HÌNH BÓNG QUÊ
HƯƠNG
TNT Mặc Giang

Việt Nam thuở
khai nguyên chỉ có các tỉnh miền thượng du đổ
xuống đồng bằng sông Hồng, sông Thái Bình chạy
dài ra biển, xuôi về hướng Nam, dọc theo dãy
Trường Sơn tới Thanh Nghệ Tĩnh, vươn lên phía
Bắc là Quảng Đông, Quảng Tây, nhưng Trung Hoa đã
chiếm ngay từ đầu Bắc thuộc cho tới ngày nay.
Các triều đại vua chúa suốt hơn 4500 năm trước
đều đóng đô ở Phong Châu, có khi đổi tên Cổ Loa,
Đại La, Thăng Long mà nay là Thủ đô Hà Nội. Do
đó mới nói miền Bắc là cái nôi dân tộc và Hà Nội
là cái nôi văn vật một thời. Vì phía Bắc là sức
nặng Trung Hoa khổng lồ, cha ông mình mới rút
dần về tới Ải Nam Quan để trấn thủ. Rồi tiến vào
phía Nam mở mang bờ cõi, tới đầu thế kỷ 17, đến
tận Hà Tiên, Cà Mau là điểm cuối cùng nằm sát
biển. Sài Gòn nằm ngay trung tâm chạy về các
tỉnh Miền Nam, xuyên ra Miền Trung, dẫn lên Cao
Nguyên, tựa cửa Bạch Đằng ra biển Thái Bình, cho
nên Sài Gòn trở thành Thủ Đô của nước Việt Nam
Cộng Hòa một thời, và những câu thơ:
“Đây Sài Gòn
đây Thủ Đô nước Việt.
Trái tim chung
của dân tộc anh hùng.
Đời đang lên bao
hứa hẹn trẻ trung.
Ba trăm tuổi mới
đi vào lịch sử”…
…
phản ảnh cụ thể vai trò, vị thế và lịch sử của
Sài Gòn, tên gọi thân yêu.
Bản đồ chữ S,
theo vòng cung gồm các tỉnh phía Bắc mà Ải Nam
Quan là đỉnh đầu giáp với Trung Hoa. Phía Tây là
dãy Trường Sơn, từ thượng du Miền Bắc, đi vào
cao nguyên Miền Trung lên Đà Lạt, lệch về Nam là
núi Bà Đen Tây Ninh, nối theo là dãy Thất Sơn
Châu Đốc, Ba Thê tại Hà Tiên. Bên kia Trường Sơn
là Lào, Kampuchia. Phía đông từ Bắc vào Nam chạy
cặp theo bờ biển tới vịnh Thái Lan, được uốn
tròn thành mũi Cà Mau, điểm cuối chữ S là Rạch
Giá, Hà Tiên. Việt Nam có bốn sông lớn : Hồng Hà,
Thái Bình, Cửu Long, Đồng Nai. Chiều dài từ Nam
Quan tới Cà Mau 1500km, bờ biển Hải Phòng - Hà
Tiên 2200km, biên giới đất liền với Trung Hoa,
Lào, Cam Bốt dài 2500km. Vị trí ngắn nhất là cái
eo chữ S các tỉnh miền Trung: Bình-Trị-Thiên,
Thanh-Nghệ-Tĩnh mà ngang Đồng Hới chỉ độ 37km.
Việt Nam có nhiều
bờ biển rất đẹp như Đồ Sơn, Sầm Sơn, Nha Trang,
Vũng Tàu. Nhiều thạch động nổi tiếng Hòn Chồng,
Hòn Gai, Phong Nha, Thiên Thai, Hà Tiên. Nhiều
hồ rất nên thơ như Hồ Gươm, Hồ Tây, hồ Than Thở.
Còn nữa, nào Thác Cam Ly, Thác Prenn, suối Vàng,
suối Bạc, nào Chùa Trấn Quốc, Chùa Hương, Chùa
Một Cột… Các cảng Hải Phòng, Đà Nẵng, Cam Ranh.
Nhiều nơi nghỉ mát lý tưởng như Đà Lạt, Chapa,
Việt Bắc. Cái đẹp sông Hương, Cần Thơ, Gò Công.
Rồi Hà Nội 36 phố phường, Sài Gòn hòn ngọc viễn
đông. “Từ Nam Quan Cà Mau, từ non cao rừng sâu…,
Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình…, Từ Bắc vô
Nam tay liền nắm tay…”, “Mắt Mẹ Già biển Đông
ngóng đợi, Mắt Cha Già núi Thái chờ trông” là
vóc dáng hình hài, giang sơn gấm vóc, sông núi
mỹ miều, đất Mẹ Việt Nam ơi, quê Cha Việt Nam ơi,
quê hương ta đó!
Người Cha đầu
tiên của VN là vua Lạc Long Quân, thuộc giống
Rồng mang họ Hồng Bàng, sắc dân Lạc Việt, gặp Mẹ
VN là bà Âu Cơ, thuộc giống Tiên. Ông Bà là Rồng
Tiên nên không sinh nở con một, con hai, hay năm,
bảy là nhiều của thường tình nhân loại xưa nay,
mà cùng một lúc, một trăm cái trứng nằm chung
trong một bọc, tựu thành một trăm hài nhi, được
sinh ra một lần, đều khỏe mạnh, tuấn tú, thông
minh, thương yêu nhau lắm, “anh em như thể tay
chân”, nên chỉ có dân tộc VN mới gọi là đồng bào
(cùng bọc), và không nên lẫn lộn hoặc có khi nói
hai chữ đồng bào với các sắc tộc khác. Trăm anh
em, nửa cùng Mẹ lên núi, trung du, thượng du,
kiếm cây trái, mật ong và mọi lâm sản tự nhiên
của núi rừng để sống, nửa theo Cha xuống trung
châu, đồng bằng, vùng thấp khai khẩn, gieo trồng,
rau húng, tía tô và tìm các loài thủy sản để
sống. Có được gì, họ đều mang về chia cho nhau,
bảo vệ lẫn nhau, và nuôi đàn con nhỏ dại. Một
ngày kia, đàn con khôn lớn trưởng thành, vì là
Rồng Tiên nên trước khi qui ẩn, truyền ngôi lại
cho người con lớn
lên làm vua là Hùng Vương thứ nhất, đặt tên nước
Văn Lang. Họ Hồng Bàng thay nhau làm vua trải
qua 18 đời, đều mang hiệu là Hùng Vương, kéo dài
từ năm 2809 đến năm 258 trước tây lịch. Một gia
đình có 100 anh em, dựng vợ gả chồng, con cháu
đầy đàn, chia ra nhiều nhánh, với nhiều sắc dân
khác, tương ái tương thân sống trên nước Văn
Lang suốt 2551 năm ấy, lúc nào cũng bảo vệ gìn
giữ cho nhau, nên chữ tình ruột thịt, nghĩa đồng
bào “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác
giống nhưng chung một giàn”, keo sơn gắn bó,
trở thành nếp sống truyền thống gia đình, làng
xã, bà con dòng họ của người Việt Nam.
Hiện nay dân số
VN lên tới gần 90 triệu người trong nước, khoảng
5 triệu người ở nước ngoài, và mãi mãi mai sau
đều cùng da vàng máu đỏ trong tim, mang tên dân
tộc Việt Nam, là con Lạc cháu Hồng của nòi giống
Rồng Tiên, đều nhớ, đều thờ và Giỗ Tổ Hùng Vương,
là do người anh cả đầu tiên tức Vua Hùng Vương
mở nước, giữ nước và đến hôm nay là năm 2012 sau
dương lịch, nên gọi VN có lịch sử gần 5000 năm
văn hiến.
Vua Hùng Vương
thứ 18 có cô công chúa Mỵ Nương đẹp lắm, Vua
Thục muốn cưới mà Hùng Vương không chịu, lại gả
cho Sơn Tinh. Do mang mối hận này và muốn trả
thù, đến đời cháu có tên Thục Phán, mới chiếm
được nước Văn Lang năm 258, đổi thành Âu Lạc,
xưng An Dương Vương, xây thành Cổ Loa làm kinh
đô. Đến năm 207 trước dương lịch, chuyện ly kỳ
về mỹ nhân lại tái diễn, Văn Lang mất do Mỵ
Nương, thì Âu Lạc của An Dương Vương lại mất về
tay Triệu Đà cũng vì công chúa Mỵ Châu, đổi
thành nước Nam Việt.
Chuyện Sơn Tinh -
Thủy Tinh, chuyện Trọng Thủy - Mỵ Châu để lại
bao niềm thương cảm sau này. Nhà Triệu truyền
đến đời thứ 5 là Dương Vương, thì năm 111 trước
dương lịch bị Trung Hoa xâm chiếm, kết thúc
quyền tự chủ, tự trị, độc lập đất nước Việt Nam
của người Việt Nam. Việt Nam bị trị đến năm 40
sau dương lịch thì giành độc lập nhưng rất tiếc
chỉ có 3 năm, lại bị Tàu tiếp tục xâm lăng. Đến
năm 248, mới có một cuộc khởi nghĩa nữa nhưng
thất bại. Điều muốn nói ở đây là, khoảng thời
gian 359 năm bị xâm lăng đằng đẵng đó, rất nhiều
cuộc chống ngoại xâm diễn ra nhưng chỉ có hai
lần khởi nghĩa đi đến thành công đều do bậc nữ
lưu đề xướng. Năm 40 hai chị em Trưng Trắc,
Trưng Nhị xuất thân đất Mê Linh, tôn hiệu Trưng
Vương nhưng vì mình thoa sức nữ, không chống nổi
sự trả thù của 50 vạn hùng binh, phải trầm mình
tuẫn tiết tại sông Hát Giang. Nối tiếp nữ kiệt
Trắc Nhị là cô gái mang tên Triệu Thị Trinh mới
19 tuổi, chiêu mộ nghĩa sĩ, huấn luyện quân binh
4 năm trường, đánh thắng trên nhiều mặt trận làm
cho quân giặc thất điên bát đảo, nhưng vì bị nội
thù phản bội, nên đã hy sinh tại núi Tùng, Thanh
Hóa mới vừa tròn 23 tuổi.
Thời gian 359 năm
đó: nhà
Hán Lưu Bang, tam quốc Ngụy-Thục-Ngô bên Tàu. Nữ
giới xuất thân cứu nước và chết vì nước trong
tuổi còn xuân. Trưng Trắc mới vừa lấy chồng, Cô
Trinh mới vừa 23 năm lẻ. Nơi đây, xin nhỏ giọt
nước mắt cho ba cô gái VN Trắc, Nhị, Trinh, mà
các đời vua sau tôn nhiều thánh hiệu, lập đền
thờ, xưng tụng Bà Trưng, Bà Triệu, dù trong lứa
tuổi mới đôi mươi. Tên tuổi ba người được khắc
ghi trên nhiều đường phố, khắp mọi thị thành
ba miền nước Việt dấu yêu, và ngời trang sử sách
để thương để nhớ.
Sau thời kỳ này,
có vài giai đoạn khởi chống ngoại xâm giành độc
lập như : Lý Nam Đế lập nước Vạn Xuân 544-602 (nhà
Lương bên Tàu) ; Mai Hắc Đế - vua mặt đen, xây
thành Vạn An năm 722 (nhà Đường bên Tàu, họ đổi
tên nước mình thành An Nam) ; Bố Cái Đại Vương
dấy nghiệp chống Tàu 41 năm 761-802 (cũng thuộc
nhà Đường) ; Khúc Thừa Dụ lập khu kháng chiến
suốt từ năm 906 đến năm 923. Bấy giờ nhà Đường
mất ngôi bá chủ, nước Tàu suy vi thành năm nước
nhỏ tranh nhau, cơ hội tốt nhất để Tướng tài ba
Dương Đình Nghệ khởi binh từ Thanh Hóa, chiếm
thành Đại La, đuổi Tàu về nước năm 931, giành
độc lập, nhưng bị Kiều Công Tiễn hãm hại nắm
quyền (931-938). Bình minh VN mới vừa ló dạng bị
đe dọa.
Ngô Quyền người
Ba Vì, Hà Nội, đánh dẹp Công Tiễn, chiến thắng
quân Nam Hán tại Bạch Đằng, và năm 939, lên ngôi,
lập triều đại Nhà Ngô 939-965, đóng đô tại Cổ
Loa, bổ nhậm triều ca, kiến thiết sơn hà, chấm
dứt 1000 năm nô lệ Trung Hoa. Cuối đời Ngô, anh
hùng tý hon cờ lau tập trận Đinh Bộ Lĩnh, người
đất Hoa Lư, Ninh Bình dẹp yên loạn 12 sứ quân,
lập Nhà Đinh 968-980, tức Vua Đinh Tiên Hoàng,
đổi tên nước là Đại Cồ Việt. Nhờ Thái hậu Dương
Vân Nga, Vua Lê Đại Hành người Thanh Hóa kế
nghiệp, lập nên nhà Tiền Lê 980-1009. Thiền sư
Vạn Hạnh giúp Lý Công Uẩn người Hà Bắc dựng nên
Nhà Lý 1010-1225, đổi Đại La thành Thăng Long,
tên nước là Đại Việt. Công chúa làm vua Lý Chiêu
Hoàng nhường ngôi cho chồng người Thái Bình, nhờ
bàn tay của Trần Thủ Độ, lên ngôi tức Trần Thái
Tôn, lập Nhà Trần 1225-1400. Từ nhà Ngô đến nhà
Trần 461 năm này vàng son nhất, kiêu hùng nhất,
oanh liệt nhất, viết lên trang sử phi thường
nhất, giữ yên bờ cõi, đánh đuổi ngoại xâm, bình
Nam dẹp Bắc của gần 5 thế kỷ dân tộc VN, nhất là
2 triều đại Lý - Trần. Phía Nam, mở mang đất
nước. Phía Bắc, quân Tàu kinh hồn, gót giày xâm
lược Nguyên Mông tung hoành các nước tới Âu Châu,
Trung Đông nhưng phải ngã gục và 3 lần tan nát
trước khí thế đường đường của quân dân Việt
Nam.
Hồ Quý Ly người
Nghệ An đổi ngôi, lập Nhà Hồ 1400-1407, thành
nước Đại Ngu. Hai cha con bị quân Minh bắt, và
nhà Minh chiếm nước ta. Lê Lợi anh hùng áo vải
Lam Sơn người Thanh Hóa, với sự giúp sức lỗi lạc
của Nguyễn Trãi, đánh đuổi quân Minh lập Nhà Lê
100 năm (1428-1527). Mạc Đăng Dung người Hải
Dương cướp ngôi Lê lập Nhà Mạc. Trịnh Kiểm,
Nguyễn Kim giúp Vua Lê chống lại hơn 50 năm, lấy
Nghệ An làm ranh giới, trở thành Nam - Bắc Triều
1527-1592. Nhà Mạc tàn, thì Trịnh- Nguyễn (anh
rể em vợ, người Thanh Hóa) phân tranh 178 năm,
lấy Sông Gianh làm ranh giới. Miền Bắc có cảnh
Vua Lê Chúa Trịnh. Miền Nam, Chúa Nguyễn mở mang
bờ cõi tới tận Cà Mau. Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ,
Nguyễn Huệ ba anh em áo vải Tây Sơn, Bình Định
xuất hiện, dẹp Bắc chinh Nam, thắng cả Nhà Thanh
tại Đống Đa, lập nên Nhà Nguyễn Tây Sơn
1778-1802. Vua Quang Trung băng hà sớm, Chúa
Nguyễn Ánh từ Thái Lan kéo quân về lập Triều
Nguyễn Gia Long 1802-1945, đổi thành nước Việt
Nam, đặt kinh đô tại Huế, và Bảo Đại là vị vua
cuối cùng, kết thúc mọi triều đại vua chúa Việt
Nam. Thời kỳ này dùng tiếng la tinh làm chữ quốc
ngữ tức chữ Việt bây giờ, 24 chữ cái rất đơn
giản nhưng vô cùng phong phú, chỉ cần học vài
tuần, tối đa vài tháng, là biết đọc, biết viết
bất cứ chữ nào, vấn đề chỉ còn là lỗi chính tả,
hiểu sâu hay cạn mà thôi.
Đời Vua Tự Đức
năm thứ 9, tức năm 1856, chiến thuyền Pháp bắn
vào Đà Nẵng, mở đầu xâm lăng và VN rơi vào thời
Pháp thuộc 100 năm, bị chia làm ba nước nhỏ :
Bắc Kỳ bảo hộ, Trung Kỳ tự trị, Nam Kỳ thuộc địa,
và cái chữ “KỲ” khó nghe này, đúng ra bị đã cuốn
phăng theo giặc Pháp vào 1954, không dùng nữa
nhưng vẫn tồn tại đến ngày hôm nay!
Đệ Nhị Thế Chiến
1939-1945, vào năm 1940 Nhật Bản có qua chiếm
nước ta. Năm 1945 Thế Chiến kết thúc, Nhật đầu
hàng vô điều kiện, Pháp bị giải giới cuốn rút,
nước ta tranh thủ giành độc lập, Bảo Đại tuyên
bố thoái vị và là vị vua cuối cùng của nước VN.
Thế độc lập đất
nước Việt Nam của dân tộc Việt Nam quá non trẻ
sau thời gian dài đô hộ chưa kịp hồi lực hồi sức
hồi sinh, chưa đủ vươn tầm vươn thế, trong khi
các thế lực liệt quốc liệt cường tranh hùng
tranh bá phân chia, và Thực dân Pháp quay lại
tiếp tục xâu xé Việt Nam. Dân tộc mình lại tiếp
tục giai đoạn 9 năm chống Pháp.
Năm 1954, sau
trận chiến Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève ra
đời, Việt Nam bị chia cắt làm đôi tại Giới tuyến
17 – Sông Bến Hải làm cột mốc, Miền Bắc được gọi
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa với Thủ đô Hà Nội,
Miền Nam được xưng Việt Nam Cộng Hòa với Thủ đô
Sài Gòn.
Hai
Miền Nam
Bắc tiếp tục lâm vào cuộc chiến kéo dài 21 năm
gọi là Cuộc chiến Quốc - Cộng, và kết thúc vào
ngày 30-4-1975. Tên nước đổi thành Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, chọn Hà Nội làm Thủ đô,
Sài Gòn đổi tên Thành phố.
Thời Pháp thuộc,
có một số ít người Việt Nam phải sống xa quê
hương với tên gọi lưu vong hay lưu đày. Sau
1975, làn sóng người Việt tha phương ồ ạt hơn,
đông hơn gấp bội, hàng vài triệu người với tên
gọi tỵ nạn.
Nhớ người VN lưu
đày bên Tân Đảo hay các nước Phi Châu thời trước.
Nhớ người Việt lưu vong ở Thái Lan của những năm
nào. Khóc thương cho gần một triệu người đã nằm
yên dưới đáy biển hay giữa rừng sâu, da thịt có
lẽ cũng không còn. Phi Luật Tân tiêu điều mà vẫn
có làng tỵ nạn. Trên khắp năm châu đâu đâu cũng
có người tỵ nạn, hai chữ tỵ nạn thương đau được
mang và có lẽ mang đến cuối đời.
Có tật dậy sớm,
mùa đông, ly cà phê lạnh rất nhanh. Nơi đây, tôi
vẫn nghe tiếng dế đêm trường, vẫn nghe tiếng
quốc kêu sương. Trong tâm thức sâu xa và đáy vực
của tâm hồn, lại vang lên tiếng em bé nghèo
“bánh mì nóng giòn đây” để kiếm chút tiền sách
vở đến trường, tiếng bà Mẹ già nặng gánh trĩu
vai “cháo đây, xôi đây” để kiếm áo kiếm cơm.
Trong mắt tôi lại thấy nhiều bà Mẹ già VN mua
bán ve chai, nhiều em bé sống lây lất qua các
bãi rác, cả Nam Trung Bắc từ thị thành cho đến
miền quê nơi đâu cũng có. Lại
thấy nhiều em bé gái Việt Nam bị đi ra nước
ngoài, có em thì “làm dâu” ngoại quốc, có em thì
lạc cõi phiêu bồng.
Bỗng dưng giọt lệ
làm ấm bờ mi: “Gia
tài của Mẹ để lại cho con, Mẹ khuyên con tiếng
nói thật thà, Mẹ khuyên con chớ quên màu da”. Dù
ở đâu, ra sao, và làm gì, hãy nhớ nghe, văn hóa
còn, đạo đức còn thì Dân tộc còn, nước Việt còn.
Là con Rồng, là cháu Tiên, chúng ta dễ nhận
ra nhau dòng giống Lạc Hồng, và một ngày kia
cùng nhau bồi đắp Văn Lang.
Trọng
đông 2012
TNT Mặc Giang


|