Lá Thư Đầu Năm Của
Tổng Hội Phật Giáo Pháp Quốc
Hoang Phong
biên soạn
Như thông lệ hằng năm, ngày 4 tháng 2, 2013 vừa qua, Tổng Hội
Phật Giáo Pháp đã gửi đến cho các thành viên lá
thư đầu năm số 13 nhằm tường trình các hoạt động
của Tổng Hội trong năm vừa qua. Nhìn vào sinh
hoạt của một tổng hội Phật Giáo « non trẻ » của
một quốc gia Âu Châu, nơi mà Phật Giáo chỉ mới
đặt chân vào chưa đầy một thế kỷ quả là ta cũng
có thể thấy được những điểm thật « mới mẻ » so
với sinh hoạt của Phật Giáo tại các quốc gia Á
Châu nơi mà Phật Giáo đã bắt rễ từ lâu đời.
Nước Pháp là một quốc gia pháp trị, do đó tất cả mọi sinh hoạt
trong nước từ các lãnh vực văn hóa, tín ngưỡng
cho đến việc điều hành quốc gia, dù thuộc vào
các cấp bậc dân cử cao nhất đi nữa, cũng đều
phải tuân thủ luật pháp. Tổng hội Phật Giáo Pháp
đã được thành lập trong bối cảnh đó để bảo vệ và
bênh vực quyền lợi của Phật Giáo trong khuôn khổ
và các quyền hạn đã được luật pháp quy định
chung cho tất cả các tín ngưỡng. Tại nước Pháp
thì ngoài Phật Giáo Tây Tạng, Thiền Học Zen và
Phật Giáo Theravada là ba tông phái Phật Giáo
phát triển mạnh nhất thì gần như hầu hết tất cả
các tông phái và chi phái khác cũng đều có mặt ở
quốc gia này, đôi khi với các hình thức sinh
hoạt thật cá biệt dưới những mái chùa tiêu biểu
phản ảnh thật rõ nét cội nguồn của những người Á
Châu di dân, như Việt Nam, Hàn Quốc, Trung Quốc,
Lào, Campuchia, Miến Điện, Tích Lan.... Tổng Hội
Phật Giáo Pháp quy tụ và kết hợp được tất cả các
hình thức Phật Giáo trên đây và được điều khiển
bởi những nhà tu hành chân chính, uyên bác và
tận tụy, được bầu lên một cách dân chủ. Điều này
cho thấy là Phật Giáo đã ăn sâu vào đời sống xã
hội của quốc gia này. Các thành viên của Tổng
Hội dù là dưới danh nghĩa các hội đoàn hay với
tư cách cá nhân đều được thông báo về mọi sinh
hoạt của Tổng Hội cũng như các tin tức về Phật
Giáo trên toàn quốc cũng như trên thế giới.
Dưới đây là phần tóm lược một vài tiết mục nêu lên trong lá
thư trên đây của Tổng Hội về những sinh hoạt của
Phật Giáo trên đất Pháp cũng như các quan điểm
của Tổng Hội Phật Giáo Pháp về các vấn đề mang
tính cách thời sự hiện nay.
Mở đầu lá thư là một thông điệp ngắn của bà Marie-Stella
Boussemart, đương kim chủ tịch Tổng Hội Phật
Giáo Pháp. Bà là một ni sư tu theo Phật Giáo Tây
Tạng và rất hăng say trong các công việc Hoằng
Pháp.
Vài lời của Ban Biên Tập
Năm 2012 là một năm với thật nhiều biến đổi
Bà
Marie-Stella Boussemart
chủ tịch Tổng Hội Phật Giáo Pháp
« Năm vừa qua là một năm vô cùng phong
phú với nhiều sinh hoạt thật ráo riết [đối với
Phật Giáo] trên thế giới cũng như trên đất Pháp
và cả trong khuôn khổ Tổng Hội của chúng ta.
Tất cả mọi sự việc không nhất thiết
phải xảy đến ngày càng đúng hơn, mà thật ra cũng
chỉ có thể bảo rằng mọi sự đều phải biến đổi để
trở thành khác đi mà thôi. Chẳng phải chính Đức
Phật Thích-ca Mâu-ni qua các bài thuyết giảng
đầu tiên cách nay đã 2 600 năm cũng đã từng nêu
lên khía cạnh vô thường của mọi hiện tượng cấu
hợp hay sao ? Ngày nay mọi sự vẫn tiếp tục vô
thường như thế. Trong từng giây phút một, những
gì hiển hiện ra sẽ đổi thay và tan biến. Quy
luật thiên nhiên ấy là nguyên nhân mang lại mọi
thứ đớn đau và khổ nhọc, chẳng hạn như sự chia
ly và cái chết của những người thân yêu. Thế
nhưng những biến đổi đó cũng chính là cội nguồn
của hy vọng và ước mong, bởi vì nhờ có sự biến
đổi nên mọi sự mới có thể thăng tiến được, chẳng
hạn như nhờ đổi thay nên ta mới khỏi bệnh, và
cũng nhờ có sự biến đổi nên ta mới đạt được sự
giải thoát, và cấp bậc tối thượng của sự giải
thoát chính là sự Giác Ngộ. Đạt được sự Giác Ngộ
tùy thuộc vào khả năng chủ động của chúng ta
trước sự chi phối của vô thường, tức là cách
không để mình bị rơi vào những ước vọng phi lý
muốn cho mọi sự phải luôn giữ nguyên như thế,
hoặc nói cách khác là không nên tôn thờ chủ
nghĩa « vĩnh hằng ». Trái lại chúng ta phải biết
lợi dụng ngay chính cái quy luật vô thường ấy để
mang lại cho chúng ta an bình và hạnh phúc, đạo
đức và trí tuệ, nhân ái và lòng từ bi ngày càng
nhiều hơn.
Như quý vị đã thấy, chương trình hoạt
động của Tổng Hội Phật Giáo Pháp trong năm 2012
vừa qua thật vô cùng nặng nề, ngoài các hoạt
động thông thường chẳng hạn như giao tiếp với
chính quyền và các tôn giáo khác trên đất Pháp,
đảm trách chương trình Phật Giáo phát sóng hàng
tuần trên đài truyền hình Quốc Gia, điều khiển
các buổi sinh hoạt tại ngôi chùa Grande Pagode,
Tổng Hội còn phải xúc tiến một dự án quan trọng
khác là cắt đặt các vị giáo sĩ Phật Giáo vào các
nhà giam để giúp đỡ tù nhân. Chương trình hoạt
động dự trù cho năm 2013 cũng cho thấy thật hết
sức nặng nề. Chỉ cần nêu lên một vài thí dụ như
các cuộc bàn thảo với Thị Trưởng thành phố Paris
trong tháng mười hai vừa qua, các cuộc bàn thảo
này đã mang lại kết quả tốt là thành phố Paris
sẽ đứng ra đảm trách việc tu sửa ngôi chùa
Grande Pagode của Tổng Hội trong công viện
Vincennes ở quận XII, và hiện nay thì Tổng Hội
đang phải theo dõi việc thực hiện các công trình
trùng tu đó. Các buổi hội thảo về các vấn đề
pháp lý từ trước đến nay cũng đã gặt hái được
nhiều kết quả tốt mặc dù các chủ đề bàn thảo
thật hết sức khó. Một cuộc hội thảo khác về các
vấn đề pháp lý cũng sẽ được dự trù vào tháng sáu
sắp tới. Ngoài ra Tổng Hội cũng đã quyết định tổ
chức ngày lễ Phật Đản và ngày lễ Vesak (lễ
Dâng Y của Phật Giáo Theravada) chung vào
hai ngày 25 và 26 tháng Năm tới đây, và nhân dịp
này Tổng hội cũng sẽ tuyên bố khởi xướng một chu
kỳ nghiên cứu kéo dài ba năm về chủ đề « Đạo Đức
và các biến thể của nó » trên cả hai phương diện
cá nhân và xã hội.
[......]
Người Phật Giáo là những người kiến
tạo hòa bình và luôn đứng ra để hòa giải. Những
người tu hành dấn thân và các cảm tình viên Phật
Giáo (nên hiểu là có rất nhiều người Tây
Phương không tự nhận mình là người theo Phật
Giáo mà chỉ cho biết mình là các cảm tình viên
Phật Giáo), tất cả chúng ta đều sẽ tìm thấy
một chỗ đứng trên con đường đó. Chúng ta gánh
vác một trọng trách thật cao cả đối với xã hội
Pháp, đó là bổn phận phải kính trọng kẻ khác và
đức tin của họ, dựa trên một căn bản thế tục
nhằm bảo đảm sự tự do suy nghĩ, đức tin và quyền
được phát biểu dành cho cho tất cả mọi người, dù
là nam hay nữ, kể cả những người tu hành. Không
nên để mình bị ảnh hưởng bởi thái độ yếm thế
đang lan tràn chung quanh, mà phải tập trung vào
sứ mạng trước mặt, và dù cho cái sứ mạng ấy có
khiêm tốn đến đâu đi nữa thì cũng đừng quên rằng
một con bướm đập nhẹ đôi cánh cũng có thể tạo ra
những tác động tuyệt vời.
Chúng tôi xin chân thành cầu chúc quý
vị một năm mới 2013 thật an lành và hạnh
phúc ».
Sau đây là phần tóm lược một vài tiết
mục đã được nêu lên trong lá thư đầu năm của
Tổng Hội Phật Giáo Pháp.
Ngày
8 tháng 2, năm 2013, bà Marie-Stella Boussemart,
chủ tịch Tổng Hội Phật Giáo Pháp tham dự một
buổi tiếp tân tại điện Élysée (phủ Tổng Thống).
Đây là dịp Tổng Tháng Pháp François Hollande
chúc mừng các vị lãnh đạo các tôn giáo vào dịp
đầu năm. Ngày 15 tháng giêng vừa qua bà cũng đã
tham dự buổi tiếp tân đầu năm của Quốc Hội.
Buổi hội thảo đầu năm của Tổng Hội Phật Giáo
Một bước tiến thật dài
Chủ
tọa buổi họp : bà Marie-Stella Boussemart, ông
M. Thiriode, chánh văn phòng Ủy Ban Tôn Giáo
thuộc bộ Nội Vụ, Mục Sư Tin Lành Baty, chủ tịch
hội Liên Hiệp Tin Lành Pháp, cả hai là khách mời
để phát biểu về chủ đề các giáo sĩ tôn giáo, và
Thiền Sư Reigen Wang-Genh
Thiền sư Olivier Reigen Wang-Genh
(tên
ông là Olivier Reigen, pháp danh là Wang-Genh.
Ông tu tập theo thiền học Zen, học phái Tào Động
đã 40 năm nay, và hiện trụ trì một thiền viện
trong vùng đông-bắc nước Pháp)
Buổi họp đầu tiên của Ủy Ban Lãnh Đạo Tổng Hội và các thành
viên được tổ chức tại chùa Linh Sơn của Việt Nam
ở Vitry-Sur-Seine. Sau đây là tóm lược bài diễn
văn khai mạc của Thiền Sư Olivier Reigen Wang-Genh.
« Các thành viên của Tổng Hội đại diện cho hầu hết các Tông
Phái và Học Phái Phật đã đến họp đông đủ hôm nay,
thật là một điều vô cùng khích lệ và cũng chính
nhờ đó mà kết quả mang lại từ các buổi thảo luận
sẽ được vững chắc, tín nhiệm và hợp pháp hơn.
Thiết nghĩ cũng nên nêu lên các lý do đã khiến cho Tổng Hội
Phật Giáo Pháp phải đứng ra triệu tập các buổi
họp hôm nay. [...] Chúng ta ngày càng phải đối
đầu với những đòi hỏi thật khẩn thiết của giới
truyền thông, của chính quyền và của xã hội
[...], tất cả đang mong đợi đón nhận các quan
điểm dứt khoát của chúng ta trước những vấn đề
ngày càng phức tạp [...], vì thế nên cũng hết
sức khó khăn cho chúng tôi khi phải đưa ra những
lời giải đáp chung thay mặt cho toàn thể Phật
Giáo.
Thế nhưng đồng thời thì Thiền Sư Olivier Reigen Wang-Genh cũng
cho biết rằng đấy cũng lại là một dịp may để nêu
cao Dharma (Đạo Pháp) cho mọi người biết đến,
một dịp để quảng bá các quan điểm khác hơn với
những gì thường được nêu lên qua những bài diễn
văn quá nhàm tai mà chúng ta đã phải nghe đi
nghe lại, và để nêu lên những quan điểm mới mẻ
hơn, khác biệt hơn với những gì mà chúng ta đã
được thừa hưởng từ một nền văn hóa phát sinh từ
các tôn giáo A-ra-ham (nguyên văn là
religions abrahamiques / Abrahamic religions.
Chữ Abraham, tiếng Do Thái là Av.Ra’Am, tiếng Á
Rập là Ibrahim, có nghĩa là vị « Thánh Cha của
tất cả sự đa dạng ». Các tôn giáo phát sinh từ
khái niệm về một vị Thánh Cha này gồm có Do Thái
Giáo, Thiên Chúa Giáo và Hồi Giáo và tất cả các
chi phái phát sinh từ các tôn giáo này – ghi
chú thêm của người dịch).
[...]
Ông Olivier Reigen Wang-Genh còn nhắc nhở mọi người rằng các
căn bản hoạt động của các tổ chức trong Tổng Hội
là thực thi lòng rộng lượng và sự bố thí. Ông
nhắc nhở là chúng ta phải luôn tự hỏi : « Mình
đã mang lại được những gì cho kẻ khác ? [...]
Hãy nên cố gắng trả lời câu hỏi đó một cách ngay
thẳng bằng những cử chỉ cụ thể và thật hào phóng
để mọi người nhìn vào, và đấy cũng chính là một
thông điệp gửi đến những ai dù là nam hay nữ,
chưa hề có dịp biết đến Phật Giáo là gì ! »
[...]
Ông Olivier Reigen Wang-Genh chấm dứt buổi khai mạc bằng những
lời phát biểu sau đây: « ... Tổng Hội Phật Giáo
Pháp không nắm giữ một uy quyền nào cả trên
phương diện tâm linh đối với tín ngưỡng Phật
Giáo, Tổng Hội cũng không đại diện cho một Tông
Phái hay một Học Phái nhất định nào, và trong
bất cứ trường hợp nào cũng không ước mong đứng
ra thay mặt cho một Tông Phái hay Học Phái nào
cả. Thế nhưng phải nói rằng vai trò của Tổng Hội
quả thật là duy nhất và độc đáo ». Ông nói thêm
rằng Tổng Hội chỉ ước mong « kết hợp và liên kết
được tất cả những người Phật Giáo hiện diện trên
đất Pháp, đồng thời vẫn tôn trọng các nét đặc
thù và cá biệt thuộc các Tông Phái và Học Phái
của họ. Đấy cũng là cách giúp cho Tổng Hội đứng
ra giữ vai trò đại diện chung cho toàn thể những
người Phật Giáo trên đất Pháp hầu có thể đối
thoại với chính quyền và tiếp xúc với giới
truyền thông dễ dàng hơn. Cũng xin nhắc thêm là
đã từ rất nhiều năm nay Tổng Hội luôn đứng ra
bênh vực quyền lợi của những người Phật Giáo
trên đất Pháp ».
Sau hết Ông Olivier Reigen Wang-Genh cho biết chương trình
thảo luận sẽ xoay quanh hai chủ đề : « Gây chết
không đau » (euthanasia) và « Hiến tặng các cơ
quan của cơ thể khi qua đời » (don d’organes /
organ donation). Bốn nhóm riêng biệt sẽ được
thành lập để cùng thảo luận về các vấn đề này
vào buổi sáng. Buổi chiều cả bốn nhóm sẽ họp
chung để đúc kết các kết quả thảo luận vào buổi
sáng.
Sau đây là những lời tuyên cáo chung (communiqués /
statements) về hai chủ đề trên đây sau khi tổng
kết các kết quả thảo luận.
Tuyên cáo của Tổng Hội Phật Giáo Pháp
về vấn đề « hiến tặng cơ quan của cơ thể »
Tất cả các tông phái đều nhất loạt chủ trương nên hiến dâng
các cơ quan của cơ thể mình vì đấy là một cách
biểu lộ cao đẹp nhất của lòng rộng lượng và tình
nhân ái, và đấy cũng là động cơ thúc đẩy những
con người Phật Giáo.
Dù vẫn đang còn sống (thí dụ cho một quả thận hay một cơ
quan nào đó mà không tổn thương đến tính mạng)
hoặc sau khi đã chết theo tiêu chuẩn y khoa, thì
việc hiến dâng phải hoàn toàn mang tính cách
miễn phí và bất vụ lợi, không được mang bất cứ
một hình thức ép buộc hay một sự bù đắp nào cả,
và tất nhiên là càng không được biến thân xác
con người trở thành một món hàng để buôn bán.
Quyết định hiến dâng các cơ quan trên cơ thể khi còn đang sống
hoặc khi đã qua đời chỉ có thể phát xuất từ sự
tự nguyện cá nhân của người hiến dâng, và trong
bất cứ trường hợp nào việc hiến dâng đó không
thể xem như là một bổn phận (obligation / một
sự bắt buộc) mang tính cách đạo đức
(moral) liên quan đến một nguyên tắc mang
tính cách tôn giáo nào cả. Việc từ chối không
hiến dâng các cơ quan trên cơ thể của mình không
được tạo ra cho mình một cảm tính tội lỗi nào
cả. Quyết tâm hiến dâng cơ quan của cơ thể phải
hoàn toàn mang tính cách cá nhân, và thật hết
sức quan trọng là phải thông báo quyết tâm đó
một cách minh bạch với những người chung quanh
và gia đình, phải nói lên và giải thích lý do về
ý định đó của mình, đấy là cách giúp không gây
ra xúc động cho những người thân thuộc khi cái
chết xảy đến với mình. Tuy nhiên, nếu như những
xúc động ấy vẫn cứ xảy ra với người thân thuộc
và họ quyết định không tôn trọng quyết tâm của
người quá cố, thì có lẽ cũng nên xem quyết định
của thân nhân là quan trọng hơn cả. Trong trường
hợp người quá cố không cho biết dứt khoát quyết
tâm của mình trước khi chết thì lại càng nên tôn
trọng hơn nữa quyết định của thân nhân.
Đối với những người sẵn sàng sẽ hiến dâng cơ quan của cơ thể
mình sau này cũng phải được thông báo trước về
các điều kiện cần thiết khi lấy các cơ quan, tức
là phải lấy trong một thời gian thật ngắn sau
khi xảy ra cái chết. Dù sao thì các tông phái
Phật Giáo cũng không hoàn toàn thống nhất với
nhau về những gì xảy ra sau khi chết theo tiêu
chuẩn y khoa, do đó những người tu tập theo các
học phái khác nhau hoàn toàn có quyền quyết định
tùy theo sự tin tưởng và quan điểm của mình về
tình trạng sau-khi-chết (theo Phật Giáo
Theravada thì sau khi chết quá trình tái sinh sẽ
xảy ra trong chớp mắt, và không có một giai đoạn
chuyển tiếp hay trung gian nào cả. Trái lại đối
với Phật Giáo Tây Tạng thì quá trình của cái
chết xảy ra một cách tuần tự và chính trong quá
trình diễn tiến này người tu tập phải chủ động
để hội nhập với thể dạng ánh sáng trong suốt -
tức tánh không của cái chết - để tự giải thoát
khỏi chu kỳ luân hồi. Đối với Phật Giáo Tây Tạng
các tiêu chuẩn y khoa không đủ để xác định cái
chết thật sự, bởi vì quá trình của cái chết có
thể kéo dài lâu hay mau tùy theo cấp bậc tu tập
của người chết. Tuy nhiên Phật Giáo Tây Tạng nói
chung trong số này có cả Đức Đạt-lai Lạt-ma vẫn
khuyên người ra đi dù phải chịu những tác động
ảnh hưởng đến quá trình thiền định giúp mình hội
nhập với ánh sáng trong suốt của cái chết, thì
vẫn cứ hy sinh để hiến dâng cơ quan của cơ thể
mình, vì đấy là cách biểu lộ lòng từ bi vô biên
của mình một cách thiết thật nhất - ghi chú
thêm của người dịch)
Thực thi sự Bố Thí mang tính cách hoàn toàn bất vụ lợi dưới
bất cứ một hình thức nào nhất thiết là một
nguyên tắc chính yếu nhất trong việc tu tập Phật
Giáo, tất cả các tông phái Phật Giáo đều thống
nhất trong việc khuyến khích tất cả mọi hành
động giúp cứu sống hoặc làm giảm bớt sự đau đớn
của các chúng sinh đang lâm vào cảnh ngặt nghèo.
Tuyên cáo của Tổng Hội Phật Giáo Pháp
về vấn đề « gây chết không đau »
Toàn thể các tông phái Phật Giáo đều nhất loạt chống lại việc
cố tình gây ra cái chết của một con người. Dù
cho các quan điểm và các cách giải thích về quá
trình của cái chết và giai đoạn sau-khi-chết
giữa các tông phái Phật Giáo có thật khác biệt
nhau đi nữa, thế nhưng tất cả đều nhất loạt tán
đồng quan điểm là chúng là không được tước đoạt
sự sống của bất cứ một chúng sinh nào, nhất là
sự sống của một con người.
Trên phương diện pháp lý, đạo luật Léonetti (do quốc hội
biểu quyết ngày 22/04/2005 quy định về các cách
đối phó với tình trạng hấp hối) mang nhiều
khía cạnh thích nghi và thỏa đáng. Sự chăm sóc
giúp làm giảm đau cho người hấp hối, cũng như
việc chữa trị tích cực trong những giây phút
chót nêu lên trong đạo luật đều hoàn toàn phù
hợp với đạo đức Phật Giáo, thế nhưng vấn đề khó
khăn là phải làm thế nào để đạo luật này được
nhiều người biết đến và được mang ra áp dụng một
cách rộng rãi.
Tuy nhiên trên phương diện tâm linh, người Phật Giáo nhận thấy
còn phải thực hiện những cuộc nghiên cứu sâu
rộng hơn nữa, phải tìm hiểu những nguyên nhân
sâu xa và lâu đời của xã hội chúng ta (tức là
của dân tộc Pháp) : liên hệ đến các quan
điểm về sự sống và cái chết, về sự giảng dạy và
suy tư chịu ảnh hưởng nặng nề bởi tôn giáo và
nền triết học của chúng ta liên quan đến một sự
thực mà chúng ta không thể tránh né được, đó là
sự thực về giai đoạn cuối cùng của sự sống (già
nua, bệnh tật và cái chết), về quan điểm giáo
dục cho rằng sự sợ hãi và cái chết là một sự
« bất lực » (échec / failure / một sự thất
bại hay tuyệt vọng. Người Tây Phương nhìn cái
chết và sự sợ hãi dưới một nhãn quan yếm thế và
xem đấy như là một sự bất lực và tuyệt vọng mà
con người phải bó tay), và về các phép thiền
định cũng như tất cả những gì thật tích cực giúp
chúng ta chuẩn bị cho những giây phút cuối cùng.
Tóm lại để thực hiện đường hướng trên đây, thiết nghĩ một sự
phối hợp giữa tình nhân ái, các phương tiện y
khoa cũng như sự trợ lực trên phương diện tâm
linh (tức là tôn giáo) thật hết sức cần
thiết hầu có thể giúp đỡ người hấp hối. Ngoài
các phương tiện trị liệu giúp làm giảm đau cho
người sắp qua đời, còn phải mang lại cho họ một
sự trợ lực trên phương diện tâm linh nữa. Tất cả
mọi quyết định nếu có liên quan đến việc ngưng
hẳn thuốc men phải được cân nhắc và suy nghĩ « một
cách thật thông minh » giữa người sắp ra đi, nếu
người này còn đủ sáng suốt, và những người thân
thuộc chung quanh, cũng như những người giữ
trọng trách săn sóc thuốc men (các bác sĩ),
và cả những người trợ lực trên phương diện tâm
linh (các vị giáo sĩ tôn giáo nơi bệnh viện
chẳng hạn).
Dù sao đi nữa, tất cả các tông phái Phật Giáo đều chủ trương
phải tôn trọng ba điều khoản sau đây :
- Giới luật thứ nhất [trong số năm Giới Luật chính yếu nhất
của Phật Giáo] là việc cấm đoán không được
tước đoạt sự sống của bất cứ một chúng sinh nào.
- Giúp người sắp ra đi được trải qua một cách « thoải mái »
nhất quá trình chuyển tiếp tự nhiên giữa sự sống
và cái chết, bằng cách giúp đỡ họ trên phương
diện tâm linh trong giai đoạn « trước » cái
chết, « trong khi » xảy ra cái chết và « sau
khi » quá trình ấy chấm dứt.
- Thúc đẩy bởi lòng từ bi và tình nhân ái cũng như ý thức được
tầm quan trọng của giới luật thứ nhất trên đây,
chúng ta phải làm đủ mọi cách để làm giảm bớt sự
đau đớn quá sức chịu đựng trên thân xác và những
khổ đau trong tâm thần của người sắp ra đi cũng
như của những người thân thuộc chung quanh.
Phât Giáo Âu Châu
và các thể chế của cộng đồng Châu Âu
« Sau lần mở rộng cuối cùng vào năm 2004, Liên Minh Âu Châu
(Union Européenne / European Union / EU) gồm có
tất cả 27 quốc gia và trụ sở trung ương được đặt
tại Bruxelles (nước Bỉ). Liên Minh được
thành lập kể từ năm 1958 và được điều hành bởi
các hiệp ước (traités / accords) do các quốc gia
thành viên thiết lập dựa trên các thể thức dân
chủ. Các hiệp ước này quy định quyền hạn cũng
như các lãnh vực đặc quyền (prérogatives /
exclusive rights) dành cho EU liên quan đến nền
lập pháp của mỗi quốc gia. Các cơ quan hành
chánh (instances / agencies) được thiết lập để
điều hành các hoạt động của EU như : Hội Đồng Âu
Châu (Conseil Européen / European Council / EC)
quy tụ các nguyên thủ quốc gia, các chánh phủ
của các quốc gia thành viên, phối hợp với Ủy Ban
Âu Châu cũng như với Quốc Hội Âu Châu.
Hội Đồng Âu Châu đặt tại tỉnh Strasbourg (nước Pháp) từ
năm 1949 quy tụ 47 quốc gia, trải rộng khắp Âu
Châu, tuy nhiên chỉ duy nhất có nước Belarus
(Biélorussie) là không được gia nhập, dù rằng
nước này nằm vào vị trí trung tâm của Âu Châu,
lý do là Belarus vẫn còn duy trì án tử hình (câu
này cũng đã được in đậm trong nguyên bản. Các
nước Á Châu tự nhận là mang truyền thống Phật
Giáo lâu đời thế nhưng hầu hết các quốc gia trên
lục địa này – trong số đó kể cả Nhật Bản - đều
thực thi án tử hình một cách thẳng tay và tàn
bạo. Có phải đấy là một điều đáng buồn và đáng
xấu hổ cho những người Phật Giáo nói chung hay
chăng ? Ngưới ta nghĩ rằng dùng sự khiếp sợ và
những hình phạt dã man là một cách trừng phạt
đích đáng, một cách trả thù và ngăn chận sự hung
bạo, sai lầm và yếu đuối. Thế nhưng đấy chỉ là
một biện pháp vô ích nếu không muốn nói là một
cách phô bày sự hung bạo và man rợ của chính
mình. Chỉ có tình thương và sự tha thứ mới sửa
đổi được sự sai lầm và mang lại sức mạnh cho
những người yếu đuối mà thôi).
Sự kiện nước Belarus không được tham dự Hội Đồng Âu Châu mang
thật nhiều ý nghĩa khi hiểu được rằng trọng
trách của cơ quan này ngoài việc phải tạo ra một
bầu không gian dân chủ và pháp lý chung cho Âu
Châu, còn phải theo dõi sự tôn trọng các giá trị
căn bản của xã hội như : nhân quyền, thể chế dân
chủ cũng như vị thế đứng đầu của luật pháp, và
đấy cũng chính là cách bảo đảm cho mỗi con người
dù là nam hay nữ một chỗ đứng trong một xã hội
xây dựng trên sự khoan dung ».
Tòa Án Âu Châu về nhân quyền là một cơ quan trực thuộc Hội
Đồng Âu Châu đứng ra bảo vệ cho toàn thể các
công dân Âu Châu các quyền hạn đã được nêu lên
trong bản tuyên ngôn nhân quyền quốc tế.
Hội Đồng Âu Châu đã từng can thiệp vào thật nhiều lãnh vực mà
nhân quyền và thể chế dân chủ thường bị hăm dọa
và chà đạp. Chỉ cần đơn cử một vài thí dụ như :
cấm đoán việc buôn người, cách hành xử bạo ngược
đối với người phụ nữ, mại dâm trẻ con, bảo vệ
phẩm giá của người di dân, theo dõi tính cách
dân chủ trong các cuộc bầu cử chính trị, bảo đảm
vị thế của tôn giáo và của các trào lưu tư tưởng
trong xã hội, v.v...
Tổng Hội Phật Giáo Pháp (UBF) là thành viên của Tổng Hội Phật
Giáo Âu Châu (European Buddhist Union / UBE) và
mục đích của tổ chức này là liên kết tất cả
những người Phật Giáo trên toàn thể lục địa Âu
Châu. Tổng Hội Phật Giáo Âu Châu hoạt động từ
năm 2009 trong khuôn khổ của tổ chức OING
(Organisations Internationales Non
Gouvernementales / Các tổ chức quốc tế phi chính
phủ) thuộc Hội Đồng Âu Châu. Trọng trách của tổ
chức này là tạo ra sự phối hợp giữa các cơ quan
chính quyền và dân chúng. Như mọi người đều biết
Tổng Hội Phật Giáo Âu Châu (UBE) đã từng góp
phần tích cực trong việc soạn thảo các văn bản
mang tính cách chuyên môn, và đã nêu lên các đề
nghị thật cụ thể thuộc nhiều lãnh vực khác nhau,
và cũng đã từng trình bày các quan điểm của mình
trong các buổi hội thảo ở các cấp bậc cao cấp
của Hội Đồng Âu Châu.
Từ hơn một năm nay ở Bruxelles (thủ đô nước Bỉ, nơi đặt trụ
sở trung ương của Liên Minh Âu Châu) đã xảy
ra một biến cố mới đánh dấu sự hiện diện nổi bật
của của Phật Giáo, đó là Tổng Hội Phật Giáo Âu
Châu (UBE) đã bắt đầu ủy nhiệm những người Phật
Giáo tham gia vào các buổi sinh hoạt của Quốc
Hội Âu Châu (PE) và Ủy Ban Âu Châu (Commission
Européenne / CE).
Ở Strasbourg (trụ sở của Hội Đồng Âu Châu tại Pháp)
cũng như ở Bruxelles người ta đã bắt đầu nhận
thấy sự tham gia mang tính cách lâu dài của
những người Phật Giáo trong mọi lãnh vực nhằm
mục đích bảo vệ quyền lợi của những công dân Âu
Châu theo Phật Giáo cũng như nói lên các mối
quan tâm của họ về sự an vui của toàn thể chúng
sinh.
Quốc
Hội Âu Châu và bản đồ các nước Liên Minh Âu Châu
« Quyền kết hôn cho tất cả mọi người »
một vấn đề thời sự nóng bỏng của nước Pháp
H.1 H.2
H.1 ;
Các nhân vật đại diện cho các tín ngưỡng được
mời phát biểu tại Quốc Hội
H.2 : Bà chủ tịch Tổng Hội Phật
Giáo Pháp đang phát biểu tại Quốc Hội
Viện Nghiên Cứu Phật Học (Institut d’Etudes Bouddhiques / IEB)
của Pháp là một cơ quan nghiên cứu và giảng dạy
Đạo Pháp vừa gửi đến các thành viên một lá thư
mới nhất (08/02/13) thông báo về các chương
trình giảng dạy và nghiên cứu của Viện cũng như
các tin tức khác về Phật Giáo trong nước và quốc
tế. Trong thư có nêu lên một vấn đề thật nóng
bỏng của xã hội Pháp hiện nay là vấn đề « quyền
kết hôn cho tất cả mọi người ».
« Quyền kết hôn cho tất cả mọi người » tức là quyền « hôn nhân
giữa những người đồng tính luyến ái » phải được
luật pháp chính thức thừa nhận. Vấn đề này đã
gây ra nhiều tranh cãi sôi nổi và những cuộc
biểu tình lớn trên khắp nước. Hàng triệu người
của phe « chống » cũng như của phe « ủng hộ »
thay nhau xuống đường. Quốc hội Pháp đang thảo
luận và cũng đã biểu quyết được một số điều
khoản trong đạo luật này. Sở dĩ Viện Nghiên Cứu
Phật Học nêu lên vấn đề trên đây là vì gần đây
Quốc Hội Pháp đã mời sáu vị đại diện cho sáu tôn
giáo khác nhau là Thiên Chúa Giáo, Tin Lành Giáo,
Chính Thống Giáo, Do Thái Giáo, Hồi Giáo và Phật
Giáo trình bày quan điểm của mình trước các dân
biểu. Buổi tham vấn này của Quốc Hội được trực
tiếp truyền hình trên toàn quốc và được báo chí
theo dõi cặn kẽ. Bà Marie-Stella Boussemart,
chủ tịch Tổng Hội Phật Giáo Pháp đại diện cho
Phật Giáo để nói lên quan điểm của của tín
ngưỡng này về vấn đề vô cùng gay go trên đây của
xã hội Pháp và của các xã hội Tây Phương nói
chung.
Sau đây là tóm lược các quan điểm của mỗi tôn giáo qua nhưng
lời phát biểu trước Quốc Hội của những người đại
diện cho các tôn giáo ấy.
- Thiên Chúa Giáo :
Đức Hồng Y Tổng Giám Mục địa phận Paris là Ngài André Vingt-Trois, nhắc
lại là Nhà Thờ Thiên Chúa Giáo cực lực chống đối
(hostile) việc kết hôn giữa những người đồng
tính luyến ái. Theo vị này thì đấy là một cách
« tạo ra một sự biến đổi sâu rộng và triệt để
phương hại đến sự thăng bằng chung giữa các mối
tương giao trong xã hội, đó là mô hình của một
xã hội mới »
- Tin Lành Giáo :
Mục Sư Claude Baty, chủ tịch Hiệp Hội Tin Lành Pháp bác bỏ (refute) việc
đòi hỏi bình quyền trên phương diện kết hôn, ông
cho rằng : « quyền kết hôn cho tất cả mọi người
chỉ đơn thuần là một khẩu hiệu [...], kết hôn
không phải chỉ đơn giản là một sự thừa nhận tình
yêu, kết hôn phải là một cơ chế (institution)
kết nối giữa người đàn ông và đàn bà nói lên sự
tiếp nối giữa các thế hệ »
- Chính Thống Giáo :
Giám Mục (Métropolite / Metropolitan) Joseph de la Metropole tuyên bố
hẳn hoi là phải « rút bỏ ngay dự án luật tổ chức
cuộc tranh luận toàn quốc về chủ đề này »
- Do Thái Giáo :
Vị Giáo Sĩ (Grand Rabbin) Gilles Bernheim cho rằng « hôn nhân là một cơ
chế kết hợp giữa người đàn ông và đàn bà nhằm
bảo đảm sự tiếp nối giữa các thế hệ »
- Hồi Giáo :
Ông
Mohammed Moussaoui, chủ tịch Hội Đồng Tín Ngưỡng
Hồi Giáo Pháp xác nhận lại việc « lên án của ông
về các hành động kỳ thị con người », thế nhưng
ông cảnh cáo phải chống lại « sự biến đổi sâu
rộng phương hại đến một thể chế lâu đời đã giúp
cho nhân loại tồn vong và phải tổ chức [mọi
việc] theo các tiêu chuẩn rõ ràng »
- Phật Giáo :
Ni Sư Marie-Stella Boussemart, chủ tịch Tổng Hội Phật Giáo Pháp cho biết
rằng : « Đối với Phật Giáo vấn đề hôn nhân là
một hành vi mang tính cách dân sự, không có gì
là tôn giáo cả, cũng không mang một ý nghĩa mở
rộng (connotation) nào về tôn giáo cả, đấy chỉ
là một sự giao kết trong xã hội giữa hai con
người, và đôi khi cũng có thể là giữa hai gia
đình với nhau [...] và Đức Phật thì cũng không
hề nói đến vấn đề đồng tính luyến ái ». Đối với
bà thì « vấn đề này thuộc quyền quyết định của
người dân » và bà cũng nghĩ rằng « trưng cầu dân
ý có thể là một giải pháp tốt nhất ».
Hầu hết báo chí cũng như các giới truyền thông cũng như dư
luận và các chính trị gia đều tỏ ra thán phục
những lời tuyên bố của bà Marie-Stella
Boussemart, bởi vì đối với họ ít nhất cũng đã có
một tiếng nói khác hơn với năm vị kia. Vậy thiết
nghĩ cũng nên tìm hiểu thêm những lời phát biểu
trên đây của người đại diện cho Phật Giáo xem
sao ?
Chúng ta không nghĩ rằng bà Marie-Stella Boussemart đưa ra ý
kiến khác hơn với các vị khác để tạo ra môt sự
chú ý nào đó đối với cá nhân bà, mà đúng hơn bà
chỉ nêu lên cách nhìn « đúng như thế » của Phật
Giáo đối với một hiện tượng. Nếu chú ý khi nhìn
vào bức hình H.1 trên đây chụp các vị đại diện
tôn giáo được mời phát biểu ở Quốc Hội, thì
chúng ta cũng đã thấy ngay một sự khác biệt thật
nổi bật và « cụ thể » : bà Marie-Stella
Boussemart là một ni sư, một người phụ nữ duy
nhất đại diện cho một tôn giáo lớn. Thật vậy đối
với các tôn giáo khác « rất có thể là khó hơn
nhiều » khi phải tìm một người phụ nữ đại diện
cho tín ngưỡng của mình.
Tuy nhiên sự khác biệt sâu xa hơn thuộc vào lãnh vực giáo lý.
Đối với Phật Giáo mọi hiện tượng chỉ là một sự
cấu hợp do nhiều nguyên nhân và điều kiện tạo ra
nó. Phật giáo chỉ « nhìn một hiện tượng như một
hiện tượng » và không diễn đạt nó hay gán thêm
cho nó một ý nghĩa để đánh giá nó xem có phù hợp
với giáo lý của tôn giáo mình hay không. Bà
Marie-Stella Boussemart tuyên bố rằng « hôn nhân
giữa những người đồng tính luyến ái là một sự
kiện xã hội, không hàm chứa một ý nghĩa mở rộng
(connotation) mang tính cách tôn giáo nào cả »,
cách nhìn đó quả đúng là cách nhìn của một người
tu tập Phật Giáo. Kết luận của bà Marie-Stella
Boussemart cũng rất hữu lý : nếu đã là một sự
kiện xã hội thì nên để cho xã hội giải quyết,
tôn giáo không nên xen vào đấy. Tiếc thay các
vấn đề hệ trọng hơn như bạo lực, vị thế và sự
bình đẳng của người phụ nữ trong cộng đồng xã
hội và nhân loại... thì bất đồng chính kiến với
nhau, thế nhưng đối với một sự kiện xã hội thứ
yếu và đã xảy ra từ muôn đời trong lịch sử nhân
loại thì lại « nhất trí » chống lại, có phải là
khôi hài lắm không ?
Con người thật đa dạng, từ thân xác, tính tình đến sự suy
nghĩ, do đó chuyện gì - dù « éo le » hay « bất
bình thường » cách mấy đi nữa – cũng đều có thể
xảy ra được. Chỉ cần nhìn những người tật nguyền
bẩm sinh hay những kẻ điên loạn trong các dưỡng
trí viện thì sẽ hiểu ngay. Hai con người « yêu
nhau » không nhất thiết « cứ phải là như thế »
mới đúng. Họ « yêu nhau » theo « kiểu nào »,
« bằng cách nào » và « sử dụng các cơ quan nào »
để nói lên « tình yêu » của mình ấy là chuyện
của họ, người Phật Giáo chỉ đơn giản xem đấy là
« cái nghiệp » của họ mà thôi.
Nếu mở rộng tầm nhìn chúng ta sẽ thấy rằng không gian và thời
gian luôn liên kết với nhau để tạo ra một « căn
bản » hay « cơ sở » cần thiết để mọi hình sắc có
thể hiển hiện ra được, kể cả lịch sử tiến hóa
của con người và cả vụ nổ lớn (Big Bang) của vũ
trụ. Nếu mở rộng tầm nhìn bao quát hơn nữa thì
chúng ta cũng sẽ thấy rằng « tánh không » - một
khái niệm siêu việt của Phật Giáo - là một thứ
« căn bản » hay « cơ sở » cần thiết cho tất cả
mọi hiện tượng có thể hiện ra và chuyển động.
Chữ « hiện tượng » ở đây mang ý nghĩa bao quát
hơn so với chữ « hình sắc » hay « hình tướng »
đối với không gian và thời gian, bởi vì chữ « hiện
tượng » – tiếng Phạn là dharma – đối với
Phật Giáo còn hàm chứa cả những biểu hiện phi-vật-chất,
những xúc cảm và tư duy của con người. Mọi hiện
tượng sở dĩ có thể phát sinh là nhờ vào tánh
không và do đó tánh không chính là bản chất căn
bản và sâu kín nhất của mọi hiện tượng. Đấy cũng
chính là ý nghĩa của câu « Hình tướng là trống
không, trống không là hình tướng » trong Tâm
Kinh.
Nếu không có không gian và thời gian thì mọi biến động mang
bản chất hình sắc sẽ không thể nào hiển hiện ra
được. Cũng thế nếu không nhờ vào tánh không thì
mọi hiện tượng kể cả các hiện tượng tâm thần
phi-vật-chất cũng sẽ không thể nào có thể xảy ra
được. Do đó theo quan điểm của Phật Giáo bản
chất tối hậu và sâu kín nhất của mọi hiện tượng
chính là sự trống không. Nguời tu tập Phật Giáo
không quan tâm đến những biểu hiện biến động bên
ngoài của chúng, đối với họ đấy chỉ là những thứ
ảo giác vô nghĩa.
Bà Marie-Stella Boussémart nói rằng Đức Phật không hề nói đến
đồng tính luyến ái. Thật vậy Đức Phật không nhìn
vào những biểu hiện luôn biến động của hiện thực
mà chỉ tìm cách giúp chúng ta nhìn thấy bản chất
tối hậu của mọi hiện tượng mà thôi.
Đồng tính
luyến ái cũng chỉ là một hiện tượng tương tự như
vô số các hiện tượng khác đang chuyển động trong
vũ trụ. Hàng triệu người của hai phe chống đối
và ủng hộ bám víu vào một hiện tượng cấu hợp và
vô thường để mà kéo nhau biểu tình trên toàn
nước Pháp cũng chỉ là những biểu hiện của vô
minh và khổ đau mà thôi.
(Tin mới nhất : ngày thứ ba 12/02/2013, quốc hội Pháp đã biểu quyết chấp
thuận đạo luật thừa nhận « hôn nhân đồng tính
luyến ái » với 329 phiếu thuận, 229 phiếu chống
và 10 phiếu trắng).
Bures-Sur-Yvette, 14.02.2013
Hoang Phong
|