp món nợ của
Thiên Nhiên.
Khi nào từ thâm tâm mọi sự bám víu
yếu dần, tan đi và biến mất,
Thì khi đó trí tuệ cũng sẽ loại bỏ được tham
lam, giận dữ
và ảo giác - luân hồi cũng sẽ ngừng quay.
Hãy nhanh lên, hỡi các bạn, xin đừng chậm trễ!
Bắt tay ngay, dù khó khăn nào đang đợi.
Nếu vượt quá sức người và phải chết sớm,
ấy ví như được nghỉ ngơi lần cuối, nào có gì
khác đâu!
(Buddhadasa sáng tác bài thơ này ngày 13 tháng
2, năm 1938, lúc ông 32 tuổi. Bản dịch tiếng Anh
của Santikaro Bikkhu)
Bài thơ thứ hai:
Buddhadasa không bao giờ chết
Buddhadasa sống mãi, chẳng có gì chết cả.
Dù thân xác phải chết, tai không còn nghe được
nữa.
Hoặc còn đó hay ra đi nơi khác, nào có hệ trọng
gì?
Theo dòng thời gian - một cái gì đó đã trôi đi.
Buddhadasa vẫn bước, chẳng có gì chết cả.
Dù đẹp trời hay những ngày giông bão,
Luôn dốc
lòng tuân theo lời giảng dạy.
Đem tâm sức giữ tròn trọng trách với Như Lai.
Buddhadasa sống mãi, chẳng có gì chết cả.
Hết lòng phục vụ cho nhân sinh mãi mãi,
luôn nêu cao Đạo Pháp từ ngàn xưa lưu lại.
Bạn thấy chăng! Chẳng có gì chết cả!
Dù phải chết, chấm dứt thân xác này,
Tiếng tôi nói vẫn âm vang trong tai bạn,
Rõ ràng và trong sáng, hùng hồn như những thuở
xa xưa.
Nếu Thân-Đạo-Pháp vẫn sống - thì chẳng bao giờ
tôi chết cả.
Hãy xem tôi không bao giờ chết cả,
Luôn bên bạn như ngày xưa muôn thuở.
Hãy tỏ bày những gì trong tâm thức,
ân cần tôi giải đáp, bạn thấy chăng tôi đang
ngồi cạnh bạn.
Hãy xem tôi không bao giờ chết cả,
Muôn dòng suối phúc hạnh sẽ dâng tràn.
Đạo Pháp, xin đừng quên những ngày ngồi bên nhau
bàn bạc:
Thực hiện được Sự Tuyệt Đối (của tánh không) -
cái chết sẽ không bao giờ xảy đến.
(Bài thơ trên đây được Buddhadasa viết vào ngày
27 tháng 5, năm 1986, nhân sinh nhật 80 tuổi của
ông. Bài thơ này được Santikaro Bikkhu dịch sang
tiếng Anh vào ngày 28 tháng 4, năm 1994)
Hình chụp Buddhadasa ngồi trước chiếc am nhỏ của
ông
trong "Khu vườn Giải Thoát" vào ngày sinh nhật
80 tuổi
Hai bài thơ được sáng tác cách
nhau 48 năm đã cho thấy một sự khác biệt thật
lớn. Thật vậy, gần nửa thế kỷ tu tập đã biến đổi
hẳn một con người. Khi còn là một tỳ kheo trẻ
thì Buddhadasa vẫn còn bị ám ảnh bởi cái chết:
Quay đều vòng luân hồi chuyển động,
tạo ra muôn ngàn gợn sóng để vỗ về và an ủi tim
ta.
....................................
Nếu vượt quá sức người và phải chết sớm,
ấy cũng ví như được nghỉ ngơi lần cuối, nào có
gì khác đâu!
Và người tỳ kheo trẻ trong những lúc quá nhọc
nhằn vẫn còn trách móc người khác:
Bạn bè thi nhau sống trong buông thả,
Công việc họ bỏ lại, đưa vai tôi gánh vác.
Cũng xin được nhắc thêm là
Buddhadasa là một người tự học và cũng đã tự tay
tận lực trùng tu một ngôi chùa hoang phế để tạo
ra " Khu Vườn Giải Thoát" như ngày nay.
Thế nhưng đối với bài thơ được viết
gần nửa thế kỷ sau đó thì:
Buddhadasa vẫn sống, chẳng có gì chết cả.
................................
Hãy xem tôi không bao giờ chết cả,
Luôn bên bạn như ngày xưa muôn thuở.
..................................
Buddhadasa vẫn bước, chẳng có gì chết cả,
....................................
Theo dòng thời gian - chỉ có một cái gì đó đã
trôi đi.
Nếu người tỳ kheo trẻ trước đây
luôn lo âu và khắc khoải:
Trước sự sống, bổn phận bủa vây tôi,
tựa trên đầu chất cao trăm món nợ,
....................................
Như cơn lốc ngăn chận bước chân tôi.
Biết khi nào vượt được, an bình và giải thoát
một cõi nào còn xa?
Thì vị sư già lúc nào cũng ung
dung, tự tin và thanh thản:
Dù đẹp trời hay những ngày giông bão,
Luôn dốc lòng tuân theo lời giảng dạy.
.................................................
Dù phải chết, chấm dứt thân xác này,
Tiếng tôi nói vẫn âm vang trong tai bạn,
Rõ ràng và trong sáng, hùng hồn như những thuở
xa xưa.
Ngoài sự thăng tiến rõ rệt giữa hai
giai đoạn trên con đường tu tập của một nhà sư,
từ sự ám ảnh của cái chết khi còn trẻ cho đến
thể dạng không bao giờ chết nữa khi bước vào
tuổi già, thì hai bài thơ còn nêu lên nhiều nét
nổi bật khác nữa. Chỉ xin đơn cử một vài điểm
như sau:
Quan điểm tu tập của Buddhadasa cho
thấy nhiều nét rất gần với Đại Thừa Phật Giáo,
chẳng hạn như ông đã nâng vai trò của lòng từ bi
lên một cấp bậc thật cao và đồng thời ông cũng
chấp nhận các quan điểm và cách hiểu của Đai
thừa về tánh không, niết-bàn, Phật tính, sự quán
thấy bằng trực giác của Thiền Học,v.v... Các câu
thơ sau đây trong bài thơ ông viết ngay khi còn
trẻ không hẳn biểu trưng cho cách hành xử của
một vị A-la-hán mà đúng hơn là lòng quyết tâm và
sự cố gắng phi thường của một người Bồ-tát:
Trước sự sống, bổn phận bủa vây tôi,
tựa trên đầu chất cao trăm món nợ.
...........................
Bất cứ một hành động nào,
mang lại lợi ích cho người khác và cho mình,
Thì phải thực hiện nhanh lên, phải đấu tranh và
ra sức.
............................
Nếu vượt quá sức người và phải chết sớm,
ấy ví như được nghỉ ngơi lần cuối, nào có gì
khác đâu!.
Thiết nghĩ có lẽ cũng cần phải giải
thích thêm một vài điểm khác trong cả hai bài
thơ này. Trong bài thơ thứ hai Buddhadasa cho
biết rằng "Thiên Nhiên" đã sinh ra ông. "Thiên
Nhiên" ở đây không biểu trưng cho một Đấng Tối
Cao nào cả mà chỉ có nghĩa là các quy luật tự
nhiên chi phối sự vận hành của mọi hiện tượng
trong vũ trụ: đấy là quy luật tương liên, tương
kết và tương tạo (interdependence), trong đó gồm
có quy luật về nguyên nhân và hậu quả:
Quy Luật ấy nghiệt ngã hơn bất cứ một lệ luật
nào.
Cái Quy Luật
đó đã
khiến cho ông phải quay lại kiếp nhân sinh. Thế
nhưng ông không hề oán trách cái Quy Luật ấy mà
trái lại còn cám ơn nó đã tạo ra cho ông cơ
duyên được làm người để tu tập. Tuy hiểu được
những điều ấy thế nhưng khi thuyết giảng thì ông
không bao giờ nêu lên bất cứ những gì mà ông cho
là "vô ích", tức là không trực tiếp hướng vào
mục đích nhằm loại bỏ khổ đau. Những chuyện như
luân hồi, tái sinh... chỉ khiến cho người tu tập
thêm hoang mang mà thôi. Một vài học giả Tây
Phương phân tích các lời giảng của ông và không
chịu tìm hiểu sâu xa hơn, vì thế đôi khi họ đã
đánh giá ông một cách sai lầm khi cho rằng ông
chủ trương đơn giản hóa và duy lý hóa Phật
Giáo.
Điểm nổi bật và đáng chú ý hơn hết
trong bài thơ khi ông viết vào lúc tuổi già
chính là câu sau đây:
Buddhadasa sống mãi, chẳng có gì chết cả.
Vậy nếu Buddhadasa sống mãi và
chẳng có gì chết cả thì có nghĩa là gì? Đấy có
nghĩa là Buddhadasa đã hóa thành tánh không và
trong cái tánh không đó chẳng còn lưu lại bất cứ
gì để mà chết cả. Cái trống không ấy chính là sự
Tắt Nghỉ Tuyệt Đối, là Niết-bàn.
Tâm thức của Buddhadasa đã đi hết con
đường, đã trở thành tánh không, chỉ có thân xác
tạm thời này của ông là còn lưu lại mà thôi:
Hoặc (nó vẫn) còn đó hay ra đi nơi khác, thì có
hệ trọng gì?
Mọi sự nắm bắt và bám víu cũng như các
vết hằn của nghiệp, tất cả đều đã được loại bỏ
và tẩy sạch trên dòng lưu chuyển liên tục của
tri thức ông. Tâm thức của ông đã hòa nhập vào
tánh không của tất cả mọi hiện tượng, để trở
thành một với tánh không của cả vũ trụ.
Tám mươi
tuổi, tuy đang ngồi yên lặng trước cửa am trong
"Khu Vườn Giải Thoát", thế nhưng tâm thức ông đã
an trú trong Tánh Không Tuyệt Đối và Đích Thật
của Dhamma, của Niết-bàn và Đức Phật. Cái Tánh
Không ấy không bao giờ chết và chính trong không
gian Trống Không của cái Tánh Không Tuyệt Đối ấy
cũng chẳng còn gì sót lại để mà chết cả. Đấy là
ý nghĩa của tựa bài thơ - Buddhadasa không bao
giờ chết - và của câu thơ mở đầu cho toàn bộ bài
thơ - Buddhadasa vẫn sống, chẳng có gì chết
cả.
Nếu đủ sức phát lộ được cảm tính về
một chút tánh không nào đó trong tâm thức mình
thì biết đâu chúng ta cũng sẽ có thể cảm thấy có
một người tu hành nào đó trước đây từng mang tên
là Buddhadasa đang ngồi bên cạnh chúng ta hôm
nay để han hỏi và bàn bạc với chúng ta:
Hãy xem tôi không bao giờ chết cả,
Luôn bên bạn như ngày xưa muôn thuở.
Hãy tỏ bày nhưng gì trong tâm thức,
Ân cần tôi giải đáp, bạn thấy chăng tôi đang
ngồi cạnh bạn.
Vậy chúng
ta sẽ han hỏi những gì và thắc mắc những gì?
Phải chăng chúng ta muốn biết là phải làm thế
nào để đạt được nước niết-bàn? Buddhadasa sẽ trả
lời cho chúng ta bằng câu thơ cuối cùng trong
bài thơ ông đã viết:
Thực hiện được sự Tuyệt Đối (của tánh không) -
cái chết sẽ không bao giờ xảy đến!
Hoang Phong
===========
Sau đây là các bản dịch sang tiếng Anh của hai bài
thơ trên đây:
Bài thơ thứ nhất:
I Work More Than I Can Bear
I work more than I can bear, but
am happy hearted enough to leap and dance.
*
This is because my mind thinks and aims
only to live in line with the Dhamma,
*
Wherever the causes and conditions lead,
according to the karma I laid down in
former moments.
*
To die is like a pause from work,
to sleep for a night, to rest for a time;
*
With the new dawn, I take up the work
Vigorously carrying on the work left over from
before.
*
The new day is a new birth, these two are the
same:
born with the day and dying at night,
*
As the waves of the samsaric cycles
create
the myriad products that soothe and comfort our
hearts.
*
Whoever wishes for joy and bliss must know
that it depends on the one who can see joy for
himself.
*
As for me, there is no meaning beyond
the fact that I was born only to work
*
According to conditions, so that myself and
others
will know the world, conquer it, and vanquish
sorrow.
*
Nature created us perfectly, physically and
mentally
thriving — boundless thanks to Nature!
*
Although we are created for birth, decay, and
death,
yet Nature gives me the chance to vie
*
Struggle, and contend in all duties to break
ahead
in order to reach the end before anyone else.
*
While friends encourage each other to lie
around,
I am working hard as if they were chasing
behind.
*
The duties of life that besiege constantly
are like debts ever piling up on top of me
*
Blocking my way almost like a whirlpool,
when will I pass beyond and find the place of
freedom and peace?
*
From here to Nibbana we must pass through
the checkpoint which is the work of our lives
*
This Law is more certain than any scales;
no matter how skilled, no one can escape this
rule.
*
For this reason, in any activity that
aims for the benefit of others or oneself
*
We should hurry, struggle, and strive
to make it beautiful and work off our debt to
Nature.
*
Until the heart’s attachments to all things
weaken, dissolve, and fade away
*
So that wisdom sees directly that greed, anger,
and delusion are finished and samsara
stopped.
*
Hurry friends, don't be late!
Whatever work you may meet, tackle it
immediately.
*
Much work may bring a faster death,
but it rolls along towards the final rest, just
the same.
Bài thơ thứ hai
Buddhadasa Never Dies
Buddhadasa shall live, there's no dying.
Even when the body dies, it will not listen.
Whether it is or goes is of no consequence,
it is only something passing through time.
Buddhadasa carries on, there's no dying.
However good or bad the times,
Always one with the true teaching.
Having offered body and mind in ceaseless
service Under Lord Buddha's command.
Buddhadasa lives on, there's no dying.
In service to all humanity forever
Through the Dhamma Proclamations left behind
O, Friends, can't you see! What dies?
Even when I die and the body ceases
my voice still echoes in comrades' ears
Clear and bright, as loud as ever.
Just as if I never died the Dhamma-body lives
on.
Treat me as if I never died,
as though I am with you all as before.
Speak up whatever is on your minds
as if I sit with you helping point out the
facts.
Treat me as if I never died, then
many streams of benefits will accrue.
Don't forget the days we set aside for Dhamma
discussion;
Realize the Absolute and stop dying!
|