THÀNH KÍNH TƯỞNG NIỆM

Cố Hòa Thượng THÍCH THIỆN NHƠN
(1931 -
2013)

TIỂU SỬ
TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG
Thượng THIỆN Hạ NHƠN
1. THÂN THẾ:
Hòa thượng Thích
Thiện Nhơn thế danh Hồ Thanh Tùng, sinh năm Tân
Mùi (1931) tại thôn Tân Hòa, xã Cát Trinh, huyện
Phù Cát, tỉnh Bình Định. Thân phụ là Cụ ông Hồ
Ngộ, Pháp danh Như Đạo và Thân mẫu là Cụ bà
Nguyễn Thị Sáu, Pháp danh Diệu Tùng, trong gia
đình có sáu người con, Ngài là người con thứ ba.
Gia đình Ngài có nhiều đời truyền thống thâm tín
Tam Bảo. Hai vị bào đệ và bào muội từng xuất gia
và thành tựu đạo nghiệp rất đáng kể, đó là Thầy
Bửu Thanh và Ni sư Quảng Trí.
2. XUẤT GIA HỌC
ĐẠO:
Từ nhỏ,
Ngài đã sớm có duyên lành với đạo Phật, Ngài
thường xuyên theo cha mẹ đến chùa lạy Phật. Với
bẩm chất thông minh, Ngài đã sớm đậu bằng
Primaire. Chủng tử Phật pháp trong Ngài sớm nảy
nở nên năm 12 tuổi (1942), học đạo với thiền sư
Tâm Minh là Tổ khai sơn chùa Thiên Sanh (thường
gọi là chùa Hang) ở Phù Mỹ. Sau đó, theo học với
Ngài Quảng Đức tại chùa Tịnh An - Phù Cát.
Năm 1944, cơ
duyên phùng ngộ Hòa thượng Thích Giác Tánh, là
bậc Pháp sư lừng lẫy khắp miền Trung, uyên thâm
kinh điển Đại Thừa, kế thừa Tổ Tâm Tịnh-Huệ
Chiếu, trụ trì chùa Hưng Long – An Nhơn. Vì cảm
phục đạo phong của Hòa thượng Giác Tánh, Ngài
cùng với Hòa thượng Thiện Duyên đầu sư xuất gia,
được phú Pháp danh là Quảng Phước.
Năm 1950, Ngài
được Bổn sư và Hòa thượng Trí Nghiêm truyền trao
giới pháp Sa Di tại chùa Hưng Long – An Nhơn,
được ban Pháp tự là Thiện Nhơn.
3. HÀNH ĐẠO:
Từ năm 1948 -
1954, Ngài làm Thư ký Phật giáo Cứu Quốc Liên
khu 5.
Năm 1954, sau khi
Hiệp định Genève chia đôi đất nước, dưới sự
khuyến khích của Hòa thượng Bổn sư, Ngài cùng
đoàn Học Tăng từ Phật Học Đường Hưng Long, Bình
Định, 12 vị, gồm quý Hòa thượng: Thích Đồng
Thiện, Thích Thiện Duyên, Thích Đổng Minh, Thích
Đổng Quán, Thích Tâm Hiện, Thích Đồng Từ, Thích
Nguyên Trạch, Thích Từ Hạnh, Thích Liễu Không,
Thích Tâm Lâm, Thích Đổng Tánh…đi bộ vào Khánh
Hòa để cầu tòng học chuyên khoa Kinh, Luật, Luận
tại Tăng Học Đường Nam Phần Trung Việt-Nha Trang
(tiền thân của Phật Học Viện Trung phần-Nha
Trang), do Hòa thượng Thích Huyền Quang làm giám
đốc.
Năm 1957, cùng
rất đông Pháp lữ đồng môn, Ngài được Hòa thượng
Bổn sư cho phép đăng đàn thọ giới Cụ túc tại Đại
giới đàn Hộ Quốc ở Nha Trang, do Trưởng Lão Hòa
thượng Thích Giác Nhiên làm Đường đầu, được Bổn
sư ban Pháp hiệu là Quán Hạnh.
Năm 1958, Ngài
tốt nghiệp chương trình Cao Đẳng Phật học từ
Phật Học Đường Trung phần, được Tổng Hội Phật
Giáo Việt Nam bổ nhiệm làm Giảng sư, giáo hóa
khắp các tỉnh miền Trung từ Quảng Nam vào đến
Bình Thuận và các tỉnh Cao Nguyên. Cũng trong
giai đoạn này, Ngài được mời kiêm nhiệm Chánh
Hội Trưởng Hội Phật học Quảng Ngãi trong 2 năm.
Năm
1964-1975, GHPGVNTN thỉnh cử Ngài làm Chánh Đại
Diện Giáo hội tỉnh GiaLai – KonTum. Trong giai
đoạn này, Ngài cũng thành lập và làm Giám đốc
các trường Bồ Đề tại Pleiku.
Năm
1966-1967, Ngài gia nhập Nha Tuyên úy Phật giáo,
và được bổ nhiệm làm Chánh Sở Tuyên Úy Phật Giáo
QĐVNCH Vùng II Chiến Thuật, bao gồm các quân,
binh chủng ở Cao Nguyên và Duyên hải Trung phần
để hỗ trợ và hướng dẫn tâm linh cho quân nhân
Phật tử và siêu độ cho binh sĩ tử trận.
Trong những năm
1964-1975, tuy rất bận rộn với bao công tác
hoằng pháp và trọng trách hành chánh điều hành
nhiều cấp giáo hội, nhưng Ngài cũng thực thi tâm
huyết phổ độ quần sanh, nên đã khai sơn, tạo
dựng và đại trùng tu rất nhiều cơ sở tầm vóc cho
Đạo pháp, như chùa Hồng Từ (Kontum), chùa Đạo
Quang (Sài-gòn), chùa Pháp Hải (Quy Nhơn), chùa
Hoa Nghiêm (Phù Cát), v.v..
Năm 1982, sau 6
năm chịu an trí, lao động, Ngài trở về phụ tá
Hòa thượng Bổn sư Giác Tánh trong trách nhiệm
dạy dỗ Kinh Luật cho Tăng chúng và quản trị mọi
Phật sự tại Tổ đình Thiên Đức.
Năm
1987, sau khi Hòa thượng Bổn sư viên tịch, Ngài
đã tiếp nhận Tổ nghiệp trong trọng trách “Truyền
Đăng Tục Diệm”, nhậm chức trú trì để làm quang
huy rạng rỡ ngôi Tổ đình Thiên Đức, do Ngài Minh
Giác Kỳ Phương, Tỵ Tổ của Tổ đình Thập Tháp đến
Háo Lễ khai sơn từ đầu thế kỷ 18.
Bên cạnh
đó, với đại hạnh đồng sự, cộng hành để chung tay
xiển dương cơ đồ Đạo pháp đang cơn trầm nịch
suốt thế kỷ qua, từ 1982 đến ngày viên tịch, hơn
30 năm, Ngài luôn luôn làm gương, cổ võ, dấn
thân cùng chư tôn Giáo phẩm, chư Tôn đức trong
bản tỉnh thực hiện hàng trăm Phật sự chung cho
tỉnh nhà, như: Tăng sự, giáo dục, đào tạo Tăng
tài, hướng dẫn Phật tử…và thường xuyên đáp ứng
thỉnh cầu mọi Phật sự, Pháp sự, Tăng sự từ khắp
nơi trên toàn quốc, không bao giờ nề hà lao
nhọc, cả đến khi tuổi đã quá cao, sức khỏe
đã suy mòn.
Mặc dù Phật sự
Giáo hội đa đoan nhưng Ngài vẫn luôn luôn ấp ủ
hoài bão đại trùng tu ngôi Phạm vũ Thiên Đức, vì
sau thời gian chiến tranh ngôi bảo tự đã sụp nát
hoàn toàn năm 1965, chỉ được Hòa Thượng Tôn Sư
tái thiết lại một phần vào những năm 1973-1976.
Tháng 5 năm Kỷ
Mão (1999), Ngài cùng môn phái quyết định khởi
công đại trùng tu ngôi bảo tự Thiên Đức. Sau
thời gian tái thiết gần 10 năm, công trình đại
trùng tu đã hoàn thành. Vào ngày 06 tháng 9 năm
2007, Ngài tổ chức Đại lễ Khánh thành ngôi Phạm
vũ Tổ đình Thiên Đức, hàng chục ngàn Tăng Ni,
Phật tử toàn quốc về tham dự.
Ngoài sự thành
tựu của ngôi Phạm vũ, Ngài vẫn thường xuyên lưu
tâm đến việc đào tạo Tăng tài, tiếp Tăng độ
chúng. Tổ đình Thiên Đức, dưới sự lãnh đạo và
dìu dắt của Ngài, đệ tử xuất gia trước sau cả
100 vị, làm chỗ quy ngưỡng tâm linh cho Thập
phương, phát huy tầm ảnh hưởng của Phật giáo lên
mọi tầng lớp xã hội, góp phần duy trì nền văn
hóa và đời sống tâm linh truyền thống của Dân
tộc mà ngàn năm tiền nhân đã vun đắp nuôi dưỡng.
* Phật sự Giáo
hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN):
Năm
1991, Ngài cùng chư Tôn đức trong bản tỉnh đứng
ra tích cực vận động thành lập Trường Cơ Bản
Phật Học tại tu viện Nguyên Thiều, đến nay được
6 Khoá, đã và đang đào tạo trên một nghìn Tăng
Ni trẻ toàn quốc về đây tham học. Đặc biệt, do
Ban Trị Sự khéo léo vận động bảo trợ từ trong và
ngoài nước, nên Trường TCPH Nguyên Thiều là một
trong rất ít các cơ sở đào tạo Tăng Ni có điều
kiện thuận duyên tu học, quy củ rất nghiêm
minh.
Nhiệm kỳ
1992-1997, Ngài làm Trưởng ban Hoằng pháp GHPGVN
tỉnh Bình Định, kiêm Chánh đại diện Phật giáo
huyện Tuy Phước.
Nhiệm kỳ
1997-2002, Ngài được suy cử vào Ủy viên HĐTS/
GHPGVN, Phó ban Trị sự kiêm Trưởng ban Tăng sự
GHPGVN tỉnh Bình Định, kiêm Chánh đại diện Phật
giáo huyện Tuy Phước.
Nhiệm kỳ
2002-2007, Ngài được suy cử vào thành viên HĐCM,
ủy viên HĐTS/GHPGVN, Trưởng Ban Trị Sự GHPGVN
tỉnh Bình Định.
Nhiệm kỳ
2007-2012, Ngài tiếp tục được suy cử vào thành
viên HĐCM, ủy viên HĐTS/GHPGVN, Trưởng Ban Trị
Sự GHPGVN tỉnh Bình Định.
Nhiệm kỳ
2012-2017, Ngài được suy cử vào Ủy viên Thường
trực HĐCM, Ủy viên HĐTS/GHPGVN, Trưởng Ban Trị
Sự GHPGVN tỉnh Bình Định.
* Chức sự trong
các giới đàn:
Năm 1994, Ngài
làm Giáo thọ A-xà-lê Đại giới đàn Phước Huệ, do
Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Bình Định tổ chức tại Tổ
đình Long Khánh, thành phố Quy Nhơn.
Năm 2000, Ngài
làm Trưởng Ban Kiến Đàn và làm Yết-ma A-xà-lê
tại Đại giới đàn Chánh Nhơn, do Ban Trị Sự
GHPGVN tỉnh Bình Định tổ chức tại Tổ đình Long
Khánh, thành phố Quy Nhơn.
Năm 2000, Ngài
làm Giáo thọ A-xà-lê tại giới đàn Liễu Quán II,
do Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Phú Yên tổ chức.
Năm 2003, Ngài
làm Yết-ma A-xà-lê tại giới đàn Ananda-Giác Tánh
tại Tu viện Vạn Hạnh, Úc.
Năm 2004, Ngài
làm Trưởng Ban Kiến Đàn và Yết-ma A-xà-lê Đại
giới đàn Huệ Chiếu do Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh
Bình Định tổ chức tại Tổ đình Long Khánh, thành
phố Quy Nhơn.
Năm 2004, Ngài
làm Yết ma A-xà-lê tại giới đàn Lâm Tế, Tu viện
Lộc Uyển, Cali, Hoa Kỳ.
Năm 2009, Ngài
làm Trưởng Ban Kiến Đàn và Yết Ma A-xà-lê Đại
giới đàn Giác Tánh do Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh
Bình Định tổ chức tại Tổ đình Long Khánh, thành
phố Quy Nhơn.
4. VIÊN TỊCH:
Mặc dù tuổi già
sức yếu, nhưng Ngài không từ nan bất cứ Phật sự
nào, bất cứ sự cần cầu nào, như lời Ngài thường
dạy đồ chúng: “nơi nào cần thì ta đến, hết việc
thì ta lại đi, không thời gian, không biên giới.”
Trong chuyến đi chứng minh cho lễ Khai giảng
khóa đầu tiên của trường Trung cấp Phật học tại
Gia Lai ngày 30/10/2012, Ngài bị tai biến nhẹ.
Giáo hội, môn đồ pháp quyến cùng các y bác sĩ
bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định, bệnh viện Chợ
Rẫy – TP HCM tận tình chữa trị, sau đó Ngài đã
bình phục gần như hoàn toàn. Nhưng vì nhân duyên
hóa độ đã mãn, trọng trách kế thừa Tổ nghiệp đã
thành, huyễn thân tứ đại giả tạm như cỗ xe trải
qua thời gian cũng đến thời tan rã, với linh cảm
nhiệm mầu, Ngài đã trở về chốn Tổ đình Thiên Đức,
xả bỏ báo thân, an nhiên thị tịch vào lúc 06 giờ
rưỡi sáng, ngày 20 tháng 4 năm 2013 (nhằm 11/3/Quý
Tỵ). Trụ thế 83 năm, 55 Tăng lạp.
Suốt cuộc
đời Ngài từ lúc xuất gia cho đến ngày viên tịch,
Ngài đã không ngừng phụng sự Đạo pháp, hóa độ
chúng sanh. Với trách nhiệm “Tiếp dẫn hậu lai,
báo Phật ân đức”, kế thừa Tổ nghiệp, Ngài khơi
đèn tuệ giác cho hàng ngàn môn đồ tứ chúng;
trong hàng đệ tử xuất gia, nhiều vị đã tốt
nghiệp từ Cử nhân cho đến Tiến sĩ Phật học,
nhiều vị đã trụ trì, giữ nhiều trọng trách Phật
sự trong và ngoài nước. Ngài cũng có công lớn
trong việc khai sơn, tái thiết, trùng tu các
ngôi chùa như: Hồng Từ, Đạo Quang, Pháp Hải, Hoa
Nghiêm, Thiên Sanh, Thiên Bửu, Phước Điền…, đặc
biệt là công trình đại trùng tu Tổ đình Thiên
Đức.
Với cuộc đời
thanh tu, nếp sống giản dị chan hòa, với tâm
lượng bao dung hỷ xả, với trí tuệ mẫn tiệp sâu
sắc, với giới hạnh trang nghiêm thanh tịnh, Ngài
xứng đáng là bậc Tòng Lâm Thạch Trụ, là bậc cao
Tăng thạc đức trong chốn rừng thiền.
Với tầm nhìn thấu triệt trước sau, với hạnh
nguyện cao cả, thiêng liêng, với hùng tâm dũng
lực, Ngài là nhà lãnh đạo sáng suốt, tài đức vẹn
toàn, tự tại vô úy trước sự thăng trầm của cuộc
đời. Tinh thần hy hiến, phụng sự của Ngài
vẫn còn mãi mãi với Đạo pháp. Pháp âm của Ngài
vẫn còn vang vọng, in đậm trong lòng Tứ chúng
khắp nơi.
Ngài ra đi, môn
đồ pháp quyến mất đi một vị Thầy tôn kính, Phật
Giáo Việt Nam mất một bậc cao Tăng làm chỗ dựa
cho bao nhiêu Tăng Ni và Phật tử.
Dẫu biết rằng ‘vô
thường thị thường’, ‘sanh như đắp chăn bông, tử
như cởi áo hạ’, bậc xuất trần đại sĩ đến đi vô
ngại như gió thoảng mây bay, như cánh nhạn tầng
không chẳng để lại dấu vết, nhưng trước cảnh
sanh ly tử biệt, môn đồ tứ chúng, chư tôn Thiền
đức Tăng Ni khắp nơi, Thiện tín Phật tử xa gần
làm sao tránh khỏi niềm tiếc thương vô hạn với
bậc Tôn sư khả kính.
NAM MÔ LÂM TẾ
CHÁNH TÔNG TỨ THẬP NGŨ THẾ, SẮC TỨ THIÊN ĐỨC
ĐƯỜNG THƯỢNG, HÚY Thượng QUẢNG Hạ PHƯỚC, Hiệu
QUÁN HẠNH, Tự THIỆN NHƠN, TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG
TÂN VIÊN TỊCH GIÁC LINH, THÙY TỪ CHỨNG GIÁM.
Môn
đồ Pháp quyến cung soạn

Cố
Hòa Thượng THÍCH THIỆN NHƠN
==================================
HÌNH ẢNH LỄ CUNG AN CHỨC SỰ & LỄ NHẬP KIM
QUAN





















==================================
HÌNH ẢNH LỄ THỤ TANG









==================================
HÌNH ẢNH CHƯ TÔN ĐỨC TĂNG NI VIẾNG TANG


























==================================
HÌNH ẢNH LỄ TRUY NIỆM, NHẬP BẢO THÁP & THƯỢNG
CHÂN DUNG







































LỜI BÁI BIỆT THẦY CỦA MÔN ĐỆ
Nam mô Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính bạch Quý
Ngài
Cho phép chúng
con được tỏ lòng tôn kính, tâm sự với đức ân sư
trong những giây phút cuối cùng.
Kính bạch Giác
linh Thầy.
Thầy ơi! Huynh đệ
chúng con đã về cả rồi, nhưng suốt cuộc đời này
không tìm được người Thầy tôn kính. Thầy đã ra
đi thật rồi! chúng con đang quỳ trước di ảnh và
kim quan của Thầy, lát nữa đây phải tiễn đưa
nhục thân của Thầy trở về với tứ đại.
Vẫn biết rằng
sinh ly tử biệt là lẽ thường, nhưng trước cảnh
mất mát to lớn này, hàng đệ tử chúng con không
sao tránh khỏi đau buồn ái biệt. niềm kính
thương nầy sông nào mang đi được, lệ ngậm
ngùi nầy biển nào cuốn tận khơi. Thuở ban đầu
Thầy trò gặp gỡ, ấm áp cái nhìn của bậc ân sư.
Cuộc đời Thầy là muôn trùng chông gai cách trở,
nhưng Thầy vẫn vững bước ung dung. Thầy đã trao
cho chúng con giới thân huệ mạng, nuôi dưỡng
chúng con bằng thân giáo uy nghiêm, Thầy đã từng
dạy chúng con: Người xuất gia phải hiến trọn đời
mình cho đạo, nơi nào cần thì đến, xong việc rồi
lại đi. Thầy đã nối tiếp con đường tâm linh của
bao đời Tổ sư để lại, kế thừa Tổ đình để phát
chấn trùng hưng. Chúng con thả từng bước chân đi
là dẫm lên từng giọt mồ hôi từng niềm suy tư
trăn trở của Thầy. giờ nhìn lại di ảnh hiền từ
trên linh đài mà lòng chúng con quặn thắt.
Còn đâu những
lời dạy nghiêm từ, những giáo huấn chân tình tâm
lý. Nhớ ơn Thầy, chúng con phải tự gắn sức tu
hành hoằng hoá, nhớ ơn Thầy chúng con phải vượt
mọi thử thách chông gai, nhớ ơn Thầy chúng con
phải biết yêu thương đoàn kết. Không được quyền
sống cho mình mà phải sống vì tất cả. Chúng con
không được quyền hưởng thụ an nhàn mà phải gắng
công đem đạo mầu tô thắm trần gian.
Kính lạy ân sư
khả tôn khả kính, khả quý khả trọng. Thế là một
buổi sáng cuối xuân, Thầy bỏ lại trần gian, trở
gót về Tây theo Phật bỏ lại bụi trần, gió thế
hương đời, phủi tay đi vào cõi không thanh thản.
Nước mắt nào rơi,
nỗi buồn nào thấu.
Biển sóng nghìn
khơi, tình nào sâu đậm
Ân nghĩa một đời,
ướt đẫm hoàng hôn.
Phước hưng sông
Kôn còn in hình bóng
Chuông chiều đồng
vọng, trầm bỗng lời kinh
Cõi Phật quang
minh thầy lên bờ giác.
Than ôi! Thầy đi
một buổi sớm mai,
Xác thân bất hoại,
dấu hài còn ghi.
Chúng con bốn
chúng hồ quỳ.
Tiễn Thầy lần
cuối biệt ly lệ sầu.
Dáng Thầy nay
biết tìm đâu.
Lời Thầy xin
nguyện khắc sâu trọn đời.
Chúng con thành
kính bái biệt Thầy.!
Nam mô Từ Lâm Tế
Chánh Tông, Tứ Thập Ngũ Thế, Thiên Đức Đường
Thượng, huý thượng Quảng hạ Phước, tự Thiện
Nhơn, hiệu Quán Hạnh Trưởng lão Hoà thượng Giác
linh thùy từ chứng giám.
==================================
HÌNH ẢNH
LỄ TRUY NIỆM CỐ HT THÍCH THIỆN NHƠN
TẠI TU VIỆN VẠN HẠNH - ÚC ĐẠI LỢI


==================================
CÁO PHÓ
- Hội Đồng Chứng Minh, Hội Đồng Trị Sự Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam
- Ban Trị Sư Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tỉnh
Bình Định
- Môn đồ pháp quyến Tổ Đình Thiên Đức
Vô cùng kính tiếc báo tin:
CỐ TRƯỞNG LÃO HÒA
THƯỢNG THÍCH THIỆN NHƠN
- Ủy viên Thường
trực Hội đồng Chứng minh GHPGVN
- Ủy viên Hội
đồng Trị sự GHPGVN
- Trưởng Ban Trị
sự GHPGVN tỉnh Bình Định
- Viện chủ Tổ
đình Thiên Đức, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định
Sau thời gian lâm
bệnh, vì tuổi cao sức yếu, Hòa Thượng đã thâu
thần thị tịch vào lúc: 6 giờ 30 phút ngày
20/4/2013 (nhằm ngày 11/3/ Quý Tỵ) tại Tổ đình
Thiên Đức, xã Phước Hưng, huyện Tuy Phước, tỉnh
Bình Định. Trụ thế: 83 năm, Hạ lạp: 63 năm.
Kim quan Cố Hòa
thượng được tôn trí tại Tổ đình Thiên Đức. xã
Phước Hưng, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
Lễ nhập kim quan
lúc:20h00’ ngày 20/4/2013(nhằm ngày 11/3/Quý Tỵ).
Lễ Phúng điếu: 7h00’ ngày 21 /4 /2013 (nhằm ngày
12/3/Quý Tỵ).
Lễ Truy niệm: 8h00’ ngày 24 / 4 /2013 (nhằm ngày
15/3/Quý Tỵ).
Lễ Phụng tống Kim
quan nhập Bảo tháp: 9h00’ ngày 24/4 /2013 (nhằm
ngày 15/3/Quý Tỵ) tại Tổ đình Thiên Đức, xã
Phước Hưng, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
TM. BAN THƯỜNG TRỰC BAN TRỊ SỰ
PHÓ TRƯỞNG BAN THƯỜNG TRỰC
(ấn ký)
HT. THÍCH NGUYÊN PHƯỚC
====================================================
BAN TỔ CHỨC LỄ
TANG
BAN CHỨNG MINH :
HT Thích Trí Tịnh
HT Thích Thiện
Bình
HT Thích Đức
Nghiệp
HT Thích Đức
Phương
HT Thích Phước
Thành
HT Thích Mật Hạnh
HT Thích Trí Tâm.
BAN TỔ CHỨC :
Trưởng ban: HT
Thích Thiện Nhơn (TƯGH)
Phó Trưởng ban
Thường trực: HT Thích Nguyên Phước
Phó ban: HT
Thích Thiện Pháp
HT Thích Thiện
Duyên
HT Thích Quảng Xả
HT Thích Nguyên
Chơn
HT Thích Viên Đạt
HT Thích Như
Quang
ĐĐ
Thích Nhuận Trí
Ông
Dương Thanh Bình
Ủy viên: HT.
Thích Huệ Minh
HT. Thích Huệ Trí
(Vp2)
HT. Thích Quảng
Bửu
HT. Thích Trí
Giác
HT. Thích Nguyên
Huệ
HT. Thích Nguyên
Khiết
HT. Thích Giác
Tần
HT. Thích Hạnh
Bảo
HT. Thích Trí Hải
TT. Thích Chúc
Thọ
TT. Thích Quảng
Độ
NT. TN Hạnh
Nghiêm
Thư ký: ĐĐ.
Thích Quảng Duy
ĐĐ. Thích Viên
Chơn
ĐĐ. Thích Quảng Dũng
ĐĐ. Thích Quảng
Thái
Sư cô Thích Nữ
Minh Tấn
Sư cô Thích Nữ
Minh Thành
Cư sĩ Nguyên Hiệp
Cư sĩ Thiện Hải
Tài chánh: Ni Sư:
Thích Nữ Hạnh Giáo
Thủ Quỹ: Ni Sư:
Thích Nữ Hạnh Giải
=====================================
Xin viết dâng Ông
Hòa Thượng Thích Thiện Nhơn - Phương Trượng Tổ
đình Thiên Đức
Thích Nhật Tân
Kính thưa Ông,
Thế là Ông đã ra
đi
Theo dòng chuyển
tử sinh
Giữa cung bậc vô
thường
Vũ trụ thiên hà
lồng lộng
Ba đường sáu nẻo
mang mang
Thôn Tân Hòa còn
đó
Xứ Phù Cát còn
đây
Dòng họ Hồ khai
sinh một bậc Cao Tăng kiệt xuất
Đất Bình Định lưu
bố một bậc thạch trụ thiền môn
Thanh Tùng tên
thế, tôn hiệu Thiện Nhơn
63 Pháp Lạp, đạo
nghiệp tinh nghiêm
83 tuế thọ, một
đời phụng sự
Bình Định là tỉnh
nhà
Băng lên các tỉnh
Cao Nguyên
Ra ngoài kia thì
Quảng Ngãi
Vào trong Khánh
Hòa, Phú Yên
Xa hơn, Sài Gòn,
Hà Nội
Vượt trùng, Úc
Châu, Mỹ quốc, Ấn, Miến, Thái Lan
Nơi nào Ông đến,
cũng lưu lại bóng hình kính mến
Nơi nào Ông đi,
cũng ghi dấu ấn tượng tôn nhan
Ông Nội Chú ơi!
Dòng đời chưa hết
Cuộc thế chưa qua
Ông đã đến tuổi
già
Thuận thế vô
thường
Đó là việc hiển
nhiên mang thân tứ đại
Tai biến lần thứ
nhất, bịnh tình cơ chừng chưa khỏi
Tai biến lần thứ
hai, báo hiệu triệu chứng thất thường
Và lần thứ ba tái
diễn, ly trà chưa hết, nhẹ thõng tay buông
Ông an nhiên thị
tịch
Dòng sinh diệt
Cửa tùng đôi cánh
khép
Nhớ xưa con còn
bé
Vừa lên năm lên
bảy
Mỗi Tết Ông về
thăm
Rồi Bà Năm, Ông
Sáu
Lại Bác Năm, Bác
Chín
Trong con thật
vui mừng
Niềm diễm phúc vô
biên
Chiếc Y Vàng, in
trong con từ đó
Bộ nâu sồng,
trông trang nhã làm sao
Đầu tròn, áo
vuông, vóc dáng thanh tao
Và trong con, ước
gì được như thế
Đã nhiều lần con
thưa Mẹ
Cho con theo nghe
Mẹ ơi
Mẹ không nói
nhiều lời
Nếu muốn đi, Mẹ
sẽ cho đi
Nhưng đợi mai mốt
lớn lên
Chứ bây giờ còn
nhỏ lắm
Một ngày kia,
chưa bước vào niên thiếu
Con được đi và
sống với mái chùa
Đến hôm nay, gần
50 năm, thấm thoát thoi đưa
Hèn chi người ta
nói: “bóng câu qua cửa sổ”
Bác Năm Đà, là
người đã tịch trước
Tiếp theo là Bà
Năm, quy ẩn Kon Tum
Bác Chín thì còn,
tức Hòa Thượng Nhật Ban
Ông Sáu vẫn đó,
nhưng nhân duyên tạm gián
Đời Ông, đời Bác,
gồm 5 người xuất thế
Đời cháu, một
mình con lặn lội ly gia
50 năm, chưa đâu
vào đâu dưới bóng cả Phật Đà
Chắc chẳng ra
sao, dù miệt mài tận tụy
Đời sau, thêm một
người nữa là Quảng Trí
Rồi Nhuận Đức,
Nhuận Thanh bước vào ngưỡng cửa từ bi
Hãy cố gắng nghe,
rèn tâm, luyện chí, tu trì
Vì Đạo, vì đời,
cứ tập sống biết hy sinh và phụng sự đi
Đời Ông, Ông Ngài
Thích Thiện Nhơn
Xứng đáng đứng
vào hàng Tăng Lữ kiệt hiệt vô nghì
Đời Bác, Hòa
Thượng Thích Nhật Ban
Cũng đáng sánh
vào bậc Thiền gia Thích tử
Hôm nay
Kim quan của Ông
đang trần thiết tại Tổ đình Thiên Đức
Con xin vọng bái
Ông từ trụ xứ Pháp Quang
Gần nửa tinh cầu
lệ trũng tâm can
Gặm nhấm niềm đau
thấu cùng cơ thể
Hai đường hai ngả
Khúc rẽ oan khiên
Không phải cách
ngăn
Bởi địa phận,
không gian, biển cả, đất liền
Mà chỉ bởi phạm
trù bao dấu chấm
Chấm là hết
Hay chấm là còn
Chấm là ngửa
Hay chấm là
nghiêng
Quê Cha ơi, tôi
vẫn nhớ mọi miền
Đất Mẹ ơi, tôi
vẫn thương khắp nẻo
Nhớ từ đỉnh núi,
nhớ đến sơn khê
Nhớ hướng băng
ngang, nhớ lối ngõ về
Nhớ mái nhà tranh,
nhớ hồng bếp lửa
Con xin viết dâng
Ông, tình nhà cũng có
Tình đạo, tình
đời, nghĩa non nghĩa nước, cũng vậy thôi
Bởi trước khi là
Tăng sĩ, vốn là người Việt Nam rồi
Nên dù lưng có
còng, hai vai cũng phải gánh
Gánh, như Bà Mẹ
Già tóc trắng
Gánh, như Ông Cha
Già bạc phơ
Ngàn năm xưa, vẹn
ước thề
Ngàn năm sau, vẫn
ươm mơ trong lành
Quê Hương - Đạo
Pháp của mình
Chan hòa như bóng
in hình thiên thu.
Úc Châu, ngày 21-4-2013
“Ông Thầy cháu,
lời Ông thường nói”
Thích Nhật Tân
==================================
NGƯỠNG VỌNG TÔN
SƯ
Nén Tâm Hương
kính lễ Cố Hòa Thượng Thích thượng Thiện hạ Nhơn
Thích Đồng Trí
Một buổi chiều
kia vắng bóng Người
Cỏ hoa
héo úa, chẳng còn tươi
Tứ chúng hoang
mang lòng trống vắng
Sau trước Thiền
môn vắng tiếng cười,…
Trong thời gian
gần đây con luôn hướng nghĩ về quê hương và Bình
Định bởi vì con đang sắp xếp chuyến về thăm lại
Việt Nam để thăm cha già đau nặng, héo hắt và
kính viếng Chư Tôn Đức, già lam…trong mùa hè này,
sau mùa Phật Đản. Lòng con hân hoan khi nghĩ đến
cảnh viếng thăm lại Tổ Đình Thiên Đức và đảnh lễ
Hòa Thượng.
Trong Kinh Phật
có dạy câu : “Tương lai không ước vọng,… Hiện
tại chính là đây”, thế là tâm nguyện tương ngộ,
bái kiến Hòa Thượng một lần nữa của con trở
thành một tương lai không bao giờ hiện thực
được, trong khi hiện tại, thực tế phũ phàng hiện
xảy ra: con vừa hay tin Hòa Thượng đã xả báo
thân, trở về cõi Phật.
Khi Sư Ông (cho
con được gọi Hòa Thượng là Sư Ông như thuở
trước) và Sư Phụ con (cố Hòa Thượng Thích thượng
Đồng hạ Thiện) sinh tiền, Sư Ông thường xuyên
ghé thăm đàm đạo với Sư Phụ con, khi đó con làm
thị giả, trải qua ba thế hệ Sư Đệ cùng với con ở
phòng thị giả: Đồng Kỳ, Đồng Liên, chú Tính. Con
nhớ cái ngày con làm chú tiểu mới vô chùa làm
thị giả pha trà cho Sư Phụ tiếp khách đó, con
vụng về không biết pha, rót và dâng trà cho đúng
cách, chính Sư Ông từ ái hướng dẫn rất cặn kẽ
cách pha trà thế nào, cách tráng ly thế nào,
cách rót trà vào ly và mang đến các vị Hòa
Thượng thế nào…Do uy đức và kinh nghiệm sống,
giao tiếp nên Sư Ông đễ chinh phục lòng người và
khiến họ nhớ mãi cho dù là chỉ qua vài lần gặp.
Sư Ông có điểm đặc biệt là nhớ rõ tên và tánh
cách của mỗi người sau mỗi lần gặp khiến mỗi lần
gặp lại họ cảm thấy Sư Ông quan tâm đến họ, gần
gũi và có mối tâm giao.
Cứ mỗi mồng Bốn
Tết âm lịch chúng con đến tham dự cúng giỗ Ngài
Giác Tánh cũng để đảnh lễ Khánh Tuế Sư Ông,
chúng con lại có dịp chứng kiến được bao nhiêu
người Phật tử gần xa câu hội chen nhau đảnh lễ
và kính quý Sư Ông biết dường nào. Sư Ông thường
nắm tay dặn dò con: “Con cố gắng tu học bồi
dưỡng cho thật tốt để sau này về kế thế cho Quý
Ông, quý Thầy lo Phật sự, nhất là cho giáo dục
Phật giáo tại Tỉnh nhà”. Sư Ông đối với con đặc
biệt là điều dễ hiểu bởi 2 lẽ: 1/ Con làm thị
giả cho Sư Phụ con thường dâng trà cho Sư Ông,
2/ Con là “người đi trước” của Trường Cơ Bản
Phật Học Bình Định khóa I (sau năm 1975 đến 17
năm mới mở lại), con vừa học hơn nửa năm I thì
Ban Giám Hiệu nhà trường đồng ý tuyển con (đại
diện duy nhất của Trường) thi vào Đại Học Vạn
Hạnh. Mỗi mùa Xuân đến, con về quê và tháp tùng
chuyến xe của Trường Cơ Bản Phật Học đến đảnh lễ
Sư Ông. Con thường cúng dường đến Sư Ông “trà
xanh” và mỗi dịp như vậy, Sư Ông đều ban cho
chúng con những lời huấn thị, nhắc nhở tâm tình
làm hành trang cuộc sống.
Có một độ Sư Ông
đã thể hiện tình cảm rất gần gũi, thân thiết,
quan tâm chia sẻ với con, đó là lúc con về thọ
tang cho thân mẫu (2001). Trong dịp làm Lễ cúng
cầu siêu và chẩn tế chung thất trai tuần đó, lẽ
ra con đã thỉnh Sư Ông chứng minh và gia trì,
thế nhưng vì có vài duyên khác nên con đã thỉnh
Hòa Thượng ở Phù Cát với vai trò ấy. Khi xong
tang lễ và hiếu sự, con đến Thiên Đức đảnh lễ Sư
Ông để qua Ấn Độ tiếp tục tu học, Sư Ông gửi
tặng cho con phần quà là 600 ngàn và nói: “con
vừa đi học, lại vừa có thể về quê để lo hiếu sự
với mẫu thân suốt 49 ngày thì tốt quá. Thầy chia
sẻ sự ra đi mất mát của Sư Phụ con và mẫu thân
con. Thầy với Sư Phụ con như tình Huynh Đệ và
Thầy xem con cũng như đệ tử Thầy chứ không phân
biệt. Đây là chút quà Thầy biếu tặng con, con
hãy qua trở lại xứ Phật tu học cho tốt, làm hành
trang cho chặng đường Phật sự sau này,…”. Con
nhận phần quà trên tay cảm kích với thâm nặng ân
tình. Quả thật lúc đó con cần 300 ngàn để trả
cho thợ quay phim Đập Đá mà con phụ lo đám tang
hết tiền để trả, đó là chưa nói đến tiền xe vào
Saigon và uống nước dọc đường. Tất nhiên, con có
thể tìm và ngỏ lời xin đối với vài người thân
quen khác cho qua cơn thắt ngặt, nhưng dù sao,
“tự nhiên” có người cơ cảm ban cho thì vẫn hơn.
Gần đây, chính
con là người soạn thư mời giúp cho một chùa gửi
đến Sư Ông để Sư Ông có thể đến làm Lễ và sinh
hoạt gieo duyên với các tự viện tại Hoa Kỳ một
lần nữa cũng như đến thăm một Chùa Thiên Đức bên
này thế nhưng sau đó Sư Ông suy yếu phải nhập
viện. Đức Phật nhập niết bàn lúc 80 tuổi, còn Sư
Ông sau 83 năm sinh hoạt nhiều và lao lực trong
trần thế, chiếc xe đã cũ kỹ, báo thân đến lúc
mòn mỏi và rời rã nên Người thuận xả, an nhiên
thâu thần thị tịch ra đi. Lần lại hành trạng cả
cuộc đời của Người: vào chùa khi mới 12 tuổi, tu
học ở Thiên Đức, Hưng Long, Phật Học Đường Trung
Phần Nha Trang với nhiều danh Sư: Ngài Giác
Tánh, Ngài Giác Nhiên, Ngài Thiện Siêu, … pháp
lữ đồng học của Sư Ông là những bậc Cao Tăng
Thạc Đức: Thích Đồng Thiện, Thích Thiện Duyên,
Thích Đổng Minh, Thích Đổng Quán, Thích Tâm
Hiện, Thích Đồng Từ, Thích Nguyên Trạch, Thích
Từ Hạnh, Thích Liễu Không, Thích Tâm Lâm, Thích
Đổng Tánh…. Sư Ông đã trải qua bao nhiêu chặng
đường Phật sự, đảm nhiệm nhiều trọng trách lớn
lao: là Giảng sư khắp các tỉnh miền Trung từ
Quảng Nam vào đến Bình Thuận và các tỉnh Tây
Nguyên, Chánh Hội Trưởng Hội Phật học Quảng
Ngãi, Chánh hội trưởng Hội Phật giáo tỉnh
ĐakLak, trú trì chùa Sắc Tứ Khải Đoan, Chánh đại
diện Giáo hội Phật giáo tỉnh GiaLai –
KonTum, thành lập và làm Giám đốc các trường Bồ
Đề tại Pleiku, Chánh Sở Tuyên Úy Phật Giáo
QĐVNCH Vùng II Chiến Thuật, bao gồm các quân,
binh chủng ở Cao Nguyên và Duyên hải Trung phần,
khai sơn, tạo dựng và đại trùng tu rất nhiều cơ
sở tầm vóc cho Đạo pháp, như chùa Hồng Từ
(Kontum), chùa Đạo Quang (Sài-gòn), chùa Pháp
Hải (Quy Nhơn), chùa Hoa Nghiêm (Phù Cát), Thiên
Sanh, Thiên Bửu, Phước Điền, trải qua 3 nhiệm kỳ
: 2002-2007, 2007-2012 và 2012-2017, Sư Ông được
suy cử vào Ủy viên Thường trực Hội Đồng Chứng
Minh, Ủy viên Hội Đồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam, Trưởng Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Bình
Định. Sư Ông đã làm Giáo Thọ, Năm 2003, Ngài làm
Yết-ma A-xà-lê tại tại các giới đàn thuộc các
quốc gia, châu lục khác nhau Ananda-Giác Tánh
tại Tu viện Vạn Hạnh, Úc (năm 2003), Đại giới
đàn Chánh Nhơn, giới đàn Huệ Chiếu Tổ đình Long
Khánh, thành phố Quy Nhơn, giới đàn Lâm Tế, Tu
viện Lộc Uyển, Cali, Hoa Kỳ (năm 2004).
Quả thật với xứng
danh “Thiên Đức”, uy đức bao trùm hoàn vũ, là
bậc kế thừa xuất sắc chư Tổ Đức, liệt vị Tổ Sư
và Ngài Giác Tánh, Sư Ông đã trùng hưng Tổ Đình
Thiên Đức, ân đức mưa móc khắp xa gần, lãnh đạo
và dìu dắt cho hơn 100 đệ tử xuất gia, tu học
thành tựu từ Trung Cấp Phật Học cho đến Cử Nhân,
Thạc Sỹ, Tiến Sỹ và hoằng pháp, trụ trì khắp
trong nước cho đến Úc Châu, Hoa Kỳ, Người làm
chỗ quy ngưỡng tâm linh cho Thập phương, phát
huy tầm ảnh hưởng của Phật giáo lên mọi tầng lớp
xã hội, góp phần duy trì nền văn hóa và đời sống
tâm linh truyền thống của Dân tộc. Nếu ai đó
không rành đường, từ quốc lộ một hướng về xã
phước Hưng, hỏi về Chùa Thiên Đức, dân làng gần
xa đều biết. Người chứng minh đại lễ, ban đạo
từ, giảng pháp, ứng phó đạo tràng cầu an, cầu
siêu, tiếp xúc lợi lạc cho quần chúng hà sa
không ngại ngần xa xôi, gian lao, mỏi mệt, chư
Tăng ni lớp lớp đều đến đảnh lễ thọ giáo với
Người, thấm nhuần ân khai đạo. Người có một hảo
tướng, lông mày trắng, cốt cách phi phàm như một
“Ông Tiên”, nụ cười ấm áp hiền hòa, đôi mắt long
lanh, đầy nghị lực và soi sáng, giọng nói ái ngữ
thâm trầm cuốn hút và đi sâu vào lòng người.
Người kết tinh những đặc tính cao quý của bậc
Đại Đạo Sư, làm Tòng Lâm Thạch Trụ che bóng mát
bồ đề cho bao đàn hậu học…
Vẫn biết hồng
trần là cõi tạm, tứ đại huyễn thân, kiếp nhân
sinh như một lữ khách, đến rồi lại đi, Người xả
bỏ báo thân sau 83 năm rong chơi tự tại, thế
nhưng định luật vô thường lạnh lùng khắt khe đó
đã tạo nên cảnh sanh ly tử biệt và hàng tứ chúng
ngẩn ngơ, bàng hoàng, xót lệ tiễn đưa Người. Kể
từ đây, Phật Giáo Việt Nam mất đi một bậc Giáo
Phẩm Chứng Minh, Phật Giáo tỉnh nhà Bình Định
không còn một vị Trưởng Ban Đại Diện mô phạm,
dấn thân, tôn kính, Tổ Đình Thiên Đức mất đi
linh hồn nương tựa, hàng tứ chúng mất đi một vị
Thầy, một người Cha tận tuỵ với trách nhiệm yêu
thương chăm sóc,…,mất mát tang tóc to lớn này
không sao bù đắp được như trong kinh Pháp Hoa mô
tả:
“Con dại nhằm
thuốc đắng / Cha già biệt tha phương”
Mùa hè năm nay
con sẽ về thăm lại Tổ Đình Thiên Đức, sẽ không
còn dịp bái kiến hầu chuyện bên Người mà chỉ còn
lặng lẽ thắp nén hương tưởng niệm trước bàn
hương án. Mọi thứ đã đổi thay, chỉ 2 năm trước
thôi, con ấm lóng khi dẫn phái đoàn Chùa Phước
Long, Gia Lạc, Phù Cát cũng như các gia đình
tang sự tại chợ gồm, Phù Mỹ đến Chùa Thiên Đức
là có Sư Ông tận tình tiếp đón, giờ này chỉ còn
lại một khoảng chơ vơ trống vắng mênh mông. Quý
Chư Tôn Đức mà con có dịp gần gũi thọ giáo tại
Tỉnh nhà đã lần lượt ra đi:
HT Huyền Quang,
HT Đồng Thiện,
HT Bảo An, HT
Đổng Minh,
HT Đổng Quán,
HT Sơn Long, HT Nguyên Trạch, HT Phước Hải (Cát
Minh),…Quãng thời gian tu học tại các già lam,
tự viện, thời làm điệu, những kỷ niệm ân tình
đối với quý Ngài là hành trang vô giá giúp cho
con vượt qua được những thăng trầm biến thiên
của cuộc sống, noi gương hạnh Bồ Tát của Quý
Ngài mà không chùn bước trước bao nhiêu thử
thách chướng duyên, vẫn giữ được chiếc áo và tư
cách, phẩm hạnh của người xuất gia để không cô
phụ ân tri ngộ, giáo hoá, yêu thương tin tưởng,
nhắn nhủ ân tình của Quý Ngài, Quý Thầy.
Rồi mai
đây thân Người được đưa vào Bảo Tháp, tan trong
lòng đất và nuôi dưỡng những mầm xanh. Người đã
ra đi nhưng Người còn ở lại, hoa đàm tuy rụng
vẫn còn hương, cỏ hoa sớm chiều vẫn rì rào theo
tiếng gió khẽ nhắc tên Người. Tiếng tụng kinh
mỗi đêm, hương án lung linh, ngấn lệ sụt sùi,
bao ân tình chưa phôi, Người vẫn còn sống mãi
trong tâm khảm của Tứ Chúng, trong mạch sống của
Phật Giáo Việt Nam, sử sách vẫn in đậm những nét
son về một Cao Tăng Phật Giáo trong thế kỷ XX,
một người con ưu tú của xứ địa linh nhân
kiệt Bình Định.
Con không được
thọ tang trước hương án của Người tại Chùa Thiên
Đức nhưng ngày Người ra đi con đánh dấu trong
đời con có thêm một sự mất mát của một bậc Thầy,
góp phần hun đúc nên con, ban cho con nguồn
thương và lẽ sống. Con sẽ không gặp được Người
với dáng dấp hình hài thân yêu nữa nhưng con sẽ
luôn gặp Người trong tâm nguyện, trong từng
chặng hành trình nhân thế. Nụ cười từ ái, lời an
ủi nhẹ nhàng, lời huấn thị sâu xa,… đã thấm
thành máu thịt, chất liệu sống cho đời con. Con
xin hướng về Tổ Đình Thiên Đức đảnh lễ tri ân và
tiễn biệt với niềm tin rằng Sư Ông sẽ chứng minh
và gia bị cho con. Con xin tiếp nối bước đi Sư
Ông, mang niềm tin, ánh sáng Đạo Pháp đến khắp
nơi nơi, làm giảm bớt đi nỗi khổ niềm đau cuộc
đời, giúp chúng sanh hướng về Chánh Đạo, sống an
lành, thăng hoa, giải thoát. Con tin Sư Ông đang
mỉm cười, chứng minh và gia bị cho con.
Nguyện cầu Giác
Linh Sư Ông cao đăng Phật Quốc, hoa khai kiến
Phật để rồi tiếp tục hồi nhập Ta Bà, không rời
Bi nguyện, hoá độ nhất thiết chúng sanh
Ánh mắt Người
luôn lunh linh soi sáng
Nụ cười kia tan
biến vạn sầu lo
Hạnh ngộ Người,
dẫu giây phút tình cờ
Thêm nhiên liệu
qua bến bờ sanh tử
NAM MÔ TỰ LÂM TẾ
CHÁNH TÔNG TỨ THẬP NGŨ THẾ, SẮC TỨ THIÊN ĐỨC
ĐƯỜNG THƯỢNG, HÚY Thượng QUẢNG Hạ PHƯỚC, Hiệu
QUÁN HẠNH, Tự THIỆN NHƠN, TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG
ÂN SƯ TÂN VIÊN TỊCH GIÁC LINH, THÙY TỪ CHỨNG
GIÁM.
Chùa Đại Bi Quan
Âm, California, ngày 13/03 Quý Tỵ, PL 2556
Khể Thủ
Hậu Học
Thích Đồng Trí
(Thích Minh Tuệ)
==================================
BÀI PHÁP ĐẦU TIÊN
Giác Hạnh
– Lê Bích Sơn

Mỗi chúng ta gặp
vô số những con người khác nhau trên cuộc hành
trình Sanh - Tử, nhưng chỉ có một ít người lưu
lại trong ký ức chúng ta. Người mà tôi sẽ kể cho
bạn nghe hôm nay là Cố Hòa Thượng THÍCH THIỆN
NHƠN – người vừa tháo bỏ xác thân tứ đại để tiếp
tục một hành trình khác trên lộ trình đi về cõi
Tịnh.
Khi tôi viết
những dòng chữ này gởi đến bạn, bên kia bờ đại
dương xác thân của Ngài đang được tứ chúng gởi
vào lòng đất mẹ Việt Nam thiên thu.
Nhớ ngày đó - vào
năm 1987, Phật giáo quê tôi còn nhiều khó khăn,
chư Tăng nhiều chùa trong tỉnh ban ngày lao động
lo việc ruộng nương, đêm về an trú trong lời
kinh tiếng kệ, nên việc chư Tăng thuyết pháp hay
trai tăng là những từ nghe rất xa lạ vào thời
bấy giờ. Và ‘thời pháp chui’ của Ngài Thiện Nhơn
ban bố tại chùa Hưng Khánh năm ấy là bài pháp
lần đầu tiên tôi nghe trong đời. Sở dĩ tôi gọi
đó là ‘thời pháp chui’ vì nó diễn ra ‘bí mật’
trong lễ Quy Y Tam Bảo tại chánh điện chùa Hưng
Khánh; lúc đó Ngài Thiện Nhơn mới trở về từ
‘trại cải tạo’ vài năm nên chính quyền luôn theo
dõi. Chỉ có một số Phật tử thân tín của chùa
phát nguyện Quy Y Tam Bảo hôm ấy mới được tham
dự, cổng chùa đóng kín và ba chú ‘cẩu’ của chùa
làm ‘công tác báo động’, còn tôi được cử làm Thị
giả quạt hầu (thời đó chùa chưa có điện)…dù là
‘dự thính - không chính quy’ nhưng cũng nghe
được trọn thời pháp. Bài pháp Ngài nói năm ấy là
triển khai năm giới cho hàng cư sĩ hiểu với
những câu chuyện dẫn chứng rất hấp dẫn. Tôi còn
nhớ một trong những câu chuyện Ngài kể về gã
uống rượu rồi phạm các giới còn lại…
Lần thứ hai được
‘tiếp xúc chính quy’ với Ngài là giữa tháng 4
năm 2003. Lần đó tôi vừa đi khảo cứu từ Trung
Quốc trở về, Ngài xuống thăm Sư ông của tôi là
Cố Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, và dặn tôi lên Chùa
Thiên Đức trước khi trở lại Ấn Độ.
Lúc ấy Chùa Thiên
Đức đang trong giai đoạn trùng tu, Ngài hỏi tôi
có ý kiến gì không; tôi cúi đầu thưa: “Theo
con, cái gì có thể giữ lại được thì cố gắng giữ,
đừng đập phá những công trình kiến trúc do chư
Tổ khổ công tạo dựng. Nhiều ngôi chùa cổ đã bị
thế hệ trẻ đập phá không thương tiếc, trong khi
cái mới chưa thể hình thành. Trùng tu là duy trì,
làm mới cái cũ chứ không phải đập phá hết cái cũ”.
Tôi trình bày với Ngài về những cổng tam quan,
những ngôi bảo tháp của những ngôi chùa cổ là
những ‘di sản’ văn hóa vô giá. Và lý luận rằng
người ta có thể xây vô số bản sao của Chùa Một
Cột (Chùa Diên Hựu – Hà Nội) hay Tháp Phước
Duyên (Chùa Linh Mụ - Huế) nhưng không làm sao
thay thế được giá trị của ngôi tháp cổ hay ngôi
chùa gỗ nhỏ bé đã đi vào lịch sử và văn hóa dân
tộc. Ngài gật đầu…
Ngài hỏi tôi về
hiện tình Phật giáo Trung Quốc, tôi trình bày
rất nhiều về những điều chứng kiến trong chuyến
khảo cứu của mình với ngôn ngữ kính cẩn dành cho
các bậc trưởng thượng. Ngài lắng nghe một cách
chăm chú. Tôi chia sẻ rằng: ngày nay tại Trung
Quốc ‘người ta’ đã biến những tự viện Phật giáo
thành những điểm du lịch hơn là nơi tu học cho
Tăng ni và Phật tử, mỗi chùa đều có cổng bán vé
với giá từ 8 đến 40 nhân dân tệ (1 đến 5 USD)
cho mỗi Phật tử viếng chùa; Tăng sĩ tại Trung
Quốc hầu như không thấy nếu không muốn nói là
không được phép theo học tại các trường Đại học
của Trung Quốc, dường như những ngôi chùa không
được sự quản lý của chư Tăng mà do chính quyền
sắp xếp người của họ vào điều hành, và rất nhiều
chuyện không thể tin vào mắt mình. Ngài nói Ngài
cũng nghe một vài vị Tăng trở về từ Trung Quốc
trình bày như vậy. Ngài hỏi tôi có ý kiến gì cho
Phật giáo Việt Nam. Tôi kính cẩn trình bày cùng
Ngài việc ‘người ta’ sẽ cố gắng đưa những tự
viện vào danh sách ‘Di tích Lịch sử Quốc gia’
rồi sau đó đặt trạm thu phí, bán vé cho khách
viếng chùa, và từ từ kiểm soát tất cả những sinh
hoạt nội bộ của tự viện và Tăng ni. Việc này cần
cảnh giác cao độ, đó là âm mưu giết chết Phật
giáo mà Mao Trạch Đông đã từng áp dụng tại Trung
Hoa đại lục trong những cuộc ‘Cách mạng văn hóa’…
Câu chuyện lần đó
kéo dài hơn 6 giờ đồng hồ, lúc ấy trời đã tối
tôi đành phải cáo từ Ngài với lý do đường xá
không quen sợ lái xe ‘thăm’ ruộng. Sợ bất kính
với bậc Trưởng thượng, tôi thưa Ngài: “Dẫu
biết rằng kiến thức và kinh nghiệm của con còn
quá non nớt, nhưng những gì trình bày cùng Ngài
là nhiệt huyết của con. Kính xin Ngài lượng thứ
nếu có điều chi sơ xuất”. Ngài cười nói: “Hậu
sanh khả úy”; tôi vui miệng đáp lại: “Hậu
sanh khả ố thì có, thưa Ngài”.
Trước lúc từ biệt,
Ngài trao tôi một phong bì và nói: “Cái này
Thầy gởi con mang theo uống nước. Thầy biết anh
em bên ấy khó khăn, thiếu thốn mọi bề…”. Tôi
không dám nhận và thưa: “Chùa Thiên Đức đang
trong giai đoạn trùng tu, xin Ngài cho con cúng
dường để tạo phước…”, rồi lên chánh điện lạy
Phật và để lại phong bì trên Phật điện. Hai ngày
sau, Ngài đích thân sai đệ tử chở đến gia đình
của tôi ở ngã ba Phú Tài giao cho người thân và
nhờ chuyển lại tôi ‘món quà’ ấy. Sau này tôi đã
dùng lại số tiền ấy cùng qúy Tăng ni Bình Định
học tập tại Đại học Delhi thỉnh một tượng Phật
bằng đồng theo phong cách Ấn Độ cúng dường Ban
Trị sự Phật giáo Bình Định…
Năm tháng qua đi,
tôi được cơ duyên tham học nhiều nơi và có dịp
học hỏi cùng nhiều bậc trưởng thượng khả kính.
Dẫu rất ít khi tiếp xúc cùng Ngài, nhưng đạo
phong và cốt cách của Ngài làm tôi vô cùng kính
phục mỗi khi diện kiến. Đối diện với Ngài, ai
cũng phải kính nể cung cách nghiêm trang của một
bậc Long Tượng Thiền Môn, giọng nói của Ngài
trầm ấm, cử chỉ khoan thai, và đặc biệt cặp chân
mày trắng vút cao của Ngài hiện lên như một võ
tướng. Người ta thường ví Bình Định là ‘đất võ
trời văn’, riêng tôi mỗi khi có dịp chuyện trò
cùng huynh đệ thì sánh Ngài Thiện Nhơn như ‘quan
võ’ và Ngài Huyền Quang là ‘quan văn’ của
Phật giáo Bình Định.
83 năm cuộc đời,
hơn 70 năm mặc áo nhà Thiền, trải qua bao thăng
trầm của thế cuộc, nước nhà nhiều lần thay ngôi
đổi chủ, tổ quốc trải qua mấy chế độ khác nhau,
không hận kẻ đã đem mình bỏ tù – không xu theo
những lời xảo trá, Ngài uyển chuyển đi giữa
những làn đạn ác liệt của thế gian như ‘Tượng
vương’ dũng mãnh xông lên giữa chốn hồng trần để
duy trì tâm nguyện: “Truyền Đăng Tục Diệm –
Kế Vãng Khai Lai”.
Thành kính đảnh
lễ giác linh cố Hòa Thượng thượng THIỆN hạ NHƠN
- bậc Đạo sư dõng mãnh như ‘Sư
tử tần thân’ và uy nghi như ‘Tượng
vương hồi cố’!
Tri ân Ngài –
người đã để lại trong tâm con bài pháp đầu tiên
trong đời!
Atlanta, Georgia
– Hoa Kỳ, 23/4/2013
Giác Hạnh
– Lê Bích Sơn

==================================
KÍNH TIỄN GIÁC LINH ÔN
THIỆN NHƠN
Bạch Xuân Phẻ
Ôn xuất ngoại để thăm
Ung dung và tự tại
Nụ cười hiền vô ngại
Muôn sự lại hoàn không
Cuộc đời vốn long đong
Ôn thảnh thơi đây đó
Chuyển pháp luân thường tỏ
Giáo lý thoát cõi mê
Hư vô Ôn đi về
Gió lướt qua rặng tre
Trong nắng ấm chiều se
Không tiếng nào để lại
Chân mày bạc trắng thong dong
Bồng lai vừa thoát minh mông Niết Bàn


|