Đời sống nhạc sĩ
Ngô Thụy Miên vốn thầm lặng, ít xuất hiện trước
ống kính, chưa có dịp về thăm lại quê hương kể
từ khi ra đi vào năm 1978. Tuy nhiên đối với
người Việt trong nước, tình ca Ngô Thụy Miên
được nghe, được hát say mê. Mỗi đêm trên đất
nước này, thật khó có thể biết hết số người hát
nghe các ca khúc trữ tình lãng mạn của anh.
Cũng như bao
người, tôi yêu thích tình ca Ngô Thụy Miên. Nghĩ
đến tên anh, mọi người đều nghĩ đến một thiên
tài âm nhạc viết tình ca. Hầu như rất ít người,
nhất là ở trong nước biết rằng anh có sáng tác 3
bản Phật ca.
Trong các cây đại
thụ Việt Nam, có lẽ anh là người tạo cho mình
một nghề nghiệp vững chắc không phải là âm nhạc.
Nói theo dân gian, anh là người “có thực mới vực
được nhạc”. Trước 1975, bên cạnh việc sáng tác,
anh theo học tại Đại Học Khoa Học Sài Gòn, làm
kiểm soát không lưu (Air traffic controller) tại
phi trường Tân Sơn Nhất. Năm 1978 sau khi ra
nước ngoài, bắt đầu lại từ đầu, anh tốt nghiệp
kỹ sư khoa học điện toán (BS Computer Science).
Đây là một ngành tương đối khô khan khó học thời
bấy giờ.
Ngay cả tôi, trẻ
trung, tuổi đời chưa tới 20 nhưng phải vật vã,
thức nhiều đêm dài nặn logic viết mệnh lệnh cho
máy điện toán xử lý tư liệu. Thời tôi theo học
ngành này, gần một nửa sinh viên Mỹ phải bỏ cuộc
giữa đường. Thế nhưng một người có tâm hồn viết
những giòng nhạc đài các lãng mạn ở tuổi trên 30
như anh, vừa ra nước ngoài với bao trở ngại ngôn
ngữ lại vượt qua được khó khăn này.
Nhạc của anh so
với nghề nghiệp vô cùng khác biệt như đường với
muối, nước với lửa. Có lần gặp anh tại hội nghị,
tôi hỏi đùa: - gõ bàn phím máy tính cho ra
program mới (software-nhu liệu) và gõ dương cầm
cho ra nhạc phẩm mới, anh gõ cái nào nhanh hơn?
Anh mỉm cười nửa
đùa, nửa bí ẩn: - Cái này thì máy tính nó mới
biết được, mà máy tính nó lại không nói cho
người biết.
Tôi thật sự biết
anh nhiều hơn, thân hơn vào khoảng năm
1989-1994. Dạo ấy anh thường tham dự khoá lễ
hằng tuần tại ngôi chùa vừa được thành lập gần
nơi cư ngụ. Anh thích ngồi phía sau, lặng lẽ
thiền, tụng kinh niệm Phật theo sự hướng dẫn của
qúy sư. Những lễ lớn như Phật Đản, Vu Lan, anh ở
lại quây quần dùng cơm chung với Phật tử. Dẫu
biết là nhạc sĩ tên tuổi nhưng mọi người luôn
đối xử anh như một Phật tử bình thường vì biết
anh mong được như thế. Anh rất thân thiện, tự
nhiên, có bề ngoài vừa trí thức dễ mến vừa nghệ
sĩ khiêm nhường từ tốn. Phong cách anh có thể
nói rằng không khác mấy với giòng nhạc Ngô Thụy
Miên: cổ kính, lãng mạn, uyên thâm, thi vị.
Thưở ấy tôi được
sư trụ trì giao phụ trách sinh hoạt tuổi trẻ,
trong đó có phần văn nghệ trình diễn trong dịp
lễ. Sư trụ trì thường tâm sự trong các buổi tu
học hằng tuần: - Thầy ước ao cải thiện buổi
lễ Phật, trẻ trung hoá Phật Giáo để lớp trẻ có
thể tham dự dễ dàng hơn, hiểu đạo hơn.
Vài tuần sau, một
trưa chủ nhật mùa xuân năm 1991, anh cầm cuộn
giấy tròn gặp tôi tại chùa, giọng bắc, trầm,
chậm: - Mấy hôm rồi anh có phổ ba bài nhạc
như lời thầy tâm sự. Em áp dụng được gì thì cứ
tự nhiên.
Tôi nhận cuốn
giấy nhỏ trên tay, từ tốn mở ra. Ba bài nhạc
được ghi nốt, lời nhạc bằng nét chữ viết tay của
anh. Tôi ngạc nhiên: - Đây là bản chính mà
anh? Để em photo rồi trả lại. Em không dám giữ
bản gốc đâu.
Anh cười hiền từ:
- Có sao đâu, em cứ giữ đi.
Ba bài nhạc đó,
tôi photo ra nhiều bản, trả lại anh bản gốc. Vài
tháng sau, anh đưa bản in có nốt nhạc lời nhạc
rõ ràng hơn, kèm theo băng cassette: - Anh có
nhờ người thân hát tạm cho tụi em dễ hát theo.
Tôi cảm động, bối
rối: - Anh tốn công quá. Em sẽ ráng hết sức
nhưng sợ khả năng hạn hẹp của em không xứng với
tấm lòng của anh.
Anh chân tình:
- Có sao đâu, đừng ngại gì hết. Anh đóng góp
chút ít. Tập được thì tập, không cũng chẳng sao.
Từ năm 1991 đến
1994, tôi gởi ba bản Phật ca đến nhiều chùa, có
in trên một số báo Phật Giáo hải ngoại. Bài Sám
Hối Phát Nguyện và bài Cúng Hương Tán Phật được
chúng tôi hát trong các buổi lễ dành riêng cho
giới trẻ. Đây là hai bài kinh nhật tụng mà người
đi chùa luôn tụng bằng chuông mõ khi dự các khoá
lễ. Âm điệu hai bài được phổ rất trang nghiêm
thánh thiện. Khi hát chúng tôi dễ dàng diễn đạt
trọn vẹn lòng thành, cảm nhận thân tâm như kết
nối cùng chư Phật.
Riêng bài Em Đi
Lễ Chùa được chúng tôi trình bày trong các
chương trình văn nghệ Phật Đản, Vu Lan. Dạo ấy
một số Phật tử trẻ tại các thành phố lớn cũng
hát những bài này. Tuy nhiên trong môi trường
hải ngoại, kẻ đi người đến, nhất là nhạc Phật
giáo hầu như không được ca sĩ tên tuổi làm CD,
nên ba bài Phật ca của anh dần dần đi vào quên
lãng...
Những năm sau này
tôi có ý định giới thiệu 3 bản Phật Ca đến người
trong nước, tuy nhiên mãi gần đây mới đủ duyên
lành tiếp cận qúy tu sĩ và Phật tử trẻ làm việc
trong lãnh vưc văn hoá Phật Giáo. Tôi trình bày
anh ý định của mình và được anh nhắc đến kỷ niệm
xưa trong đó có đoạn: “Đây là những đóng góp
nhỏ nhoi của anh vào vườn hoa Phật ca của chúng
ta, và dĩ nhiên quý vị Phật tử có thể tự do phổ
biến. Anh phải cám ơn những công đức này!”
Đêm nay ngồi
chuyển MP3 từ băng cassette ngày nào và in 3 bài
nhạc để anh ký như một lưu niệm trước khi tôi
gởi về bên nhà. Cuốn băng nằm im đã quá lâu,
nhão, dính chặt, máy không kéo được. Vừa niệm
Phật vừa dùng bút chì xoay băng cho lỏng, tôi
nguyện cầu cuốn băng đừng đứt, đừng hư… Cuối
cùng lời nhạc từ máy cassette vang vọng giữa đêm
khuya. Diệu kỳ thay! qúy báu thay! Âm thanh
chuyển tải diễn đạt được cả dấu ấn thời gian xa
xưa. Tôi thấy mình hoà nhập cùng lời kinh trong
tiếng dương cầm anh đệm nhẹ nhàng thanh tao.
Sau 20 năm chìm
vào quên lãng, ba bản Phật ca của người nhạc sĩ
tài hoa bắt đầu hành trình mới mà tôi tin rằng
sẽ vươn mầm tươi tốt nơi đất Việt mến yêu!