Đạo Đức và Giới Luật Phật Giáo
Nguyên tác Fabrice
Midal
Hoàng Phong
chuyển ngữ

Các phương thuốc của thế giới này,
đa dạng và nhiều vô kể,
Thế nhưng chẳng có một phương
thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
Vì thế, này các Tỳ kheo, hãy cầm
bát thuốc lên mà uống.
Uống bát thuốc Đạo Pháp,
sẽ không còn tuổi tác nữa, sẽ
vượt sang bên kia cái chết,
và sẽ khơi động và quán thấy được
sự thật,
Này các tỳ kheo, đấy là cách giúp
cho hết khát,
và sẽ giải thoát khỏi cái khát.
Đức Phật

Phật Giáo có khuyến khích đạo đức hay không, và
nếu có thì các nguyên tắc của đạo đức ấy là gì?
Câu hỏi trên đây có vẻ thật đơn
giản thế nhưng thực ra thì vô cùng phức tạp. Vậy
trước hết theo chúng ta thì đạo đức là gì?
Đối với cơ sở triết học siêu
hình Tây Phương cũng như đối với các tôn giáo
dựa vào Kinh Thánh thì đạo đức là sự tùng phục
các tiêu chuẩn mang tính cách siêu nhiên, chẳng
hạn như về cái xấu hay cái tốt do Thượng Đế quy
định hay là do lý trí áp đặt. Phật Giáo không hề
chủ trương một khái niệm nào tương tự như thế.
Thật ra có thể nói đấy là cách
giúp chúng ta biết cư xử một cách đúng
đắn. Các lời kinh trong Phật Giáo không phải
là các giới luật được thiết đặt sẵn hay các sắc
luật ghi trên các tấm bảng biểu trưng cho luật
pháp (ý muốn nói đến
các tấm bảng bằng đá ghi khắc luật pháp của các
tôn giáo dựa vào Kinh Thánh). Các lời
dạy của Đức Phật không phải là những phán lện
của một vị Trời độc tôn, bất biến, toàn năng và
sáng tạo ra tất cả. Luân lý Phật Giáo hoàn toàn
độc lập với bất cứ một ý chí tối thượng hay một
cách hành xử thiêng liêng nào. Luân lý Phật Giáo
được xây dựng dựa vào sự quan sát phương cách mà
chúng ta đang sống, và mỗi con người trong chúng
ta đều có thể làm được việc ấy
(có nghĩa là mỗi người
trong chúng ta phải tự nhìn lại mình, quán xét
hành động của chính mình và tạo cho mình một
cách hành xử phù hợp với luân thường đạo lý).
Theo một cách hiểu nào đó, nếu
xem Phật Giáo như là một thứ giáo điều
(doctrine)
thì tức khắc chúng ta sẽ phải đối đầu với một sự
bế tắc không lối thoát
(nếu xem Phật Giáo là
một giáo thuyết với các giáo lệnh được quy định
sẵn, thì luân lý Phật Giáo không thể mang tính
cách tự nguyện được, vì đấy sẽ là một sự nghịch
lý). Vậy thì có một hình thức Phật
Giáo chính thống hay nguyên thủy nào tương tự như
Ki-tô Giáo hoặc Hồi Giáo hay không?
Nhất định là không!
Điểm then chốt chính là chỗ đó.
Nếu Phật Giáo trở thành một giáo thuyết với các
lề luật và quy tắc được quy định sẵn, thì đấy sẽ
là cách mà Phật Giáo tự chối bỏ mình. Chúng ta
(những người Phật
Giáo) không
nên tìm kiếm một nền tảng đạo đức dưới hình thức
giáo điều để theo đó mà nhắm mắt tuân thủ. Chúng
ta phải tự quán xét xem mình đang làm gì, đang
mong ước điều gì và đang sống như thế nào...
Đạo đức chỉ có thể phát sinh từ
đáy lòng của mỗi con người nhằm giúp chúng ta
hòa nhập một cách tuyệt đối với một thực tại
đúng như thế, bằng một sự mở rộng thật kiên
quyết của lòng mình.
Những lời mà Đức Phật đã nói
lên sở dĩ luôn giữ được sự sinh động cho đến
ngày nay cũng vì đấy là những lời dành cho chúng
ta, bảo vệ chúng ta và khiến cho chúng ta phải
xúc động (những lời
khuyên bảo của Đức Phật vang lên trong lòng mình
khiến cho mình phải xúc động thì cũng chẳng khác
gì như Đức Phật đang dạy bảo mình, khuyên nhủ
con tim của chính mình trong ngày hôm nay và
trong những giây phút này, và đấy chính là sự
sống động trong những lời giáo huấn của Đức
Phật. Sự sống động đó chính là căn bản của Đạo
Đức Phật Giáo, và nhất thiết đấy không phải là
một cơ cấu luân lý áp đặt, mang tính cách tuyệt
đối và bất di dịch). Nếu nhìn theo
góc cạnh đó thì nhất định sẽ không có gì phi lý
hơn là cách cố tình thiết lập một căn bản lý
thuyết nhằm dựa vào đó để tạo dựng một nền móng
đạo đức Phật Giáo.
Tất cả các vấn đề đạo đức mà
thế giới Tây Phương thường mang ra tranh cãi -
chẳng hạn như các vấn đề tình dục
(đồng tính luyến ái,
bao cao-su, thuốc ngừa thai, v.v...),
tự tử, gây chết bằng các phương tiện y khoa để
tránh đau đớn
(euthanasia), các thái độ hành xử
trong xã hội
(comportement social / social behavior)...
- không mang cùng ý nghĩa với tinh thần Phật
Giáo (các xã hội
Đông Phương ngày nay thật ra cũng đã bị thu hút
bởi các giá trị vật chất của thế giới Tây Phương
và cũng ôm luôn cả các vấn đề đạo đức không lối
thoát và đôi khi rất phi lý mà không hề hay biết).
Động cơ thúc đẩy và sự cảnh giác trong tâm thức
của mỗi cá nhân con người nhằm ứng xử với từng
bối cảnh cá biệt xảy ra vào một thời điểm nhất
định, sẽ quan trọng hơn nhiều so với cách chỉ
biết tìm kiếm một giải pháp bất di dịch. Phật
Giáo không phải chỉ biết nhấn mạnh đến tính cách
tương đối của mọi hiện tượng
(tính cách vô thường và
ảo giác của mọi hiện tượng biểu trưng cho một sự
thật tương đối) mà còn nêu cao giá
trị cá biệt nơi mỗi con người trong từng tình
huống. Đối
với Phật Giáo thì luân lý chỉ mang tính cách tạm
thời và chắp vá, luôn tìm cách để thích ứng với
chuỗi dài lôi kéo bất tận giữa hành động và hậu
quả. Thật thế, nếu tìm cách cụ thể hóa cái chuỗi
dài liên kết đó để biến nó trở thành một thứ gì
cứng nhắc thì quả thật đấy sẽ chỉ là một chuyện
hoài công.
Trên đây là những gì cho thấy
Đức Phật khác hẳn với các vị sáng lập ra các tôn
giáo khác. Moses (vị
sáng lập ra Do Thái Giáo) cho khắc
Luật Pháp vào một tấm đá và dân tộc của Ngài
phải theo đó mà tuân thủ, nếu vi phạm vào đấy
thì sẽ bị Trời trừng phạt
(xin ghi chú thêm là
tác giả lớn lên trong một gia đình Do Thái Giáo).
Toàn bộ tập thể xã hội phải trung thành với Luật
Pháp đó.
Viễn ảnh mà Đức Phật mở ra thì
lại hoàn toàn khác hẳn. Đức Phật đã làm gương
cho chúng ta noi theo để tự nhìn lại mình và
biến cải lấy mình.
Đạo đức Phật Giáo luôn gắn liền với thiền định
như thế nào?
Muốn thấu triệt ý nghĩa của đạo
đức Phật Giáo là gì thì nhất thiết phải ý thức
được là nền tảng đạo đức đó không thể tách rời
ra khỏi thiền định, tức có nghĩa là chúng ta
phải hành xử như thế nào để giữ cho sự an bình
luôn sinh động trong con tim của mình.
Đối với chúng ta
(những người Tây Phương)
thì luân lý giữ vai trò quy định các lề lối hành
xử mà chúng ta phải noi theo. Thế nhưng trên
phương diện thực hành thì lại không hề bảo cho
chúng ta biết là phải làm như thế nào. Chẳng hạn
như dạy cho trẻ con và lứa tuổi vị thanh niên
phải tuân thủ một số các quy tắc nào đó, thế
nhưng lại không giải thích cho chúng hiểu là sự
tuân thủ đó nhất thiết phải phát xuất từ chính
nội tâm của chúng (thí dụ chúng ta dạy bảo trẻ con không được giết hại thú vật, thế nhưng
lại không giải thích cho chúng hiểu đấy là cách
giúp chúng biết kính trọng và yêu thương sự sống,
và đấy cũng là cách tập cho chúng biết phát động
tinh thần bất bạo động).
Chúng ta
(những người Tây Phương)
không hề ý thức được là chúng ta chỉ biết quan
tâm đến khía cạnh lý thuyết của đạo đức để nhằm
phân biệt nó với thực hành, và đối với phần thực
hành thì chúng ta lại chỉ xem đấy là cách ứng
dụng các nguyên tắc đã được thiết đặt từ trước
bằng lý trí (tức là
lý thuyết).
Sự tách rời đó hoàn toàn xa lạ
đối với Phật Giáo. Bởi vì theo quan điểm của
Phật Giáo thì bất cứ một tư duy nào không phát
sinh từ kinh nghiệm cảm nhận của con người tại
nơi này và trong giây phút này đều nhất thiết
chỉ là một thứ tư duy lạc hướng
(rơi ra ngoài hiện thực
và mất hết giá trị thiết thực của nó).
Con đường của Đức Phật cho biết rằng chúng ta
luôn bị che khuất bởi các dấu vết lưu lại từ các
sự tin tưởng quả quyết và các niềm tin sẵn có
của mình. Tìm cách thoát ra khỏi những thứ ấy -
thì đấy mới là một thứ tư duy sinh động! Trên
phương diện ứng dụng nếu tư duy ấy không đủ sáng
suốt hầu giúp chúng ta đối phó với một cảnh
huống xảy ra thì tư duy ấy cũng sẽ chỉ là một
thứ tư duy mù quáng và vô hiệu lực
(thoát ra khỏi những sự
quyết đoán và các niềm tin sẵn có mới có thể
mang lại cho mình những tư duy sinh động - tức
là sự tự do - thế nhưng các tư duy tự do đó nếu
không hòa nhập được với các kinh nghiệm cảm nhận
của chúng ta trước hiện thực nhằm giúp chúng ta
ứng xử một cách thích nghi với mọi cảnh huống
xảy ra thì các tư duy ấy dù là tự do nhưng cũng
chỉ là các tư duy mù quáng và rời xa hiện thực).
Đối với Đức Phật thì dù cho ta
có hành động phù hợp với luân lý đi nữa thế
nhưng nếu trong lòng mang đầy oán hận và lo sợ
thì đấy không phải là một hành động đạo đức đích
thật (dù bên ngoài
là một hành động đạo đức thế nhưng sự oán hận và
lo sợ trong lòng sẽ in đậm dấu vết trên dòng tri
thức của mình để tạo ra nghiệp không tốt lành
cho chính mình). Trái lại, đôi khi
cũng cần phải hành động một cách thô bạo, bất
chấp các tiêu chuẩn luân lý thông thuờng hầu có
thể đáp ứng một cách thích đáng hơn với một cảnh
huống xảy ra (thí dụ
như phản kháng thật quyết liệt nhằm chận đứng
một hành động hung bạo để bảo vệ sự công bằng và
nhân đạo, hoặc để che chở cho một chúng sinh
đang bị lâm nguy chẳng hạn).
Vậy thì có những khác biệt nào giữa các giới
luật đạo đức Phật Giáo và các phán lệnh bất di
dịch của luân lý Tây Phương, chẳng hạn như những
gì đã được triết gia Kant nêu lên và đã ăn sâu
vào đời sống trong xã hội phương Tây?
Đạo đức Phật Giáo gồm có năm
giới (luật), và trong số này thì ba giới luật
đầu tiên mang tầm quan trọng lớn hơn so với hai
giới luật sau cùng.
Năm giới ấy như sau:
- Tránh không giết hại các sinh
vật có giác cảm
- Tránh không trộm cắp
- Tránh không giao du tính dục
gây ra phương hại
- Tránh không nói dối, không ăn
nói ba hoa vô tích sự hay là nói những lời vu
khống
- Tránh không dùng những chất
độc hại
Đạo đức Phật Giáo không đặc
biệt chủ ý cấm đoán bất cứ một thứ gì và cũng
không bắt buộc phải giữ một thái độ nhất định
nào, mà đúng hơn chỉ khuyên chúng ta phải
tránh một số thái độ hành xử nào đó. Các
giới luật đạo đức Phật Giáo không phải là các
phán lệnh mang tính cách tuyệt đối và được thiết
lập dựa vào lý trí, và theo quan điểm của Kant
(một triết gia người
Đức,1724-1804, sáng lập ra thuyết "lý tưởng siêu
nhiên" - transcendental idealism) thì
các phán lệnh ấy đồng thời cũng là các bổn phận
mang tính cách thực dụng và có giá trị toàn cầu.
Trái lại các giới luật đạo đức Phật Giáo thì chỉ
là các chuẩn mực được thiết đặt dựa vào sự quan
sát về cuộc sống con người. Theo Đức Phật thì
con người cần phải biến cải tâm thức mình tương
tự như một nhà thể thao phải luyện tập cơ thể.
Động cơ thúc đẩy chúng ta trong quyết tâm đó
chính là lòng mong muốn sao cho mình ngày càng
biết xử thế một cách nhân bản hơn trước mọi cảnh
huống và trong từng giây phút một. Sự quyết tâm
đó chỉ có thể xuất phát từ nơi con người của
chúng ta trong sự toàn vẹn của nó - không phải
chỉ dựa vào các cách suy nghĩ đạo đức, vào lý
trí hay luân lý là đủ.
Hầu
hết những
người bước theo con đường Phật Giáo đều tự
nguyện tuân thủ ba giới luật đầu tiên, hoặc tất
cả năm giới luật, hoặc có thể là nhiều hơn. Họ
chọn một thời điểm nhất định nào đó trong ngày
để ôn lại các giới luật phải giữ
(chẳng hạn như trước
khi đi ngủ, vào buổi sáng khi thức dậy... phải
dành ra vài phút để nhớ đến các giới luật mà
mình quyết tâm tuân thủ).
Tránh không sát sinh có nghĩa là gì?
Không sát sinh có nghĩa là
không được phép tước đoạt sự sống của bất cứ một
sinh vật nào. Sát nhân tất nhiên phải bị cấm
đoán (không thể chấp
nhận án tử hình trong một quốc gia thấm nhuần
Phật Giáo) thế nhưng sự cấm đoán đó
cũng phải được tôn trọng đối với tất cả sinh vật
từ các loài sinh vật có vú, cho đến chim chóc,
cá và cả các loại côn trùng. Đối với Phật Giáo,
sự sống của tất cả các loài sinh vật có giác cảm
nhận biết được khổ đau đều phải được tôn trọng.
Chúng ta không được phép gây ra đau đớn cho bất
cứ một sinh vật nào.
Đối với Đức Phật, sát sinh có
nghĩa là cố tình tước đoạt sự sống của
một chúng sinh. Người tu hành phải tuân thủ một
số giới luật do chính Đức Phật đưa ra, và hơn
thế nữa Ngài còn giải thích thật rõ ràng thế nào
là một hành động sát sinh:
- [Trước
hết] phải có một sinh vật
(sự hiện hữu đích thật
của một chúng sinh bên ngoài tâm thức)
- Chúng ta nhận biết là có một
sinh vật (sự xuất
hiện của một đối tượng bên trong tâm thức)
- Chúng ta phát lộ ý định sát
sinh (tác ý xuất
hiện trong tâm thức)
- Chúng ta giết con vật bằng
cách sử dụng một phương pháp nào đó
(tác ý chuyển thành
hành động)
Sở dĩ Đức Phật phân tích quá
trình trên đây là để nhấn mạnh đến vai trò của
xung năng bên trong tâm thức thúc đẩy chúng ta
hành động. Đấy là cách nhắc nhở chúng ta luôn
phải gia tăng sự cảnh giác, và phải hiểu rằng
một con côn trùng cũng là một sinh vật có giác
cảm (être sentant,
être sensible / sensitive being / một chúng sinh
biết đau đớn. Một vài kinh sách tiếng Việt dịch
chữ này từ tiếng Hán là "chúng sinh hữu tình"
(?), thì đấy là một cách dịch không đúng nghĩa)
do đó chúng ta không được phép tước đoạt sự sống
của nó; và nếu ý thức được như thế thì đấy cũng
sẽ đã là một cách tu tập. Nếu trông thấy một con
côn trùng bò đến gần mình
(hay bám vào người mình)
thì đấy cũng không phải là một lý do để mà đương
nhiên giết nó. Tránh không giết nó sẽ giúp chúng
ta ý thức được một cách thật minh bạch là chúng
ta vừa phát động được cả một cơ cấu vận hành
(trong tâm thức mình)
giúp mình không gây ra khổ đau, và hơn nữa còn
giúp mình không áp đặt uy quyền của mình lên bất
cứ một thứ gì.
Sát sinh là một hành động vô
cùng hung bạo vì đấy là một hành động hủy diệt
hiện thực (sự sống
của một sinh vật cũng là thành phần của hiện
thực và trong cái hiện thực đó cũng có sự sống
của chính mình). Trong khi đó con
đường của Đức Phật lại là cách phải biết đón
nhận hiện thực đúng như thế
(tức trong sự toàn vẹn
của nó).
Tại sao lại không được trộm cắp?
Đức Phật dạy chúng ta không
được lấy bất cứ gì mà người khác không cho mình.
Hành động nghe người khác nói
cũng đã là một cách cho thấy chúng ta đang tiếp
nhận rất nhiều thứ không thuộc của mình, tuy
rằng không mấy khi chúng ta ý thức được điều ấy.
Đấy là cách mà chúng ta thường vơ quàng nhiều
thứ thuộc vào lãnh vực tình cảm và xem đấy là sở
hữu của chính mình, đấy chẳng qua cũng vì chúng
ta bị thúc đẩy bởi các thứ ham muốn dưới các
hình thức tình cảm mà mình đang thiếu thốn hay
không có
Con đường của Đức Phật khuyên
chúng ta nên can đảm nhìn thẳng vào các thứ cảm
tính ấy để hiểu rằng chúng phát sinh từ một sự
thiếu tự tin thật phi lý
(chúng ta cần đến một
số xúc cảm yêu thương chẳng hạn và chúng ta tìm
cách ôm lấy những thứ ấy từ bên ngoài để bù đắp
cho sự thiếu thốn của mình, và sở dĩ chúng ta
thiếu thốn chẳng qua cũng vì chúng ta đánh mất
sự tự tin nơi mình).
Trên con đường tu tập thì sự
viên mãn (plénitude
/ fullness, fulfillment / sự phong phú và tròn
đầy) không hề lệ thuộc vào những thứ
vụn vặt mà chúng ta cứ muốn vơ vét để làm của
riêng. Sự viên mãn phát sinh từ cách phát lộ sự
tự tin nơi nhân phẩm của chính mình. Nên tuân
theo quy tắc ấy, đấy là một phương tiện giúp tái
tạo lại nhân phẩm của mình và để tôn vinh nó.
(Giới luật liên quan
đến hành động trộm cắp quả cũng không quá khó để
hiểu nếu vật ăn cắp là một hiện vật nào đó. Có
lẽ vì thế mà tác giả không cần phải giải thích
dông dài về sự kiện này mà chỉ nêu lên một hình
thức "ăn cắp" hay "vơ vét" tinh tế hơn trên
phương diện tình cảm hay tâm lý, tức là một sự
chiếm đoạt những thứ xúc cảm hay tình cảm mà
mình cảm thấy "thiếu thốn". Sự chiếm giữ hay ôm
quàng đó sẽ hiển hiện dưới hình thức tác ý, và
đấy chính là những gì sẽ lưu lại các vết hằn sâu
đậm trên dòng tri thức của mình. Nói cách khác
thì đấy là cách tạo ra "nghiệp" tồn lưu trên
dòng chảy liên tục của tri thức để buộc mình vào
vòng luân hồi. Vì thế không những chỉ phải tránh
không được phát lộ các tác ý tham lam khiến cho
mình nhìn chằm chằm vào một vật thể nào đó, mà
còn phải cảnh giác trước những sự "vơ vét" mang
hình thức xúc cảm hay tình cảm tức là các thể
dạng tâm lý hiển lộ trong tâm thức mình. Đấy
chính là cách tinh khiết hóa tâm thức và con tim
của mình giúp cho mình tự tin hơn nơi nhân phẩm
của chính mình. Nhờ đó tâm thức và con tim mình
cũng sẽ trở nên tròn đầy và phong phú hơn, và sự
giàu có đó sẽ khiến cho mình cảm thấy sẵn sàng
hiến dâng bằng hai tay những gì mà mình có trong
tim khi trông thấy những người khác đang thiếu
thốn. Hơn nữa sự tròn đầy đó trong lòng mình
cũng sẽ giúp cho mình nhận thấy là không còn có
gì bên ngoài đáng để cho mình vơ vét nữa dù đấy
là một vật thể hay một thứ tình cảm nào cũng thế).
Tránh không phạm vào các giao du tính dục gây ra
phương hại có nghĩa là gì, và tại sao lại phải
tuân thủ giới luật ấy?
Tùy theo từng học phái mà vấn
đề tính dục kém đạo đức được hiểu khác nhau, tuy
nhiên thông thường thì đấy có nghĩa là một hành
vi tính dục gây ra khổ đau. Hiểu
một cách bao quát hơn nữa thì tính dục kém đạo
đức có nghĩa là một hành vi tính dục không kính
trọng người khác, không nhằm tạo ra một mối liên
hệ thật sự nào với người ấy và cũng không cần
biết đến các hậu quả xảy ra. Đấy là một hành vi
làm phương hại đến sự hiện hữu thiêng liêng
của Đức Phật trong lòng mình, và không khơi động
được sự chú tâm cho chính mình.
Tại sao phải luôn giữ cách hành xử đạo đức?
Một số học phái triển khai
nhiều phương cách suy luận thật tinh tế nhằm
khuyến khích con người nên thực thi một thái độ
hành xử đạo đức, và nếu dựa vào cách phát biểu
chung trong kinh sách Phật Giáo thì có thể gọi
đấy là cách giữ gìn không được gây ra khổ đau
cho người khác.
Trong một xã hội Phật Giáo mối
quan tâm lớn nhất là phải ý thức được rằng một
hành động phương hại - chẳng hạn như sát sinh,
hãm hiếp, ăn cắp, nói dối, phỉ báng - đương
nhiên sẽ mang lại những hậu quả tiêu cực bóp
ngạt và nhận chìm chúng ta trong khổ đau. Hận
thù đưa đến hận thù. Hung bạo kéo theo hung bạo.
Ở một cấp bậc sâu xa hơn và
cũng thật hết sức dễ hiểu là nếu biết chọn cho
mình một thái độ hành xử đạo đức thì đấy cũng là
cách giúp mình trở về với chính mình. Vi phạm
vào các hành động đáng hổ thẹn trái lại chỉ
khiến cho mình rời xa khỏi chính mình, tách ra
khỏi sự sống của chính mình. Quả cũng lạ, trong
ngôn ngữ Pháp chữ độc ác
(méchant / nasty, evil.../
hung ác, biển lận, xấu xa...) mang
một ý nghĩa rất là Phật Giáo tức có nghĩa là "rơi
vào sự sai lầm" (mal
chu / falling into the wrong). Qua
cách diễn đạt theo ngôn ngữ Pháp thì người ta
không cố tình độc ác mà chỉ vì "rơi vào sự sai
lầm". Vì thế độc ác là một thái độ hành xử thuộc
bên ngoài chúng ta và bên ngoài cả nguyện vọng
của chính mình. Nếu không luyện tập thiền định
thật kiên trì thì quả hết sức khó cho chúng ta
giữ cho con tim mình không vướng vào sự ganh tị,
hận thù và oán giận. Trong khi đó thì những gì
hiển nhiên nhất mà chúng ta phải tạo ra cho mình
lại chính là hạnh phúc.
Người Phật Giáo nhìn vấn đề tính dục như thế nào,
có sự nghi kỵ nào đối với vấn đề này giống như
đối với các tôn giáo dựa vào Kinh Thánh hay
không?
Dưới nhãn quan của Phật Giáo
thì vấn đề tính dục không phải là một tội lỗi.
Chỉ cần phải thận trọng thế thôi, đấy chẳng qua
là vì nó rất dễ đưa đến một tình trạng mù quáng
khá lạ lùng (bị thúc đẩy bởi xung năng của nghiệp và bị chi phối bởi bản năng truyền
giống khiến ta có thể rơi vào một tình trang si
mê và say đắm - giống như bị sét đánh - không
còn đủ sáng suốt để cân nhắc hay suy nghĩ gì nữa).
Cảnh giác
trước sự ham muốn tính dục và không biến nó trở
thành một thứ xung năng đơn thuần chỉ nhằm để
kích động mình, chính là một cách tu tập lành
mạnh, tươi tắn và thật cần thiết.
Phật Giáo nhìn vấn đề đồng tính luyến ái như thế
nào?
Ai lại chẳng biết vấn đề đồng
tính luyến ái xưa như trái đất, thế nhưng không
hề thấy có một trang kinh sách nào đề cập đến
vấn đề này. Sự giao du tính dục giữa hai người
có cùng một giới tính hay không thì cũng không
phải là một lý do để vin vào đó mà phán đoán là
hành vi tính dục của họ có đúng đắn hay không.
Xúc cảm và sự chủ tâm của họ mới là các tiêu
chuẩn giúp để đánh giá hành vi của họ. Điều
thiết yếu nhất là không được gây ra khổ đau cho
người khác.
Trên dòng lịch sử Phật Giáo
người ta thấy phát sinh nhiều quan điểm khá khác
biệt nhau.
Tại Nhật
Bản, đồng tính luyến ái được cho phép ngay cả
bên trong các tu viện, đôi khi còn được tổ chức
dưới hình thức nghi lễ nữa. Các nhà sư thường
xuất thân từ giới quý tộc hay võ biền, và trong
các giới này thì đồng tính luyến ái được xem là
một hình thức văn hóa tao nhã và đặc biệt được
quý trọng, không như là sự giao hợp hạ cấp giữa
người nam và nữ.
Phần đông trong các xã
hội bảo thủ, chẳng hạn như Trung Quốc thì đồng
tính luyến ái bị lên án vì đấy là một sự tuyệt
tự, không sinh con đẻ cái để nối dõi tông đường
- tức là không có con cháu để thờ cúng ông bà và
lưu truyền dòng họ.
Đồng tính luyến ái trước đây
từng bị cấm đoán thật gắt gao trong xã hội Tây
Tạng. Một số các vị thầy ngày nay vẫn còn tiếp
tục giữ đúng theo quan điểm đã được nêu lên
trong rất nhiều kinh sách Tây Tạng, cho rằng "các
cơ quan sinh dục là để giúp vào việc sinh sản
giữa hai thành phần nam và nữ giới; và theo quan
điểm Phật Giáo thì mọi hình thức lệch lạc đều
không thể chấp nhận được". Quả thật hết sức
ngạc nhiên khi thấy các lời phát biểu mang tính
cách "sinh học hóa" như trên đây lại được thốt
ra từ miệng của các vị thầy thuộc lãnh vực tâm
linh (rất có thể
quan điểm của các vị thầy trên đây đã chịu ảnh
hưởng gián tiếp bởi một trong các khái niệm chủ
yếu nhất của Phật Giáo Tây Tạng là sự kết hợp
bất khả phân giữa từ bi và trí tuệ, và sự kết
hợp này thì lại thường được biểu trưng bằng hình
ảnh kết hợp giữa nam tính và nữ tính, do đó một
số các vị thầy "bảo thủ" luôn muốn bảo vệ hình
ảnh "cổ truyền" này và không muốn cho nó bị sứt
mẻ).
Tuy nhiên cũng có các vị thầy
Tây Tạng khác cho rằng đồng tính luyến ái chẳng
là vấn đề gì cả - những
gì chủ yếu hơn là phải thành thật và biết kính
trọng lẫn nhau trong sự giao du, đấy mới đích
thật là các tiêu chuẩn để đánh giá một hành vi
tính dục có chính đáng hay không.
Tóm lại mỗi người tự nhìn ra
cửa nhà mình để xem có phải đúng giữa trưa hay
không (câu tục ngữ
này của Pháp có nghĩa là xét đoán một thứ gì hay
một sự kiện nào đó tùy theo quan điểm riêng của
mình).
Ở phương Tây thì lại khác,
chúng ta phải tự vấn xem có nên ngả theo khuynh
hướng thù ghét đồng tính luyến ái (homophobie /
homophobia) hay không, một thứ khuynh hướng luôn
đi đôi với chủ nghĩa tôn thờ nam giới (machisme
/ male chauvinism) thật cực đoan của một vài dân
tộc Á Châu (ý của
câu này vô cùng khúc triết nếu không muốn nói là
rất khó để thấu triệt: có thể tác giả muốn nói
lên là đồng tính luyến ái chủ trương sự bình
đẳng tuyệt đối trên phương diện giới tính - tức
nam và nam, nữ và nữ - trong khi đó thì sự thù
ghét đồng tính luyến ái là một hình thức gián
tiếp chủ trương ngược lại, tức là trọng nam
khinh nữ, và đấy là một tình trạng lạc hậu mà
người Tây Phương phải nên tự vấn trước khi ngả
theo khuynh hướng thù ghét đồng tính luyến ái).
Chúng ta
(những người Phật Giáo)
nào có bổn phận phải sửa đổi các giới luật đạo
đức Phật Giáo và chỉ trích các thành kiến lâu
đời mà theo chúng ta thì ngày nay không thể nào
còn chấp nhận được? Phải chăng chúng ta cũng
không hề có nghĩa vụ phải chấp nhận các điều ấy,
mà theo chúng ta thì ngày nay không còn phù hợp
với những lời giáo huấn của Đức Phật nữa, dù cho
các điều ấy được khẳng định bởi các cấp lãnh đạo
uy tín? (ý của câu
này lại còn khúc triết hơn cả ý của câu trên đây.
Trước hết nên ghi nhận tác giả là người Tây
Phương, viết cho người Tây Phương, trong bối
cảnh của xã hội Tây Phương dưới áp lực nặng nề
của xu hướng thù ghét đồng tính luyến ái, và áp
lực đó là những gì phát sinh từ căn bản tín
ngưỡng lâu đời của họ. Phần lớn những người Tây
Phương bảo thủ cảm thấy mình có bổn phận phải
chống lại đồng tính luyến ái vì "tệ nạn" này đi
ngược lại với những nguyên tắc căn bản trong các
truyền thống tín ngưỡng lâu đời của họ.
Trong khi đó thì những người Phật Giáo
có một thái độ phóng khoáng hơn, họ không hề có
trách nhiệm phải sửa đổi đạo đức Phật Giáo nhằm
thích ứng với bối cảnh ngày nay, họ cũng không
có bổn phận phải chấp nhận những điều mà theo họ
thì ngày nay không còn phù hợp với những lời
giáo huấn của Đức Phật, dù rằng các điều ấy là
do các "cấp lãnh đạo uy tín" buộc họ phải chấp
nhận.
Đối với Phật Giáo thì đồng tính luyến ái
là một hiện tượng tương tự như muôn ngàn hiện
tượng khác trong vũ trụ. Nếu nhìn dưới một góc
cạnh giới hạn hơn thì đấy là một hiện tượng xã
hội tương tự như các hiện tượng xã hội khác, và
nếu đặt hiện tượng đó vào một lãnh vực thu hẹp
hơn nữa thì đấy là nghiệp của một cá thể. Đã nói
đến nghiệp thì phải hiểu rằng đấy không phải là
một hình phạt, một định mệnh, cũng không biểu
trưng cho một thứ tội lỗi nào cả.
Người ta thường hiểu sai một cách máy
móc rằng nghiệp là một thứ hậu quả mang tính
cách tiêu cực, tương tự như một hình phạt mà một
cá thể phải gánh chịu. Thế nhưng nghĩa từ chương
của nghiệp là "hành động" (karma), và ý nghĩa
sâu xa nhất của nó cũng là "hành động". Nếu đã
là một "hành động" thì nó luôn hàm chứa ý nghĩa
của một sự tự do nào đó. Tương tự như thế thì
đồng tính luyến ái cũng mang một khía cạnh tự do
nào đó, một cá thể "tự do" nhận lãnh hậu quả
mang lại từ hành động của mình và đồng thời cũng
"tự do" tạo ra nghiệp cho mình bằng các hành
động của chính mình. Tóm lại theo quan điểm Phật
Giáo thì không có một giới luật hay một quy tắc
nào nhằm lên án đồng tính luyến ái như là một sự
sai lầm trầm trọng, một thứ tội lỗi mà người vi
phạm phải bị gạt ra bên lề xã hội.
Đồng tính luyến ái cũng xuất hiện trong
các xã hội Á Châu tương tự như trong các quốc
gia Tây Phương thế nhưng với ít nhiều kín đáo và
có vẻ khá bình thường. Trái lại trong các quốc
gia Tây Phương thì đồng tính luyến ái lại là một
vấn đề thật gai góc, hàng trăm ngàn cho đến hàng
triệu người biểu tình hàng năm tại khắp các
thành phố lớn để đòi hỏi quyền sống, nhân phẩm,
cũng như sự bình đẳng của họ trong xã hội và
trước pháp luật.
Các xã hội Tây Phương chủ trương tự do
cá nhân tuyệt đối, thế nhưng trên phương diện "đạo
lý" thì lại chịu ảnh hưởng quá nặng nề bởi các
truyền thống tín ngưỡng lâu đời, luôn tìm cách
lên án một số hành vi mang tính cách hoàn toàn
thuộc vào lãnh vực cá nhân (ngừa thai, đồng tính
luyến ái, bao cao-su...). Đấy chính là lý đo đưa
đến một sự mâu thuẫn và nghịch lý thật nan giải.
Thật ra thì cái "của ấy" là của riêng của mỗi
người, sử dụng nó như thế nào hay là không sử
dụng nó, ấy là cái quyền tự do của từng người.
Vai trò của đạo đức là phải tự đặt mình vào một
vị thế cao hơn để hướng vào sự an vui và hài hòa
trong xã hội, không nên rình mò những chuyện ấy
để mà lên án, vì đấy chỉ là một hình thức đạo
đức lạc hướng.
Đối với người Phật Giáo thì nên nhìn vào
vấn đề tính dục nói chung - dưới mọi hình thức
đa dạng và lệch lạc của nó - như là một cách "cụ
thể hóa" của bản năng truyền giống. Nếu đã là
bản năng thì đấy cũng chỉ là một phương tiện mà
nghiệp sử dụng để chi phối và trói buộc con
người. Nếu nhìn vào mười hai mối dây trói buộc -
còn gọi là thập nhị nhân duyên - buộc chặt chúng
sinh vào cõi luân hồi, thì sẽ thấy rằng mối dây
thứ nhất, tượng trưng cho vô minh nguyên thủy,
là nguyên nhân sâu xa nhất đưa đến sự sinh. Vì
thế nếu muốn kết án thì nên kết án sự sinh,
không nên kết án một hình thức "cụ thể hóa" nào
cả của bản năng truyền giống, dù cho chúng có bị
lệch lạc nhiều hay ít, vì đấy chỉ là hậu quả tất
yếu của sự sinh mà thôi).
Phải chăng
đã đến lúc cần phải chống lại sự hung bạo của
các tôn giáo, một thứ công an canh chừng tâm
linh và thể xác con người mà các tôn giáo ấy chỉ
muốn áp đặt cho con người, kể cả đôi khi bằng
sức mạnh.
Phật Giáo quan niệm thế nào về cách sử dụng đồng
tiền?
Phật Giáo rất ít đề cập đến
cách kiếm tiền mà trái lại
chỉ quan tâm đến thái độ đối với đồng tiền.
Thật vậy, chối bỏ của cải và
phát nguyện chọn cho mình một cuộc sống nghèo
khó (xuất gia)
là một phương pháp thật sâu sắc giúp đối phó dễ
dàng hơn trước sự chi phối của đồng tiền. Đấy là
con đường của các vị tu hành, họ khất thực từng
ngày để kiếm miếng ăn và chẳng có một chút của
cải nào ngoài manh áo cà-sa trên người cùng
chiếc bình bát trên tay.
Trái lại, đối với người thế tục
thì họ tự do tìm kiếm một phương tiện mưu sinh
mang lại cho mình một cuộc sống thoải mái nhất,
miễn là không nên để cho phương tiện mưu sinh ấy
đưa mình đi quá xa để rồi phải rơi vào thất vọng
(không nên quá tham
vọng, dự trù quá lớn, hoạch định quá xa, vượt
khỏi khả năng của mình để rồi phải gánh lấy thất
bại). Phật Giáo không xem sự nghèo
khó là một lý tưởng giống như trong Thiên Chúa
Giáo.
Ham
muốn tiền bạc cũng chẳng khác gì ham muốn các
thứ khác, nếu xem đấy là một cách biểu lộ cái
ngã của mình thì nó sẽ khiến cho mình dễ bị rơi
vào sự mù quáng. Là một người Phật Giáo thì
không được bám víu vào tiền bạc, không nên để
mình nô lệ cho tiền bạc - thế nhưng không
phải vì thế mà phải khước từ và chối bỏ tiền bạc,
không được phép đụng chạm vào nó.
Con đường ấy gọi là con đường
trung đạo. Thế nhưng trung đạo là gì? Quả thật
đấy là một thứ gì khá xa lạ đối với chúng ta
(người Tây Phương),
bởi vì chúng ta thường có thói quen suy nghĩ dựa
vào nguyên tắc nhị nguyên
(nhị nguyên ở đây có
nghĩa là một sự tương phản hay một sự đối nghịch:
tham tiền hoặc là không tham tiền. Trung đạo là
con đường ở giữa hai cực đoan đó).
Trung đạo có nghĩa là không được ham muốn tiền
bạc, cũng không phải là không muốn có tiền bạc
(đây là cách diễn
đạt theo "tứ đoạn luận" của Long Thụ: "không-muốn-có"
cũng "không-phải là không-muốn-có", đấy là hai
vế trong số bốn vế của phép lôgic gọi là tứ đoạn
luận). Tóm lại là chúng ta phải phát
động được một mối tương quan thật phóng khoáng
đối với tiền bạc.
Nói một
cách khác, nếu xem việc tìm kiếm tiền bạc là mục
đích của sự hiện hữu con người thì đấy sẽ là một
thái độ vô cùng thiển cận và phi lý, và đấy cũng
chẳng khác gì với thái độ ngược lại tức là chối
bỏ tiền bạc. Tóm lại điều quan trọng hơn cả
chính là động cơ thúc đẩy từ bên trong nội tâm
của chính mình.
Chúng ta có thể chỉ muốn kiếm
được ít tiền thế nhưng lúc nào cũng cứ để cho
đồng tiền ám ảnh mình, hoặc ngược lại thì cứ làm
ra thật nhiều tiền thế nhưng biết tiêu xài đồng
tiền để mang lại một cuộc sống tiện nghi hơn, và
đồng thời chẳng những không bám víu vào đồng
tiền mà biết đâu chúng ta lại còn biết sử dụng
nó để biến mình trở thành một con người hào
phóng nữa.
Làm thế nào để có thể biết được là hành động của
mình có đúng hay không trong khi phải phản ứng
nhanh chóng trước một biến cố đang xảy ra?
Đấy là nhờ vào cách phân tích
các dấu vết lưu lại từ các hành động của mình.
Bước theo bước chân của Đức
Phật có nghĩa là phải phân tích được từng cảnh
huống xảy ra ngày càng chính xác hơn hầu tìm
cách ứng xử với chúng một cách thích nghi nhất.
Không có một quy tắc nhất định nào được thiết
lập sẵn để chúng ta có thể dựa theo đó mà ứng xử.
Kinh sách có đề cập đến một trường hợp bắt buộc
phải phạm vào hành động sát nhân - đấy là trường
hợp phải hạ sát một tên cướp sắp ra tay giết hết
cả một đoàn thương nhân để cướp của.
(đây là một câu chuyện
về một vị Bồ-tát tiền thân của Đức Phật giết tên
cướp để cứu đoàn người trên thương thuyền).
Cách ứng xử trên đây thật hoàn
toàn khác lạ khi đem so với quan điểm của triết
gia Kant. Đối với triết gia này thì điều khoản
cấm nói dối chẳng hạn phải được tôn trọng một
cách tuyệt đối, không được phép vi phạm bất cứ
trong trường hợp nào. Nếu là như thế thì nào có
khó khăn gì để biết rằng mình có đúng hay không,
chỉ cần biết tuân hành luật pháp là đủ.
Phật Giáo mở ra một tầm nhìn
hoàn toàn khác hẳn. Phải quán xét hành động của
mình và cả động cơ thúc đẩy hành động ấy nữa
(hành động phát sinh từ
một tác ý trong tâm thức, và tác ý thì phát sinh
từ một vết hằn của nghiệp tồn lưu trên dòng tiếp
nối liên tục của tri thức. Sở dĩ vết hằn chuyển
thành tác ý là vì tri thức diễn đạt những gì mà
ngũ giác cảm nhận được khi tiếp xúc với ngoại
cảnh, và sự diễn đạt đó đã "đánh thức" và "kích
động" vết hằn để chuyển nó trở thành tác ý. Tiếp
theo đó thì tác ý phát lộ ra bên ngoài bằng hành
động hay ngôn từ. Tóm lại các phản ứng đó - tức
là hành động phát lộ trên thân xác hay ngôn từ -
luôn phản ảnh các xung năng sâu kín tồn lưu trên
dòng tri thức. Một người tu tập phải quán thấy
và theo dõi được quá trình diễn biến đó hầu giúp
mình chủ động được hành động và ngôn từ của mình,
không cho phép các tác ý nguy hại điều khiển
mình. Người tu tập không nên chỉ biết nhìn vào
hành động tức là hậu quả mà còn phải nhìn vào
nguyên nhân tức là các xung năng sâu kín trong
tâm thức mình).
Bạn có thể tự hỏi là mình hành
động vì hạnh phúc của chúng sinh hay chỉ để thực
hiện các ý đồ và tham vọng cá nhân của mình? Nói
cách khác thì động cơ thúc đẩy hành động của bạn
có phải là con tim thức tỉnh (bodhicitta)
- (bồ-đề tâm)
- của bạn, hay đấy chỉ là cách biểu lộ nhằm
đề cao bản thân mình
(narcissique /
narcissistic) hay là vì một sự lo sợ
nào đó?
Nếu nhìn theo khía cạnh này thì
đạo đức Phật Giáo sẽ gần với một hình thức đạo
lý (sagesse / wisdom
/ sự khéo léo hay khôn ngoan) hơn là
một hình thức luân lý.
Hối hận và mặc cảm tội lỗi có giữ một vai trò
nào trong Phật Giáo hay không?
Không có lý do gì để phải mang
nặng cảm tính tội lỗi. Chẳng những mặc cảm tội
lỗi không có lợi ích gì mà còn có nguy cơ khiến
cho chúng ta tự giam thân vào chính mình. Đấy
không phải là một cảm tính mang tính cách Phật
Giáo, bởi vì đối với Phật Giáo khái niệm về tội
tổ tông hoàn toàn xa lạ, và hơn nữa Phật Giáo
lại luôn nhấn mạnh đến sự kiện là từ bên trong
của tất cả mọi con người đều có tàng ẩn một sự
toàn thiện, và chỉ cần làm cho nó hiện ra.
Trái lại hối hận có thể mang
lại lợi ích.
Nếu lỡ
phạm một giới luật mà trước đây mình đã nguyện
phải tuân thủ, và nếu cảm thấy mình không đủ
nghị lực để thực thi lời nguyện ước đó của mình,
thì điều quan trọng hơn hết là phải ý thức được
thực trạng ấy. Không nên bó tay cam phận mà cũng
không nên ngoảnh mặt làm ngơ trước sự kiện đó.
Cả hai thái độ đều chứng tỏ mình là người thiếu
trách nhiệm, không xứng đáng là một con người
trưởng thành.
Hối tiếc đã tự buông thả
(để làm một việc không
nên làm) sẽ khiến cho con tim mình bị
va chạm, đấy cũng là cách giúp mình nhìn thấy
minh bạch hơn cách mà mình đã phạm vào lỗi lầm
và nhờ đó mình sẽ biết giữ gìn đạo đức cẩn thận
hơn.
Khi nào cảm giác hối hận không
còn dày vò mình nữa thì cũng nên mượn cái đà đó
để phát động lòng quyết tâm thật vững chắc bước
theo con đường của Đức Phật.
Tại sao đạo đức Phật Giáo lại được phát huy dựa
vào thiền định?
Đạo đức Phật Giáo luôn đòi hỏi
mỗi giây phút trong cuộc sống đều phải là những
giây phút hoàn hảo. Vị thiền sư Zen Shunryu
Suzuki từng phát biểu như sau: "Làm bếp hay nấu
ăn không nhất thiết chỉ là việc nấu nướng mà còn
là một sự tu tập nữa. Khi làm bếp thì bạn phải
biểu lộ được chính mình qua các động tác của
việc làm bếp. Nấu ăn không chỉ có nghĩa là chế
biến thức ăn cho một người nào đó hay là cho bạn;
đấy là một dịp để biểu lộ sự ngay thật
(sincérité / sincerity
/ sự đơn sơ, giản dị và chân thật)
của mình. Khi nấu ăn thì bạn phải phát lộ được
sự hiện hữu của bạn qua các động tác liên quan
đến việc bếp núc. Bạn phải đặt tất cả sự chú tâm
của mình vào việc làm bếp, bạn cứ nấu nướng thế
nhưng tâm thức luôn trong một thể dạng thanh
thản và không mong cầu bất cứ điều gì. Bạn chỉ
cần biết là mình đang nấu ăn thế thôi! Đấy là
phương cách làm hiển lộ thể dạng chân thật và
đơn sơ của bạn và đấy cũng là một cách góp phần
vào việc tu tập của chính bạn".
Chúng ta sẽ bị đánh lạc hướng
khi tin rằng việc tu tập tâm linh là một cách
tạo ra một sự nối kết nào đó với một thể dạng
tuyệt đối, với một sự thật tối hậu, với Trời hay
với sự giác ngộ. Đấy là cách mà chúng ta nghĩ
rằng con đường tu tập tâm linh mà chúng ta đang
bước theo phải đưa chúng ta đến một nơi không
còn các ảo giác của thế gian này. Thế nhưng thật
ra thì đấy lại không phải là con đường của Đức
Phật. [Bước đi trên con
đường ấy thì ] chẳng hề có một nơi nào
khác (để mà mong cầu),
cũng không có gì gọi là lý tưởng
(để mà nhắm đến).
Tu tập Phật Giáo là cách trực
tiếp quan tâm đến thực tại với tất cả sự đơn sơ
của nó. Đấy không phải là cách giúp mình tìm
kiếm một lối thoát. Tất cả mọi cử chỉ và hành
động đều góp phần vào việc tu tập, chẳng hạn như
cất lời để chào một người nào đó khi gặp nhau,
phát lộ một thái độ nào đó, mặc áo, ăn cơm... -
tất cả đều là đạo đức
(phải luôn ý thức và
cảnh giác trong từng cử chỉ nhỏ nhặt của mình).
Không được phép thả lỏng tâm
thức để cho nó tha hồ đi nghỉ mát.
Không-hành-động có nghĩa là gì và tại sao nó lại
biểu trưng cho ý nghĩa sâu xa nhất của đạo đức
Phật Giáo?
Đối với Phật Giáo, sống một
cuộc sống đạo đức có nghĩa là luôn quán thấy
được sự đúng đắn và tốt lành trong từng cảnh
huống xảy ra nhằm giúp mình ứng xử một cách tự
nhiên và phù hợp theo chiều hướng đó.
Đạo đức Phật Giáo được hình
thành từ các kinh nghiệm cảm nhận trong cuộc
sống hằng ngày của con người. Ta đi ngoài đường
và đang nghĩ đến buổi họp mà mình sắp tham dự,
bỗng dưng trông thấy một người đang đi phía
trước gặp nạn (bị
cướp giật, hành hung hay vấp ngã...).
Vậy ta phải phản ứng như thế nào? Một hành động
đạo đức không nhất thiết chỉ được phát động dựa
vào sự cân nhắc hay lý luận mà thông thường là
nhờ vào khả năng ứng xử nhanh chóng trước một
biến cố đang xảy ra.
Đấy là một cách đáp ứng tự
nhiên trước một cảnh huống đặc biệt nào đó, và
sau đấy thì nó phải được tiếp tục phát huy bởi
trí thông minh trực giác (prajna)
(trí tuệ).
Phật Giáo gọi một hành động không phát sinh từ
bất cứ một sự cân nhắc nào là "không-hành-động".
Không-hành-động không có nghĩa
là "không làm gì cả" mà thật ra là có làm - thế
nhưng không phải vì thế mà hành động "làm" không
phát lộ được quyết tâm của một chủ thể rõ rệt
nhằm mục đích làm nổi bật cái chủ thể ấy lên
(thí dụ ta bố thí thế
nhưng lại không hề ý thức được là mình bố thí,
bố thí cái gì và bố thí cho ai, như thế gọi là
không-bố-thí thế nhưng thật ra thì lại là bố-thí,
vì phía sau hành động bố thí ấy vẫn tàng ẩn một
sự quyết tâm của một chủ thể với một con tim mở
rộng và đôi bàn tay để ngửa).
Sự kiện không-hành-động bên
trong hành-động (chẳng
hạn như bố thí mà không biết rằng mình là người
bố thí) có vẻ như là một sự nghịch lý,
thế nhưng cũng có thể hiểu như một cá thể hành
động và hành động của cá thể ấy vượt lên trên
tính cách nhị nguyên
(không có chủ thể và
đối tượng). Tuy cá thể ấy hành động,
thế nhưng không để cho ý niệm về cái ngã trong
đầu mình tìm thấy một khe hở nào khả dĩ có thể
quan sát được bối cảnh đang diễn biến bên ngoài
(liên quan đến hành
động của cá thể ấy). Kinh nghiệm cảm
nhận ấy thật hết sức đơn giản và bất cứ ai cũng
có thể thực hiện được. Thí dụ như trong khi thi
đấu thể dục (phải
chú tâm vào các động tác, chẳng hạn như nhảy cao,
hay dùng chân đá vào một quả bóng),
đi thi (chú tâm vào
đề tài thi), nấu ăn
(xem nồi nước đã sôi
chưa, đã đến lúc phải cho rau vào nồi hay chưa...)
- trong những lúc đó ý niệm về cái ngã của mình
có thể sẽ bị xóa mờ đi giúp cho mình hoà nhập
vào những gì mình đang làm.
Nghệ
thuật Phật Giáo nói chung và đặc biệt nhất là
nghệ thuật Nhật Bản thường gợi lên thật rõ rệt
tính cách không-hành-động đó. Ngọn bút lông của
một người viết thư pháp lướt trên mặt giấy có vẻ
như theo ý muốn của chính nó, người nghệ sĩ
không hề nghĩ đến chính mình là người điều khiển
các chuyển động nơi đầu ngọn bút. Một nhạc sĩ
đang kéo đàn hồ cầm thế nhưng lại có cảm giác là
không phải mình đang chơi nhạc mà âm nhạc tự nó
đang réo rắt. Người nhạc sĩ hoàn toàn hội nhập
với những gì mình đang làm, đến độ không còn ý
thức được chuyển động của các ngón tay, cũng
không ý thức được nhạc cụ mà mình đang sử dụng
kể cả sự kiện là mình đang chơi nhạc. Người quan
sát - tức cái ngã - thông thường giữ vai trò
phẩm bình và phán đoán những gì mà chúng ta đang
thực thi (diễn đạt
các hiện tượng đang xảy ra) bỗng dưng
biến mất. Chúng ta hoàn toàn hòa nhập vào hành
động mà chúng ta đang thực thi. Thế nhưng không
phải vì vậy để có thể bảo rằng chúng ta rơi vào
một tình trạng "vô thức", trái lại là đằng khác
bởi vì ngay chính những lúc ấy thì sự hiện diện
của chúng ta trong thực tại trở nên vững chắc
hơn bao giờ cả (ta
hội nhập vào những gì đang xảy ra và theo đó cái
ngã cũng sẽ tan biến đi, ta trở thành hiện thực
và hiện thực cũng chính là ta, không có con
người nào cả, cũng chẳng có cái ngã nào cả).
Tại sao trên dòng lịch sử Phật Giáo lại có những
vị thầy bất chấp đến đạo đức, đôi khi lại còn có
vẻ như khinh thường người khác nữa? Điều ấy có
phải là một sự chướng mắt hay không?
Thật thế, tại các quốc gia như
Trung Quốc, Triều Tiên, Tây Tạng..., quả không
còn là chuyện lạ khi trông thấy một số các vị
thầy thật quái dị, bất chấp đạo đức và rất thích
tìm cách trêu chọc những ai có khuynh hướng suy
nghĩ ngay thật và một chiều. Thái độ bất tuân
thủ (các quy ước và
các lề lối công thức) đôi khi cũng
được xem như là một phép tu tập đối với một số
học phái Phật Giáo - đấy cũng là một cách làm
phát lộ sức mạnh và tính cách gây chấn động
trong các lời giảng của Đức Phật.
Đúng ra thì chẳng có một vị
thầy nào chế nhạo đạo đức cả. Đấy chẳng qua là
vì trong số họ có một vài vị nhận thấy đạo đức
rất dễ bị biến thể để trở thành một thứ chủ
nghĩa rập khuôn (conformism)
đôi khi còn có thể xem như là một thứ đạo đức
giả trong xã hội nữa.
Đấy chỉ là cách ứng xử mà các
vị thầy này đã dùng để thích ứng với các cảnh
huống xảy ra (có
những cảnh huống phải ứng xử bằng sự khiêu khích
và thô bạo). Đấy cũng là một cách
nhắc cho chúng ta hiểu rằng sự giác ngộ đôi khi
cũng phát hiện qua một một sự chấn động
(choquant / shocking)
nào đó. Đạo đức cũng là một phép tập luyện tuyệt
vời nhất giúp chúng ta trút bớt gánh nặng của
cảm tính hẹp hòi luôn tự xem mình là trung tâm,
và nhất là ý thức được là không phải chỉ biết
tuân thủ đạo đức là đủ mà còn phải giải thoát
con người ra khỏi những gì quá đỗi tầm thường và
cả sự lo sợ trong lòng họ
(lo sợ phạm vào sai lầm
hay không tuân thủ được các giới luật...).
Một thái độ hành xử thích nghi nhất đối với một
cảnh huống xảy ra không nhất thiết có thể nhận
biết được từ một góc nhìn thuộc bên ngoài thái
độ đó (có nghĩa là
rất khó cho chúng ta đánh giá một hành động hay
một cách ứng xử khi mình đứng vào vị trí thứ ba).
Người ta thường nói đến hiện
tượng này và xem đấy như là một "sự điên rồ đầy
khôn ngoan" ("une
folle sagesse" / "a mad wisdom"), một
sự khôn ngoan trở nên điên loạn khi bắt buộc
phải ứng xử thật thích nghi với luân lý, một sự
khôn ngoan dám chấp nhận sự điên rồ để có thể
biểu lộ được quan điểm của mình một cách tư do
hơn. Thế nhưng đấy lại chính là một cách biểu lộ
chân thật nhất của tình thương yêu, một thể dạng
tối hậu của đạo đức
(vị thiền sư Lâm Tế không ngần ngại gì khi trợn
mắt và chặt phăng ngón tay của một người đệ tử
khi người này bắt chước ông đưa một ngón tay lên
và không trả lời mỗi lần có ai hỏi bất cứ điều
gì. Vị thiền sư không tức giận vì tên đệ tử dám
cả gan bắt chước ông mà ông chỉ thương cho hắn
bám víu và bắt chước một cách ngu xuẩn những gì
người khác làm. Tên đệ tử quá sợ ôm bàn tay đầy
máu me và phóng chạy. Vị thiền sư chưa chịu tha
mà còn cầm dao đuổi theo. Tên đệ tử quay lại
thấy thầy mình trợn mắt và đưa một ngón tay lên,
trong khi ngón tay của mình thì đã bị chặt mất,
hắn chợt bừng tỉnh và
bất thần đạt được giác
ngộ. Chỉ xin mạn phép nhắc nhở những ai mà tình
thương trong lòng mình chưa đủ phát lộ một sức
mạnh tương tự như thiền sư Lâm Tế thì cũng không
nên bắt chước theo cách giảng dạy ấy của ông).
Thiền định, đạo đức và sự hiểu biết trực giác
Đối với phần đông các người tu
tập Phật Giáo thì toàn bộ giáo huấn của Đức Phật
có thể tóm lược thành ba điểm chính như sau: đạo
đức (shila), thiền định (samadhi)
và sự hiểu biết trực giác (prajna)
(trí tuệ).
Đấy là ba sức mạnh góp phần giải thoát cho tâm
thức của chúng ta. Con đường của Đức Phật là sự
kết hợp của ba phép luyện tập ấy
(tu giới, tu định và tu
tuệ).
Đạo đức là chiếc áo đẹp nhất mà
con người có thể khoác lên người mình. Chiếc áo
đó phát sinh từ con tim mình để tỏa sáng và
chiếu rọi bên trong con người mình, và sau đó
thì tỏa rộng ra trong toàn thế giới. Nó giúp
chúng ta bảo vệ được thể dạng vẹn toàn và xứng
đáng nhất của mình. Chiếc áo ấy sẽ tác động đến
từng hành động, cử chỉ và ngôn từ của chúng ta.
Thiền định giữ chúng ta trên
mặt đất này và mở ra cho chúng ta một bầu không
gian đầy sinh động. Nó cũng chẳng khác gì một
con ngựa để chúng ta cưỡi hầu giúp chúng ta có
thể quay trở về với tâm thức của chính mình và
tránh cho mình không trở thành nạn nhân của mọi
thứ lo âu và ngờ vực.
Sự hiểu biết trực giác giúp
chúng ta quán nhận được một cách minh bạch mọi
sự vật đúng như thế. Sự học hỏi đúng nghĩa của
nó không
nhất thiết chỉ là một cách gom góp sự hiểu biết
hay là để trở thành một nhà bác học, mà hơn thế
còn giúp chúng ta nhận biết được tại sao và bằng
cách nào chúng ta lại không thực sự là chính
mình.
Người ta thường mượn hình ảnh
một cái bình đựng nước và bóng của con trăng
phản chiếu trong bình để biểu trưng cho tầm quan
trọng và mối tương quan giữa ba nguồn năng lực
trên đây (đạo đức,
thiền định và trí tuệ).
Đạo đức là cái bình, biểu trưng
cho thái độ hành xử của chúng ta và đấy cũng là
những gì góp phần bảo vệ con người của chính
mình.
Thiền định có thể ví như nước
đựng trong bình. Chúng ta phải luyện tập như thế
nào để giữ cho nước được yên lặng nhằm biến nó
trở thảnh một tấm gương thật trong sáng.
Sự
hiểu biết trực giác tượng trưng bởi hình bóng
rạng ngời của mặt trăng phản chiếu trong đáy nước.
Nếu chiếc bình dơ bẩn và lắc lư
thì mặt nước sẽ chòng chành và không phản chiếu
được bóng trăng của trí tuệ.
Nếu bóng
trăng bị chao đảo thì làm thế nào nước trong
bình và cả cái bình có thể đón nhận được vẻ đẹp
tròn đầy của thiên thể ấy trong vũ trụ.
Hoàng Phong
chuyển ngữ


|