Tại sao
Phật Giáo lại trở thành một tôn giáo Á Châu
Tại sao ngày nay lại đặt chân vào
thế giới Tây Phương?
Nguyên tác Fabrice
Midal
Hoàng Phong
chuyển ngữ
Tại sao và bằng cách nào Phật Giáo đã phát triển
ra ngoài lãnh thổ Ấn độ?
Phật Giáo được hình thành tại Ấn Độ
trong khung cảnh của một nền văn hóa Ấn-Âu,
nghĩa là có liên hệ ít nhiều đến thế giới Tây
Phương. Tóm lại là đã không có một dấu hiệu nào
báo trước là Phật Giáo sẽ bành trướng riêng tại
Á Châu. Thật thế Á Châu là cả một thế giới hết
sức xa lạ đối với Phật Giáo trên rất nhiều khía
cạnh. Ấn Độ và các quốc gia khác ở Á Châu hoàn
toàn khác biệt nhau từ ngôn ngữ cho đến các cơ
cấu xã hội cũng như các loại biểu tượng và huyền
thoại.
Thật vậy Phật Giáo đã bành trướng trước
nhất về phương Tây và đã phát triển sâu rộng ở
A-phú-hãn và Ba Tư (ngày
nay là I-ran) và đã từng đặt chân đến
xứ Tadjikistan (trong
vùng cận đông, thuộc Liên Bang Xô Viết trước đây).
Toàn thể vùng này lúc bấy giờ được đặt dưới sự
cai trị của A Lịch Sơn Đại Đế (Alexander the
Great) và do đó không tránh khỏi ít nhiều đã bị
"Hy Lạp hóa". Tuy số tài liệu còn lưu giữ được
đến nay khá ít ỏi thế nhưng cũng đủ để cho thấy
là Phật Giáo đã từng tiếp xúc với nền văn hóa Hy
Lạp. Các pho tượng Phật tìm thấy trong vùng
Gandhara (một đế
quốc nằm giữa biên giới tây bắc A-phú-hãn và
đông Pakistan ngày nay) rất có thể là
các pho tượng đầu tiên được tạc để biểu trưng
cho hình tướng Đức Phật. Các pho tượng này đều
mang các đường nét tiêu biểu của vị thần Apollo
của Hy Lạp, và đấy là một trong những bằng chứng
rõ rệt nhất.
Phật Giáo cũng ảnh hưởng đến cả xứ Ba Tư
lúc đó là một xứ đang sùng đạo Mazdeism và sau
đó là đạo Zoroastrism
(trước Công nguyên xứ
Ba Tư theo đạo Mazdeism, một tôn giáo độc thần
thờ vị Trời tên là Ahura Mazda sáng tạo ra trời
và đất. Đến thế kỷ thứ I thì có một nhà tiên tri
tên là Zorathoustra đã cải tổ đạo này, và cũng
kể từ đấy người ta gọi đạo này là đạo
Zoroastrism). Phật Giáo cũng đã ảnh
hưởng thật sâu đậm đến cả lịch sử của xứ này
(các bảo tàng viện quốc
gia của I-ran, I-rắc và A-phú-hãn cũng như của
Pakistan vẫn còn lưu giữ được rất nhiều di tích
Phật Giáo gồm các tác phẩm điêu khắc vô cùng
tinh xảo, thế nhưng rất tiếc là các biến động
gần đây đã làm hư hại và mất mát khá nhiều).
Sự truyền bá của Phật Giáo vào thế giới
Tây Phương đã bị các đạo quân xâm lược Hồi Giáo
chận đứng một cách đột ngột vào thế kỷ XII. Các
đạo quân này đã tàn phá chùa chiền và triệt hạ
Phật Giáo Ấn Độ trong toàn vùng lãnh thổ này.
Các đạo quân Hồi Giáo đã dựng lên cả một bức
tường kiên cố chia cắt hai thế giới: Đông Phương
và Tây Phương, và do đó cũng đã chận đứng sự
phát triển của Phật Giáo về phương Tây kể từ
thời bấy giờ (từ thế
kỷ XII) cho đến thế kỷ XX. Mãi đến
thế kỷ này thì Phật Giáo mới thật sự bắt đầu trở
lại với thế giới Tây Phương
(bằng các con đường
khác hơn với thế kỷ XII: trước hết là từ phong
trào thực dân mà người Tây Phương đã khám phá ra
Phật Giáo vào thế kỷ XIX, và gần đây hơn thì nhờ
vào các nhà sư Tây Tạng lánh nạn sang Tây Phương
sau khi xứ sở của họ bị Trung Quốc xâm chiếm vào
năm 1950).
(Ở phương đông thì) Phật Giáo lan dần vào các nước Á Châu. Một
nhánh phát triển lên phía Bắc theo con đường tơ
lụa xuyên ngang các vùng lãnh thổ thuộc A-phú-hãn
và sau cùng đã đến Trung Quốc, và tiếp theo đó
thì truyền sang Hàn Quốc và Nhật Bản.
Nhiều nhánh khác mượn con đường phía Nam
để đến Tích lan vào thứ III trước kỷ nguyên và
dần dần bành trướng sang các nước xa hơn thuộc
bán đảo Đông Dương.
Phật Giáo đặt chân vào Trung Quốc là một trong
những biến cố ngoạn mục hơn cả. Quả thật không
có một dấu hiệu nào có thể giúp tiên đoán trước
được sự kiện đó. Hầu hết các quan niệm cổ điển
của Trung Quốc đều trái ngược hẳn lại với tinh
thần giáo lý của Phật Giáo.
Chọn cho mình một cuộc sống
xa lìa thế
tục, quyết tâm không sanh con đẻ cái để nối dõi
tông đường, cắt đứt mọi sự ràng buộc với gia
đình và làng mạc, không quan tâm đến xã hội mà
chỉ biết chuyên cần tu tập cho bản thân mình và
đấy là lý tưởng của một nhà sư Phật Giáo
(lý tưởng xuất gia của
Phật Giáo vào thời kỳ nguyên thủy) -
thế nhưng đấy lại là tất cả những gì thật nghịch
lý và không thể hiểu nổi đối với tư tưởng Trung
Quốc. Trong khi đó thì tư tưởng Phật Giáo lại
cho thấy rất gần với các cách suy nghĩ trừu
tượng và phức tạp dựa trên các nguyên lý lôgic
tiêu biểu của văn hóa Ấn-Âu - và đấy thì cũng
lại là những gì trái ngược lại với tư tưởng
Trung Quốc là chỉ quan tâm đến kinh sách
(tứ thư ngũ kinh của
Nho Giáo) nêu lên các chuẩn mực đạo
đức phải noi theo. Người Trung Quốc sử dụng một
loại ngôn ngữ tượng hình
(Hán tự)
mang tính cách ẩn dụ
(métaphorique /
metaphorical) và gợi ý
(allusif / allusive)
để nêu lên chiều sâu và ý nghĩa của các sự vật
mà không mấy quan tâm đến cách lý luận dựa vào
sự chính xác (tác
giả nêu lên một cách thật ngắn gọn nhưng rất
chính xác sự tương phản trên phương diện tư
tưởng giữa hai nền văn hóa khác nhau tức Ấn-Âu
và Trung Quốc).
Trước các khó khăn đó Phật Giáo
vẫn thành công khi đặt chân vào lãnh thổ Trung
Quốc để hòa đồng với Lão Giáo và Khổng Giáo.
Phật Giáo vừa thích ứng được với các cơ cấu xã
hội sẵn có của Trung Quốc lại cũng lại vừa giúp
người Trung Quốc xét lại các nguyên lý tư duy
của chính họ (nên
hiểu rằng Phật Giáo đã giải thoát phần nào nền
luân lý "gò bó" và "chật hẹp" của Khổng Giáo và
đồng thời cũng đã giúp cho Lão Giáo thu nạp thêm
một số khía cạnh sâu sắc hơn trên phương diện
triết học. Nhờ đó nền văn minh Trung Quốc đã trở
nên vô cùng phong phú. Thật thế đạo đức cứng
nhắc của Khổng Giáo và các tư tưởng "vô vi" ("không
làm gì cả") của Lão giáo không đủ sức để đưa nền
văn minh Trung Quốc đến tột đỉnh vào thời nhà
Đường cũng như các thời đại về sau, như người ta
thường hiểu sai. Quả thật chủ trương then chốt
của Lão Tử là "Vi vô vi nhi vô bất vi" - đại
khái có nghĩa là "làm [hay] không làm thì [tốt
hơn] không [nên] làm" - quả hết sức trái ngược
lại với lòng quyết tâm tu tập của Phật giáo. Nền
đạo đức của Khổng Tử nhằm tạo ra một trật tự xã
hội với hậu ý củng cố vương quyền cũng thật trái
ngược với chủ trương từ bi và giải thoát tất cả
chúng sanh của Phật Giáo).
Tại sao và bằng cách nào
ngày nay Phật Giáo lại đặt chân vào thế giới Tây
Phương ?
Quả thật đấy cũng lại là một sự
kiện khác không kém ngoạn mục so với biến cố
trước đây khi Phật Giáo được truyền vào Trung
Quốc - mặc dù tư tưởng Tây Phương đã mang sẵn
một vài đường nét khá gần với văn hóa Ấn Độ
(cách suy nghĩ trừu
tượng và lôgic) như tôi đã nêu lên
trên đây (thật ra
thì sự bành trướng nhanh chóng và ngoạn mục của
Phật Giáo tại Tây Phương còn do một số nguyên
nhân thuận lợi khác nữa: trước hết là sự sụp đổ
của các truyền thống tín ngưỡng lâu đời của họ
và sau đó là sự tàn phá nặng nề của chủ nghĩa tư
lợi và tính toán của một nền văn minh vật chất).
Tính cách ngoạn mục đó không
phải chỉ vì Phật Giáo là một tín ngưỡng Đông
Phương mà lại có thể thâm nhập được vào thế giới
Tây Phương, mà đúng hơn vì Phật Giáo là một tín
ngưỡng nghìn năm đang tạo ra một chỗ đứng trong
một thế giới đã tự tàn phá các tín ngưỡng lâu
đời của mình để nêu cao chủ trương "tân tiến hóa".
Nhiều nhà quan sát cũng như nhiều nhà bình luận
(tức các triết gia,
học giả, sử gia, nhà báo, các nhà xã hội học,
v.v...) và cả nhiều người Phật Giáo
(Tây Phương)
khác nữa cũng chỉ nhìn vào sự gặp gỡ đó
(giữa Phật Giáo và thế
giới Tây Phương) như là một sự kiện
tự nhiên. Thế nhưng thật ra thì đấy là một biến
cố thật hết sức bất ngờ và đáng kinh ngạc
(con số sách báo về Phật Giáo xuất bản và phát hành mỗi tháng tại Tây
Phương nhiều đến độ một người dù có khả năng đọc
nhanh cũng khó có thể đọc hết được).
Sự gặp gỡ đó sở dĩ đã xảy ra ấy
là nhờ vào một sự kiện mà rất ít người chú ý đến:
đó là sự thắc mắc mang tính cách thật căn bản
của nhiều người Tây Phương về chính dòng lịch sử
của họ và nhất là về số phận đang chờ đợi tất cả
nhân loại ngày nay
(khi nhìn trở lại Á Châu, với dân tộc đông đảo
nhất là Trung Quốc và các dân tộc khác nữa, thì
thử hỏi chúng ta có nhận thấy được là các dân
tộc ấy có thắc mắc gì về dòng lịch sử và số phận
của dân tộc họ trong tương lai hay không?
Đấy là chưa nói đến
bổn phận và trách nhiệm của họ đối với vận mệnh
của con người nói chung). Phật Giáo
không đến với thế giới Tây Phương như một trào
lưu (hời hợt)
của các trào lưu tín ngưỡng khác - mà đấy là cả
một giải pháp nhằm giải quyết sự khủng hoảng cho
cả thời đại chúng ta.
Sở dĩ Phật Giáo đã bắt rễ được
vào mảnh đất Tây Phương là vì Phật Giáo trước
hết đã mang đến cho thế giới này một con đường
tâm linh có thể hiểu được
(tức là hợp lý và thiết
thực, có thể chấp nhận được) đúng vào
cái thời đại mà "Trời đã chết". Nietzsche
(một triết gia người
Đức, 1844-1900) đã loan báo cho chúng
ta biết về cái chết của Trời, thế nhưng cái tin
buồn ấy không chỉ có nghĩa là Trời không còn nữa
mà đúng hơn là Trời không còn đủ sức để làm nền
móng cho tất cả mọi sự thật. Trước đây Trời đã
từng đứng ra bảo đảm cho bất cứ một sự thực nào.
Một cội cây, một định lý
(về toán học chẳng hạn),
sự hiện hữu của kẻ khác
(đương nhiên chính mình
thì đã là một tác phẩm của Trời, thế nhưng các
người khác dù cho họ có là thế nào đi nữa thì họ
cũng vẫn là một sự sáng tạo của Trời)
- tất cả đều được bảo đảm bởi sự hiện diện của
Trời. Trời cũng là nền móng của mọi trật tự xã
hội - làm vua thì lẽ tất nhiên là có sẵn cái
quyền thiêng liêng đó
(do Trời ban)
-, và Trời thì cũng là nền móng của luân lý - vì
đấy là cách biểu lộ ý chí của Trời. Ngày nay thế
giới Tây Phương xem tầm nhìn ấy chẳng khác gì
như là một thứ ảo giác. Chỉ trích chủ thuyết hữu
thần (theism)
cũng là một khía cạnh chính yếu trong giáo lý
Phật Giáo (Phật Giáo được hình thành trong một khung cảnh tín ngưỡng hữu thần của
nhiều tôn giáo khác tại Ấn Độ, trong số này và
quan trọng hơn hết là đạo Bà-la-môn. Phật Giáo
không những bác bỏ khái niệm về một vị Trời sáng
tạo mà còn bác bỏ cả các khái niệm triết học
cũng như các phép tu tập sẵn có của các trào lưu
tín ngưỡng thời bấy giờ và nhất là chống lại cả
chủ trương phân chia giai cấp xã hội của đạo Bà-la-môn).
Thật ra thì Phật Giáo chỉ trích chủ
thuyết hữu thần bằng một cách khác hơn
(so với triết gia
Nietzsche),
Phật Giáo cho rằng ý nghĩ về một vị
Trời đứng ra làm cơ sở cho hiện thực là một sự
lầm lẫn vì đấy chỉ là một cách vật thể hóa hiện
thực (to reify /
biến một thứ gì đó mang tính cách trừu tượng trở
thành một vật thể. Nói cách khác là tìm hiểu hay
nắm bắt một khái niệm xuyên qua hình tướng của
một vật thể: thí dụ biến "sự sáng tạo" trở thành
một vị Trời mang hình tướng cụ thể của một con
người. "Khái niệm" ấy, hay "hành động" ấy, hay "sự
kiện" ấy tự nó đã là một sự sai lầm. Bởi vì Phật
Giáo xem cách "cụ thể hóa" hay "vật thể hóa" một
khía cạnh nào đó của hiện thực chỉ là cách tạo
ra thêm ảo giác). Tóm lại là hai quan
điểm trên đây (Phật
Giáo và Nietzsche)
mang một vài đường nét tương đồng nào đó.
Phật Giáo cho thấy cái chết của Trời
(theo lời tuyên bố của
Nietzsche)
là một tin mừng
(nên hiểu như là một sự giải thoát cho con
người).
Phật giáo rất chú trọng đến
Thiền định vì phép luyện tập này sẽ có thể giúp
chúng ta phát hiện ra một thể dạng của sự thực
tâm linh nào đó mà trước đây không hề hiển hiện
ra với chúng ta (sự
tỉnh thức hay giác ngộ).
Cái thể dạng tâm linh ấy không
hẳn là một sự tin tưởng nơi Thượng Đế, giới hạn
trong lãnh vực của một tôn giáo, mà đúng hơn
chính là sự quan tâm tìm cách vượt thoát khỏi
mọi sự lầm lẫn và khổ đau, và để ý thức được
rằng mình không còn là trung tâm của tất cả mọi
sự thật nữa (tức có
nghĩa là loại bỏ được cái ngã của mình),
hầu giúp mình hòa nhập với sự nóng bỏng của tình
thương yêu.
Dù đấy là những người không hề
tin vào bất cứ một thứ tôn giáo nào đi nữa thì
họ vẫn có đủ khả năng để khám phá ra được một sự
thực nào đó qua tiếng réo gọi thật thiết tha
vang vọng từ nơi sâu thẳm trong con tim của họ.
Họ đều có thể bước theo tiếng réo gọi đó. Ước
vọng mang anh hùng tính nhằm kiến tạo một thế
giới công bằng hơn thì nào có phải là một giấc
mơ của trẻ con đâu (trẻ
con thường mơ ước mình là một người "anh hùng"
thực hiện được những việc phi thường, thế nhưng
lòng ước vọng góp phần kiến tạo một thế giới
công bằng và nhân bản hơn không phải là một ước
mơ viễn vông của một đứa bé). Tất cả
chúng ta đều mang một trọng trách nào đó trên
địa cầu này vì thế trong từng khoảnh khắc chúng
ta cũng nên cố gắng thực hiện được một cái gì đó,
hoặc ít ra thì cũng không nên khóc rống lên để
vòi vĩnh như một đứa trẻ con, và nhất là cũng
đừng tạo ra thêm các niềm oán hận và những nỗi
khổ đau cho người khác.
Các vị
Thiền sư Zen bắt đầu đặt chân đến thế giới Tây
Phương từ thập niên 1950, và tiếp theo đó vào
thập niên 1960 thì đến lượt các vị Thầy thuộc
Phật Giáo Tây Tạng. Họ tạo ra cả một luồng chấn
động thật mạnh, đến độ người ta có thể xem việc
du nhập của Phật Giáo vào thế giới Tây Phương
ít ra cũng quan trọng tương đương như khi Âu
Châu khám phá ra thế giới Hy Lạp vào thời Phục
Hưng (tức là vào các
thế kỷ XV-XVI, thời kỳ mà người Âu Châu bắt đầu
biết đóng tàu lớn để khám phá thế giới và cũng
là thời kỳ xảy ra nhiều biến cải quan trọng
trong các lãnh vực tôn giáo và văn hóa).
Đấy cũng là một cơ hội giúp chúng ta nhìn lại
mọi sự vật dưới một khía cạnh mới mẻ hơn
(tư tưởng Phật Giáo có
thể giúp cho người Tây Phương nhìn vào sự sống
và thế giới này cũng như quá khứ của họ qua một
tầm nhìn khác hơn).
Theo ý nghĩa đó, tôi tin rằng
khi quyết tâm bước theo Phật Giáo thì nhất định
đấy không phải là một cách biểu lộ sự hận thù
của mình đối với thế giới Tây Phương - dù rằng
tình trạng này cũng rất thường thấy xảy ra. Và
ngược lại thì cũng không nên sáp nhập Phật Giáo
vào thế giới Phương Tây một cách đơn giản nhằm
để biến nó thành một thứ gia tài riêng của chúng
ta.
Phật Giáo giúp chúng ta quay về
với cội nguồn của chính mình và giúp chúng ta
nhận ra được các mầm móng đưa đến sự diệt vong.
Và đấy cũng chính là cách mà Phật Giáo giúp
chúng ta trở thành những con người Tây Phương
đích thật.
Tại sao Chögyam Trungpa
đã giữ một vai trò thật quan trọng trong việc
quảng bá Phật Giáo trong thế giới Tây Phương?
Chögyam Trungpa (1940-1987) là
một vị tiên phong thuộc tầm cỡ lớn đã đưa Phật
Giáo vào thế giới Tây Phương.
Cuộc đời của ông là cả một pho
tiểu thuyết. Ông tu học đúng theo nghi thức cổ
truyền trên đất nước Tây Tạng của ông, thế nhưng
rồi phải bỏ xứ để trốn sang Ấn Độ khi quê hương
của ông bị người Trung Quốc xâm chiến. Ở Ấn Độ
ông học tiếng Anh, và vào năm 1963 thì nhờ đạt
được học bổng của trường Oxford nên ông đã rời
Ấn Độ để sang Anh Quốc. Tại đại học Oxford ông
nghiên cứu về tất cả các tôn giáo dựa vào Kinh
Thánh, cả triết học và mỹ thuật, nhất là Nghệ
Thuật Hiện Đại (modern Art). Ông là người Tây
Tạng đầu tiên được hấp thụ cả hai nền văn hóa
khác nhau (văn hóa
Tây Tạng và Anh Quốc), và ông cũng đã
chấp nhận sự hòa đồng ấy bằng một việc đầy ý
nghĩa, ấy là chấp nhận để trở thành một người
dân Anh Quốc (nhập
quốc tịch Anh). Sau đó thì ông thuyết
giảng và quảng bá Phật Giáo trong nhiều năm liền,
thế nhưng ông cũng đã gặp phải quá nhiều khó
khăn.
Người ta chỉ thích được tu học
với các vị Thầy đến từ xứ Tây Tạng xa xôi mà
thôi (Chögyam Tungpa
thì đã trở thành một người Anh như họ),
và đôi khi còn xem đấy là một dịp để tôn sùng họ
- thế nhưng thật ra thì đấy chỉ là cách để tự
tách ra xa người Thầy. Chögyam Trungpa cảm thấy
mình đã thất bại. Thế nhưng phải làm thế nào đây
để vượt qua các khó khăn hầu có thể quảng bá tín
ngưỡng mà mình đã được thừa hưởng trực tiếp từ
quê hương Tây Tạng của mình.
Trong lúc chưa biết phải xử trí
như thế nào thì Chögyam Trungpa lại gặp tai nạn
giao thông và bị thương nặng, cánh tay trái và
cả chân trái của ông bị bại liệt. Thế nhưng biến
cố đó lại bất ngờ chuyển thành một dịp thuận lợi
giúp ông tìm thấy cho mình một con đường: ông
nhất quyết sẽ đẩy xa hơn nữa những gì ông đã
từng làm trước đó.
Ông không
tuân thủ các lời nguyện của một vị Tỳ kheo nữa
mà cởi bỏ manh áo cà-sa của người tu hành và
khước từ cả cương vị của một nhà sư. Ông cưới
một phụ nữ trẻ người Anh, và sau đó thì cả hai
sang định cư ở Mỹ. Ông quyết định chọn một
cuộc sống thật bình dị như tất cả mọi người khác
chung quanh hầu giúp mình có thể hành động một
cách phóng khoáng hơn. Mặc dù ông hoàn toàn ý
thức được rằng tín ngưỡng của xứ Tây Tạng thật
hết sức tuyệt vời thế nhưng các cách điều hành
chính trị và xã hội của xứ sở ông
(nói chung là các tập
quán xã hội) thì không thể nào đem
xuất cảng sang Tây Phương được, đấy chỉ là những
gì có thể gây thêm chướng ngại cho việc hoằng
Pháp mà thôi (có
nghĩa là Chögyam Trungpa chọn một phương pháp
hoằng Pháp khác hơn mọi người).
Ông quay sang
sử dụng
con tim của mình để hàn huyên với con tim của
người khác và đấy cũng là chính phương pháp mới
mà ông đã nghĩ ra để quảng bá Phật Giáo. Ông
cũng đã sử dụng phương pháp này để viết và các
quyển sách của ông đã trở thành những quyển sách
không thể thiếu sót cho những ai muốn tìm hiểu
Phật Giáo.
Đồng thời thì ông cũng phát
hiện ra một thứ nọc độc ngăn chận không cho
người tu tập quán thấy được con đường đích thật:
ấy là "chủ nghĩa duy vật tâm linh"
(hoặc có thể viết là "tâm
linh duy vật chủ nghĩa" / spiritual materialism).
Sự khám phá này của ông thật vô cùng quan trọng.
Mỗi khi người ta quán nhận được
một giá trị tâm linh dưới một khía cạnh nào đó
dù theo bất cứ một chiều hướng nào, với mục đích
là để mong cầu đạt được một sự hiểu biết sâu
rộng hơn (có thể hiểu là sự giác ngộ) hay một sự thực hiện nào đó
(đạt được sự giải thoát hay một thể dạng tâm
linh nào đó chẳng hạn...) thì Chögyam
Trungpa đều nhận thấy theo chiều hướng ấy và
dưới khía cạnh ấy luôn tàng ẩn một mối nguy cơ
mang lại một sự lừa phỉnh thật nguy hiểm. Nếu
chúng ta hướng vào một thứ gì đó mà chúng ta
mong cầu sẽ đạt được nó - thay vì sẵn sàng để xả
bỏ nó - thì đấy sẽ chỉ là một cách khiến làm gia
tăng thêm sự khốn quẩn cho chúng ta. Thay vì gom
góp tiền bạc để tậu một chiếc xe thật sang trọng
thì tốt hơn nên tìm đến với Phật Giáo
(câu này là để giải thích một cách đơn giản và cụ thể phần trình bày khá
trừu tượng và bao quát trong phần trên - đọc đến
câu "tóm lược" này chúng ta cảm thấy nhẹ nhõm vì
các câu trình bày trước đó rất súc tích và khá
khó để nắm bắt. Nếu chúng ta hướng vào sự mong
cầu đạt được một chủ đích nào đó, dù đấy là cõi
cực lạc, thiên đường, một sự hiểu biết siêu
nhiên..., thì phía sau những thứ ấy đều tàng ẩn
một cách kín đáo một sự phỉnh gạt nào đó
- imposture / lừa
phỉnh, mạo nhận, dối gạt, giả mạo) và
Chögyam Trungpa gọi đấy là một thứ "chủ nghĩa
duy vật tâm linh". Thế nhưng tiếc thay lúc nào
động cơ thúc đẩy chúng ta thì cũng chỉ có vậy:
tìm sự thoải mái (cõi
cực lạc, thiên đường hay chiếc xe hơi thật sang)
và trốn tránh hiện thực
(không hội nhập được
với sự chuyển động của thực tại tức không đến
gần được với Phật Giáo). Thật thế
chúng ta chưa sẵn sàng để mở rộng con người của
chính mình.
Chögyam Trungpa luôn hăng say
thuyết giảng và giải thích về chủ thuyết tâm
linh duy vật của ông
(tức tu tập hướng vào
một chủ đích nhằm đạt được một thứ gì đó - duy
vật) và các thứ cạm bẫy của nó - đấy
cũng là những gì đã giúp cho Chögyam Trungpa trở
thành một cây bút thật đáng nể: tương tự như ông
đang cầm trong tay một con dao giải phẫu để cắt
sâu vào cái khối ung bướu làm độc từ sự lầm lẫn
của chúng ta (xin
lưu ý là Fabrice Midal luôn tránh các thuật ngữ
đặc thù đôi khi khó thấu triệt của Phật Giáo:
chữ lầm lẫn ở đây có thể hiểu là vô minh, và
phần trình bày trên đây cho thấy rõ ràng quan
điểm của Chögyam Trungpa: tu tập theo phương
pháp duy vật tâm linh là một sự sai lầm).
Thời đại của chúng ta được đánh
dấu bởi khuynh hướng xét lại giá trị của những
bộ mặt đại diện cho uy quyền, đấy là những bộ
mặt chỉ biết hướng vào chủ đích bào chữa tối đa
cho mọi sự hung bạo độc đoán. Chögyam Trungpa
luôn bày tỏ sự tán đồng của mình đối với chủ
trương vạch mặt đó.
Theo ông
thì không có một thứ uy quyền nào, một giới luật
đạo đức nào, một học thuyết nào hay một triết lý
nào có thể gọi là chánh đáng để có thể tạo ra
một tấm màn ngăn cách giữa chúng ta và thế giới
được (tất cả mọi
tiêu đề đều là giả tạo và lừa phỉnh và không thể
nào ngăn chận hay giới hạn được sự tự do của con
người, và thật ra thì con người cũng chỉ có thể
tìm thấy được sự tự do tuyệt đối bằng con đường
Thiền định để giúp mình hòa nhập với thế giới và
thực tại - tóm lại là chỉ có Phật Giáo mới có
thể mang lại cho chúng ta một sự tự do đích thật,
một sự tự do mang ý nghĩa của sự giải thoát).
Chögyam Trungpa đặt chân lên
đất Mỹ vào năm 1970, và ông đã tìm đủ mọi phương
cách ngày càng sáng tạo hơn để thuyết giảng về
Dharma (Đạo
Pháp). Qua sự cố gắng đó và tương tự
như là một phép lạ, ông đã khám phá ra được
những khó khăn chính yếu trong việc hoằng Pháp
trong thế giới Tây Phương và các khó khăn này
thì nhiều người lại không để ý đến
(Chögym Trungpa rất bén
nhạy và sâu sắc và ông đã tìm được một phương
pháp mang những người Tây Phương đến gần hơn với
Đạo Pháp qua các ngành nghệ thuật).
Ông tìm mọi cách để kết thân
với các thi sĩ, nghệ sĩ, các nhà tư tưởng thuộc
thời đại của ông và ông cũng đã thiết lập được
một trường dạy kịch nghệ và một Viện Đại Học
Phật Giáo đầu tiên cho toàn thể thế giới Tây
Phương. Trong suốt cuộc đời mình không lúc nào
ông lại không nghĩ đến việc nêu lên quan điểm
của ông là nếu thiết lập được tín ngưỡng Phật
Giáo tại Tây Phương thì đấy chính là cách duy
nhất để giữ được sự trung thực đối với tinh thần
giáo lý của Đức Phật
(câu viết này của ông
Fabrice Midal nêu lên quan điểm của Chögyam
Trungpa đáng cho tất cả chúng ta phải suy nghĩ
và để nhìn lại chính chúng ta và thực trạng của
Phật Giáo tại một vài nước Á Châu. Theo Chögyam
Trungpa thì Phật Giáo chỉ có thể trở thành một
tín ngưỡng tinh khiết và trung thực được trong
thế giới Tây Phương mà thôi. Thật thế ở Á Châu
tuy Phật Giáo đã bám rễ từ hàng ngàn năm, thế
nhưng đôi khi trong một vài quốc gia Phật Giáo
lại cho thấy có chiều hướng trở thành một chiêu
bài chính trị, một kế hoạch kinh tế hay chỉ đơn
giản là một phương kế sanh nhai. Chính những thứ
này đã khiến cho Phật Giáo trong các quốc gia đó
lắm khi có vẻ như bị sa lầy và chỉ còn giữ được
một ít màu mè giả tạo. Trong khi đó vừa mới đặt
chân đến thế giới Tây Phương chưa đầy một thế kỷ
mà Phật Giáo đã cho thấy có nhiều dấu hiệu "hồi
sanh" với tất cả sự tinh khiết và trong sáng của
nó - ít nhất là theo quan điểm của Chögyam
Trungpa).
Tại sao lại phải thiết
lập một tín ngưỡng Phật Giáo đặc thù cho Tây
Phương?
Nếu không cố gắng tìm hiểu minh
bạch mảnh đất quê hương của chính chúng ta thì
chúng ta cũng sẽ không thể nào quán thấy được sự
tinh khiết nguyên sanh ẩn chứa trong những lời
giảng huấn của Đức Phật được. Nói một cách khác
thì giáo huấn của Đức Phật cũng có thể ví như
một hạt giống cho ra một cội cây và những quả
ngọt thật mầu nhiệm có thể giúp chữa khỏi tất cả
mọi khổ đau.
Chúng ta phải đem hạt giống ấy
để gieo vào ngôi vườn của mình để giúp nó nẩy
mầm và trở thành một gốc cây lớn. Chúng ta không
nên chỉ biết say mê hạt giống và quên đi mảnh
đất của chính mình - nếu không thì sẽ chẳng có
gì nẩy mầm trên mảnh đất đó được
(một hình thức Phật
Giáo "ngoại lai" và "vay mượn" sẽ tự cô lập và
tự tách rời ra khỏi cộng đồng xã hội và sẽ không
thể nào bắt rễ thật sâu vào một nền văn hóa khác
được). Chúng ta có thể chiêm ngưỡng
và ngắm nghía cái hạt giống đó, viết ra vô số
những tập luận giải về cái hạt giống đó: thế
nhưng sớm muộn gì thì cái hạt giống ấy cũng sẽ
chết khô và chúng ta cũng sẽ chẳng bao giờ tận
hưởng được những quả ngọt. Nếu chúng ta không
biết quan tâm đến lịch sử của dân tộc chúng ta
thì Phật Giáo cũng sẽ trở thành những gì thật xa
vời với chúng ta. Thật thế có một số người Tây
Phương đã biến thành người Nhật hay người Tây
Tạng và đôi khi còn Tây Tạng hơn cả người Tây
Tạng nữa (các người
Tây Phương tu tập theo Thiền Học Zen thì mặc áo
cà-sa màu đen hay màu trà may theo kiểu của các
Thiền sư Nhật, lễ bái cũng giữ đúng theo các
nghi thức trong các Thiền viện ở Nhật; nhang đèn,
chuông mõ cũng mua từ bên Nhật. Các người tu
theo Phật Giáo Tây Tạng thì cũng lập bàn thờ
Phật đúng theo các nghi thức Tây Tạng, mặc áo cà-sa
màu nâu đỏ...). Trong khi đó thì một
số đông người Tây Tạng
(hiện đang lưu vong tại
tây Phương) thì lại chỉ muốn được trở
thành người Tây Phương và được thụ hưởng sự tiện
nghi của thế giới Tây Phương. Thật ra thì phần
đông những người Tây Phương chúng ta
(tu tập theo Phật Giáo)
thường không hội đủ điều kiện để thực
hiện được cách tu tập như thế, chẳng qua vì
chúng ta có gia đình, nghề nghiệp, bổn phận...,
chúng ta
không thể rứt bỏ tất cả được để sống trong một
tu viện như ở Nhật hay trong một ngôi chùa
như ở Nepal.
Khi nào vẫn còn là một thứ tín
ngưỡng ngoại lai thì khi đó Phật Giáo dù có
chứng tỏ là sẽ mang lại một sự lợi ích, cũng sẽ
chẳng bao giờ thật sự giúp ích chúng ta một cách
thiết thực được.
Trong
trường hợp ấy thì tu tập Phật Giáo cũng sẽ chẳng
khác gì như học một thứ ngoại ngữ: dù cho có thể
nói được ngoại ngữ ấy đi nữa thế nhưng chẳng bao
giờ nó có thể tạo ra được một sự xúc động nào
trong lòng chúng ta như khi chúng ta sử dụng
ngôn ngữ mẹ đẻ của chính mình. Tu tập Phật Giáo
dưới một hình thức ngoại lai như thế sẽ là một
cách ngăn chận không cho Phật Giáo bắt rễ trong
lòng chúng ta, và cũng sẽ không giúp cho chúng
ta biến cải lấy chính mình được. Phật Giáo trong
trường hợp ấy cũng sẽ chỉ là một chiếc áo khoác
ngoài và cũng chỉ giữ được một lúc nào đó
trên người mà thôi. Một hình thức Phật Giáo như
thế sẽ không thể nào biểu trưng cho nguồn sanh
khí của chính sự sống được.
Người đại diện tiêu biểu nhất
cho chủ trương ấy là Chögyam Trungpa và tôi cũng
đã dựa vào chủ trương này để thành lập hiệp hội
Prajna và Phila. Tiếng Phạn Prajna
có nghĩa là sự trong sáng của trí thông minh
(tức là Trí Tuệ, một từ
gốc Hán-Việt có vẻ quen thuộc hơn với người đọc.
Và cũng xin mạn phép nhắc lại là tác giả thường
cố tránh không dùng các thuật ngữ Phật Giáo quen
thuộc và cũng không đồng ý với cách dịch của một
số học giả khác, và do đó ông cũng đã tự dịch
các các thuật tiếng Phạn, Pali, Tây tạng... khi
viết. Chữ Prajna thông thường được dịch sang các
ngôn ngữ Tây Phương là Sagesse hay Wisdom, đấy
là một cách dịch hoàn toàn gượng ép và rất sai),
là nhãn quan của Đức Phật, hay còn gọi là
quả mang lại từ sự tu tập. Đấy là cách
giúp chúng ta không bị sa lầy trong cái ngã của
mình để có thể quán nhận được mọi sự vật đúng
với sự hiện hữu của chúng. Phila là một
thuật ngữ trong tiếng Hy Lạp, thật vậy ngôn ngữ
Hy Lạp đã bắt rễ rất sâu vào mảnh đất quê hương
của chúng ta. Phila có nghĩa là tình thân
thiện, nếu hiểu theo ý nghĩa rộng hơn thì đấy là
lòng nhân ái ngập tràn phúc hạnh.
Tuy nhiên và dù sao đi nữa thì
cũng không được phép vơ đũa cả nắm, tức không
được lầm lẫn giữa những lời giảng huấn của Đức
Phật với các cách phát biểu của người Hy lạp -
đấy cũng chính là sự lầm lẫn của không biết bao
nhiêu tín ngưỡng khác trong lịch sử
(tức là các tín ngưỡng
độc thần của Tây Phương). Tóm lại là
phải ý thức được cội nguồn đó
(tức ngôn ngữ Hy Lạp)
hầu có thể giữ được một vị thế độc lập nào đó
đối với nó nhằm để giúp chúng ta có thể tìm thấy
được những từ riêng biệt trong chính ngôn ngữ
của chúng ta, những từ đó không thuộc vào ngôn
ngữ Hy Lạp và cũng không thuộc vào các ngôn ngữ
khác của Phương Đông. Chúng ta phải sáng chế ra
các thuật ngữ sao cho thật thích nghi ngay trong
những bước đầu chập chững này
(khi nhìn lại Phật Giáo
Việt Nam chúng ta không khỏi nhận thấy đầy rẫy
những thuật ngữ ngoại lai gồm các từ Hán Việt
của một thời đại xa xưa, chẳng hạn như các từ vô
minh, vô thường, vô ngã, duyên khởi, hỷ xả, diệu
đế, bát nhã, chính kiến, tà kiến, vô sắc, chánh
đạo, ngũ giới, tam giới, dục giới, sắc giới v.v.
và v.v... Các thế hệ ngày nay không còn hiểu
được ý nghĩa của các từ ấy là gì nữa. Một Phật
Giáo tách rời khỏi sự sanh hoạt của một xã hội
đương thời thì sớm muộn cũng sẽ bị đào thải. Một
hình thức Phật Giáo già nua vay mượn với những
bước chân khập khễnh sẽ khó lòng tiến xa được.
Fabrice Midal đã nhìn thấy ngay vấn đề này khi
Phật Giáo Tây Phương mới chập chững với những
bước đầu tiên, ông cảnh giác các học giả khác
không nên sử dụng các ngữ tự mang nguồn gốc Hy
Lạp phản ảnh một triết lý thật xa vời với tư
tưởng Phật Giáo để nói lên giáo lý của Đức Phật).
-------------------------------------
Phụ Lục
Tôi muốn được tu tập Phật
Pháp,
Tôi muốn bước theo con
đường của Đức Phật,
Vậy tôi cần phải làm gì?
Có cần phải dấn thân
(xuất gia)
hay không?
Ý nghĩ bước theo một con đường
tu tập tâm linh (xuất
gia) lắm khi cũng khiến cho chúng ta
phải sợ hãi. Chúng ta e ngại là rồi đây sẽ đánh
mất sự tự do "của mình" và quyền quyết định cuộc
đời "của mình".
Nguyên nhân của sự e ngại ấy
chẳng qua một phần cũng là do chúng ta quá mơ
tưởng đấy thôi (mơ
tưởng rằng mình đang được hưởng sự "tự do" - ít
nhất là đối với người Tây Phương - và chủ động
được "vận mạng" của chính mình. Trong câu trên
đây tác giả đặt các chữ "của mình" trong hai dấu
ngoặc kép, đấy là cách cho biết rằng chẳng có
thứ gì là "của mình" cả, từ sự tự do cho đến
quyền quyết định cuộc đời "của mình". Mạng lưới
kinh tế, quảng cáo và bàn tay của những người
làm chính trị đã tạo cho chúng ta cái ảo giác
của sự tự do và quyền chủ động cuộc sống "của
mình" đấy thôi). Thật ra thì tất cả
chúng ta đang bị bủa vây trong một mạng lưới
chiến lược do các nhóm tài phiệt khổng lồ, các
tổ chức quảng cáo cũng như bàn tay của các chính
trị gia giăng ra để kiềm tỏa và chi phối chúng
ta. Trước đây chúng ta có bao giờ nghĩ đến việc
tranh đấu để đòi hỏi tự do với một mức độ căng
thẳng như ngày nay đâu? - thật thế trước đây nào
có mấy khi chúng ta lại bị đẩy vào một tình
trạng đồng nhất hóa thật cực đoan như hiện nay.
Từ đầu này đến đầu kia của địa cầu, con người
ngày càng có xu hướng tiêu thụ cùng một loại
thực phẩm, ăn uống trong các đường dây nhà hàng
được tổ chức giống nhau, ăn mặc cũng giống nhau,
nghe cùng một thứ âm nhạc, truyền hình thì trình
chiếu các thứ phim bộ sản xuất hàng loạt bằng
phương pháp kỹ nghệ
(các xu hướng tiêu thụ và cách sanh hoạt rập
khuôn ấy là do quảng cáo tạo ra và phía sau lưng
của quảng cáo là bàn tay của các nhóm tài phiệt
khổng lồ, và nơi bàn tay của các nhóm tại phiệt
ấy thì lại hình như có một sợi dây lòng thòng do
một bàn tay khác của những người làm chính trị
buộc vào, hay cũng có thể là ngược lại. Sống
trong một xã hội thật đơn sơ của hơn hai mươi
lăm thế kỷ trước thế mà Đức Phật đã chọn cho
mình một sự tự do nào đó với chiếc bình bát
trong hai tay và một manh áo cà-sa trên người.
Sự tự do trên thân xác đó là để giúp Ngài tìm
thấy một sự tự do cao rộng hơn, tuyệt đối hơn và
đích thật hơn trong tâm thức của mình. Bước chân
vào một ngôi chùa là để tìm thấy cho mình một sự
tự do nào đó, ngồi vào một chiếc xe sang trọng
là cách đánh mất sự tự do ấy).
Cảm tính về sự tự do không mấy
khi còn giữ được đúng với ý nghĩa đích thật của
sự tự do nữa.
Đối với Phật Giáo thì sự tự do
trước hết phải là sự giải thoát khỏi guồng máy
tư duy của chính mình
(tác ý chi phối bởi
nghiệp) và loại bỏ được các thái độ
hành xử quen thuộc sẵn có của mình
(hành động và ngôn từ
điều khiển bởi tác ý). Do đó nếu
không bước theo con đường tu tập thì không thể
nào có thể tự giải thoát cho mình được.
Trên một bình diện nào đó thì
việc bước vào con đường không phải là không gặp
các khó khăn thật sự. Quyết tâm luyện tập Thiền
định nào có giống như việc ghi danh theo học một
khóa thể dục hay là đi nghỉ mát trong một vùng
núi vào dịp cuối tuần đâu. Chúng ta đương nhiên
cảm thấy việc quyết định bước vào con đường tu
tập sẽ nhất định đòi hỏi chúng ta một sự dấn
thân thật sự nào đó. Tôi vẫn còn nhớ rõ
trường hợp của riêng tôi, thật thế trước khi
quyết định tìm đến một ngôi Thiền viện thì chính
tôi cũng đã từng do dự rất nhiều, tôi có cảm
giác hình như đấy là một lời mời được dành riêng
cho tôi và riêng tôi thì tôi cũng nghĩ rằng rồi
đây cái quyết định ấy biết đâu cũng sẽ có thể
biến cải được cả sự hiện hữu của chính tôi sau
này.
Phật Giáo là một con đường nhắm
vào chủ đích giúp chúng ta khám phá ra sự tỉnh
thức trong hiện tại để hội nhập vào tâm điểm của
hiện thực. Phật Giáo là cả một sự thử thách thật
sâu xa, nào có phải là một thứ gì đó hời hợt chỉ
có tính cách bề ngoài đâu.
Sự dấn thân phải phát xuất từ
nơi sâu kín của con người chúng ta, từ những ước
vọng thâm
sâu nhất của chúng ta. Sự dấn thân đó chỉ có thể
thực hiện được khi nào chúng ta nhận thấy có một
thứ gì đó đang tàn phá sự sống của chính mình và
làm mất đi cả sự bao la của bầu không gian tràn
đầy thi tính và cả những kích thước vô tận của
hiện thực, và khiến cho chúng ta cũng không còn
giữ được nguyên vẹn con tim của mình nữa
(đau buồn).
Tất cả những thứ ấy sẽ thúc dục chúng ta nên
hướng vào những gì cao rộng hơn của tình thương
yêu.
Chỉ khi nào hội đủ can đảm để
nhìn nhận một cách thành thật là những gì xảy ra
trong đời mình không được hoàn hảo cho lắm, và
chỉ khi ấy thì sự quyết tâm tu tập mới có thể
phát sanh được. Có một cái gì đó trắc trở và
chúng ta thì không còn muốn cứ tiếp tục sống như
thế nữa, tức là cứ nhởn nhơ làm như chẳng có gì
xảy ra. Chỉ khi nào đã ý thức được thực trạng đó
thì khi ấy sự dấn thân của mình mới có thể mang
đầy đủ ý nghĩa của niềm ước vọng sâu xa nhất của
mình, tức là muốn quay về với con người đích
thật của chính mình. Thiếu sự quyết tâm ấy thì
nhất định chúng ta sẽ chẳng làm được gì cả. Hoặc
là chúng ta chỉ biết theo dõi các chương trình
Phật Giáo trên truyền hình để mà mơ ước, hoặc là
ghi danh tham dự hết khóa tu học này đến khóa tu
học khác thế thôi, và trên thực tế thì chẳng
bước được một bước nào đáng kể cả.
Có cần phải nhờ đến một
vị Thầy để giúp chúng ta bước theo con đường của
Đức Phật hay không?
Sự giúp đỡ của một người
Thầy thật cần thiết. Người Thầy giúp chúng ta
tiếp cận một cách cụ thể, sanh động và thực tế
nhất với giáo huấn của Đức Phật. Qua sự tiếp xúc
với một người Thầy chúng ta sẽ không còn quán
thấy Đức Phật như một huyền thoại nữa mà đấy sẽ
là một kinh nghiệm cảm nhận đích thật, và những
kinh nghiệm ấy thì tất cả mọi người đều có thể cảm
nhận được.
Ngược lại nếu không có một
người Thầy hướng dẫn thì dù cho có cố gắng tu
tập cách mấy đi nữa thì hình như chúng ta vẫn cứ
cảm thấy còn thiếu một cái gì đó trong các kinh
nghiệm cảm nhận của mình, và cũng sẽ rất khó cho
chúng ta hoàn toàn vững tin vào những cảm nhận
ấy (người Thầy là
một "cơ sở cụ thể" để chúng ta nhìn vào và để
trông thấy Phật).
Nhờ những gì mà người Thầy chỉ
dạy chúng ta chúng ta sẽ nắm bắt được cội nguồn
giáo lý mênh mông của Phật Giáo. Chúng ta sẽ
không còn cảm thấy là mình đang đứng trước một
thư viện khổng lồ nữa mà đã nắm được trong tay
chiếc chìa khóa để giúp mình bước vào. Người
Thầy là hiện thân của một sự hiểu biết mạch lạc
về Đạo Pháp do chính vị ấy đã phát huy được qua
kinh nghiệm của mình trên đường tu tập.
Hơn nữa người Thầy phải luôn
tìm cách đối thoại với từng người, và phải giảng
giải như thế nào để có thể hồi đáp được sự mong
đợi của mỗi người, của chính bạn, của cá nhân
bạn - Dharma (Đạo
Pháp) qua sự hiện diện mang tính cách
cá nhân đó của một người Thầy sẽ trở nên cụ thể
và sanh động hơn.
Dù sao thì cũng phải giữ một sự
thận trọng nào đó, phải tránh các thứ ước mơ và
ảo tưởng khi nhìn vào người Thầy, đấy là những
gì dễ khiến cho chúng ta bị lạc hướng. Người
Thầy không phải là một ngôi sao màn ảnh mà bạn
phải tôn sùng như một thần tượng. Sử dụng sự mê
hoặc không phải là một cách hành xử đúng đắn,
thế nhưng đấy lại là những gì thường thấy xảy ra
trong chốn chùa chiền. Vị Thầy uy nghi trên bục
giảng và thật khó để đến gần. Bạn đến chùa là để
thán phục vị Thầy không phải là để tiếp xúc với
vị ấy. Con đường đó không phải là con đường của
Dharma (Đạo Pháp)
mà chỉ là con đường của chính trị.
Một trong các ảo tưởng thường
thấy xảy ra trong thế giới Tây Phương là khi đã
là Thầy thì tất nhiên là đã đạt được giác ngộ.
Càng ít dịp để tiếp xúc với người Thầy thì bạn
lại càng dễ tạo ra cho mình nhiều hình ảnh tưởng
tượng về vị ấy. Một người Thầy càng có vẻ xa lạ,
càng tỏ ra cách biệt với bạn thì mọi thứ ảo
tưởng của bạn về sự giác ngộ của vị ấy lại càng
dễ để phát sanh ra hơn.
Thật ra thì cũng chẳng có gì là
rắc rối lắm. Một người Thầy đích thật là một
người mà ngôn từ khi thốt ra có thể mang bạn đến
gần với giáo huấn của Đức Phật. Nguyên nhân
khiến không thể đến gần được với một vị-Thầy-siêu-sao
chính là vì sự ngưỡng mộ của bạn đối với vị ấy
đã được thành hình dựa vào sự cách biệt giữa
tính cách vĩ đại của vị ấy và sự tầm thường của
bạn. Một người Thầy đích thật thì lúc nào cũng
chỉ nghĩ đến là phải làm cách nào để có thể giúp
bạn tìm thấy được sự vĩ đại của chính bạn. Vị ấy
giảng dạy cho bạn chính là để giúp bạn nhận thấy
được là Dharma (Đạo
Pháp) đang hiện hữu trong lòng đôi
bàn tay của bạn. Đức Phật cũng chẳng ở đâu khác
hơn là trong con tim của chính bạn.
Thế nhưng một vị Thầy chỉ có
thể giúp bạn khi nào bạn biết mở rộng lòng mình
để đón nhận vị ấy và thừa nhận vị ấy là một
người Thầy.
Nếu bạn nghĩ rằng người giảng
dạy cho bạn chỉ là một người dốt nát thì bạn
cũng sẽ nhận được những lời giáo huấn của một
người ngu đần.
Nếu
bạn cho
rằng vị giảng huấn cho bạn là một người hiểu xa
biết rộng thì bạn cũng sẽ nhận được sự truyền
thụ của một người uyên bác.
Nếu bạn nghĩ rằng người Thầy
chính là người đã mở ra cho bạn cách cửa của
Dharma (Đạo Pháp)
thì bạn cũng sẽ đón nhận được giáo huấn của
chính Đức Phật. Điều ấy thật hiển nhiên.
Người Thầy trước hết phải là
người biết hướng dẫn bạn trong việc tu tập và
giúp bạn
tìm hiểu kinh sách dựa vào sự hiểu biết cũng như
các kinh nghiệm của người ấy. Tóm lại đấy là
cách mà người Thầy vạch ra cho bạn một con đường
đúng đắn.
Ở một cấp bậc cao thâm hơn thì
người Thầy sẽ giúp bạn biết mở rộng con tim của
mình. Khi nhìn vào thái độ hành xử luôn trung
thực của người Thầy đối với Dharma
(Đạo Pháp)
thì bạn cũng sẽ phát lộ được sự trìu mến và tình
thương yêu mà trước đây bạn chỉ biết nhốt chặt
chúng trong đáy lòng mình. Người Thầy luôn
khuyến khích bạn phải bạo dạn và tự tin. Lòng
trân quý Dharma (Đạo
Pháp) của người Thầy có khả năng lan
tỏa sang người khác. Lòng trân quý đó sẽ biến
cải được bạn.
Chỉ khi nào xảy ra sự gặp gỡ
với tư cách hoàn toàn cá nhân giữa hai con người
với nhau (giữa người
Thầy và người đệ tử với một sự riêng tư và bình
đẳng nào đó) thì khi ấy người Thầy
mới có thể mang đầy đủ ý nghĩa của một người
Thầy. Đấy là một sự gặp gỡ của tình yêu thương.
Một con tim hòa nhập với một con tim.
Nếu muốn biết là mình đã tìm
thấy đúng vị Thầy của mình hay không thì chỉ cần
nêu lên một vài câu hỏi thật đơn giản. Mỗi khi
được ở bên cạnh vị ấy thì đấy có phải là thêm
một dịp khiến cho bạn cảm thấy mình muốn bước
theo vết chân của Đức Phật hay không, tức có
nghĩa là bạn có cảm thấy mình muốn được trau dồi
thêm khả năng chú tâm của mình để quán thấy hiện
thực với một ý nghĩa cao rộng hơn hay không?
Những lời giảng dạy của vị ấy có giúp bạn tìm
thấy sự tự tin nơi phẩm giá của chính bạn hay
không? Vị ấy có chỉ dạy cho bạn con đường Thiền
định hay không? Vị ấy có hàn huyên với bạn một
cách ngay thật và không tìm cách ẩn náu phía sau
cái vẻ đạo mạo của mình hay không? Vị ấy có tận
tình giúp bạn kết nối với một dòng truyền thụ
nào hay không? Vị ấy có đủ sức để trả lời "không"
với tất cả sự dịu dàng nhưng đầy quả quyết nhằm
để giúp bạn biết tự vấn lấy mình hay không?
Đấy là các câu hỏi sẽ giúp bạn
tìm thấy được một người Thầy.
Lắm khi cần phải để ra một thời
gian dài để tìm được một vị Thầy mà mình có thể
đặt hết lòng tin. Dù cho mất thì giờ thì cũng
vẫn hay hơn. Không thể nào hấp tấp được. Thế
nhưng một khi sự tin tưởng đã phát động trong
lòng mình thì khi đó nhất thiết phải hỏi người
Thầy cho thật rõ ràng là có sẵn sàng chấp nhận
bạn làm đệ tử của vị ấy hay không? Nếu vị ấy
chấp nhận thì khi đó sự tương kết mới có thể xảy
ra được. Sự tương kết đó tuy đơn giản nhưng mang
đầy xúc động.
Nếu
thật sự
bạn muốn tìm cho mình một vị Thầy thì phải loại
bỏ ngay mọi ý nghĩ là vị ấy phải như thế này hay
là như thế kia. Hãy đặt hết lòng tin nơi con tim
của bạn và cứ để cho nó hướng dẫn bạn. Khi nào
đã gặp được người Thầy thì cứ bước theo vị
ấy.
Sự tương kết đó phải được xây
dựng trên sự kính trọng và tình thương yêu. Kính
trọng người Thầy là cách giúp bạn biết giữ gìn
Dharma (Đạo
Pháp) như là tiếng réo gọi mầu nhiệm
của vô-ngã (biết
kính trọng người Thầy là một cách quên đi cái
ngã của chính mình để có thể đến gần hơn với Đạo
Pháp). Yêu quý người Thầy là cách đặt
tình yêu thương vào một vị trí ngày càng cao hơn.
Nếu cần thì cứ để cho con tim hướng dẫn bạn.
Tình thương yêu và sự kính trọng đó là một nguồn
năng lực tuyệt vời giúp bạn có thể đi thật xa
trên con đường.
Nếu bạn được một người nào đó
thật siêu việt giảng dạy cho bạn thì biết đâu
bạn cũng sẽ dễ bị choáng ngợp bởi vị ấy. Và đấy
cũng sẽ là những gì có thể khiến cho bạn dễ bị
thối chí bởi vì bạn có thể cảm thấy mình không
sao theo kịp vị ấy được.
Đối với Dharma thì khác
hẳn. Bạn tiếp nhận những lời giáo huấn của một
vị Thầy thì đấy cũng chỉ là cách mà vị ấy truyền
đạt lại những gì mà vị ấy đã tiếp nhận được từ
trước. Đấy cũng chính là cách giúp bạn kết nối
với một dòng truyền thụ mà chính Đức Phật là
người khởi xướng. Dù cho người Thầy có xuất
chúng đến đâu đi nữa thì vị ấy cũng chỉ truyền
đạt lại những lời giáo huấn không phải là do
chính mình sáng tạo ra. Vị ấy chỉ giúp bạn nối
kết với một thứ gì đó vượt cao hơn cả vị ấy. Sự
kính trọng của bạn đối với vị Thầy chẳng những
không hề khiến cho bạn bị bóp ngạt
(những lời giảng huấn
của người Thầy không phải là một sự áp đặt của
người Thầy mà đấy là giáo huấn của Đức Phật vượt
lên trên cả người Thầy) mà đúng hơn
là chỉ nhằm giải thoát cho bạn - và sự kính
trọng ấy đôi khi cũng được gọi là lòng mộ đạo.
Cũng giống như trường hợp của bạn, người Thầy
cũng được thúc đẩy bởi sự kính trọng và tình yêu
thương đối với Đức Phật. Và Đức Phật thì trước
đây cũng từng là một chúng sanh phục vụ cho
chúng sanh.
Phải tu tập ở đâu? Và
phải làm thế nào để tìm được một tu viện thích
hợp với mình?
Các tu viện thì thật đa dạng
thế nhưng con người
(tức các nhà sư nơi tu viện) thì
cũng chỉ là những con người, có thể đôi khi họ
còn tỏ ra vụng về nữa, và biết đâu họ cũng có
thể đã đánh mất cả sự nối kết với cội nguồn
(tức giáo lý Phật
Giáo). Dù cho các thể chế tôn giáo có
đứng ra để chứng nhận tước vị của họ đi nữa thế
nhưng không có gì bảo đảm cho sự xứng đáng mà họ
đang được thừa hưởng.
Ngay
cả Phật
Giáo Tây Tạng đôi khi cũng quay lưng lại với di
sản ngàn năm và cả ngọn đuốc sáng ngời do các vị
đại sư tiên phong đã trao lại, chẳng hạn như các
vị đại sư Kalou Rinpoché, Dilgo Kyentsé, Lama
Guendune, Lama Yéshé, Chögyam Trungpa
(một số nhà sư thật lỗi
lạc có những tư tưởng thật cấp tiến thế nhưng
vẫn bị một số đệ tử thủ cựu sau này chê trách).
Một vài đệ tử của các vị ấy đã quên mất đi bài
học của những người cha mình để lại
(chữ "cha" trong câu
trên đây có thể hiểu theo quan niệm của người Á
Đông về người Thầy: Thầy ngang hàng với cha, đấy
là "đấng từ phụ", gọi tắt là "sư phụ"),
đấy là chưa kể đến các trường hợp còn phản bội
lại cả Thầy mình nữa. Lắm khi trông thấy việc
truyền giáo bị bóp méo đã khiến cho tôi phải bật
khóc nức nở (một
người Tây Phương bật khóc khi nhìn thấy một vài
vị Thầy Tây Tạng thuyết giảng không trung thực.
Còn phần chúng ta thì sao? Chúng ta nên cười hay
nên khóc khi trông thấy Phật Giáo bị biến thành
một công cụ để mưu đồ, một chiêu bài để lợi dụng,
một phương kế để sanh nhai?).
Chính Thiền Học Zen cũng đã
từng gặp những khó khăn thật trầm trọng. Học
phái này (tại Tây
Phương) đã lầm lẫn giữa thứ bậc trong
hàng giáo phẩm được quy định ở Nhật với sự quán
triệt về giáo huấn của Đức Phật - mặc dù Taisen
Deshimaru tại Pháp và Shunryu Suzuki tại Hoa Kỳ
đã từng cảnh giác về sự sai lầm này
(đây là hai vị Thiền sư
người Nhật đã mang Thiền học Zen vào Âu Châu và
Hoa Kỳ). Cả hai vị này đã từng giải
thích là nếu được phong làm Thầy - tức là một vị
shiho - thì đấy chỉ có nghĩa là một người
được cầm trên tay một mảnh bằng do hàng giáo
phẩm cấp phát chứng nhận là mình có hạnh kiểm
tốt thế thôi, cái mảnh bằng ấy không hề biểu
trưng cho một thành quả tu tập nào cả.
Tuy nhiên cũng có rất nhiều
trung tâm Phật Giáo giảng dạy về Thiền định có
thể giúp bạn tu học về giáo huấn của Đức Phật
trong những điều kiện thật tốt, kể cả có thể
giúp cho từng người thực hiện được những ước
vọng của riêng mình
(có nghĩa là xuất gia). Nơi các trung
tâm đó nhờ có đông đảo các Phật tử làm công quả,
và nhất là nhờ vào sự cố gắng và nhiệt tình của
Tăng đoàn cũng như sự tận tụy của các vị Thầy,
bạn sẽ có dịp thu đạt được nhiều kinh nghiệm học
hỏi quý giá, được tra cứu các cách kinh sách
thật tuyệt vời, và nhất là được thực hành việc
tu tập.
Tôi chỉ có một lời khuyên duy
nhất: phải
thật cảnh giác, phải xét đoán với tất cả sự thận
trọng tu viện mà bạn muốn xin vào để tu học.
Bạn đang bước một bước thật tuyệt diệu, và do đó
cũng không nên bước mà không suy nghĩ, phải xét
đoán thật cẩn thận bối cảnh trước mặt và gia
tăng gấp đôi sự cảnh giác. Nhận định thật minh
bạch bao giờ cũng tốt hơn.
Đấy chẳng phải là một bài học
của chính Đức Phật để chúng ta nhìn vào hay sao?
(Đức Phật đã gặp
nhiều vị Thầy và đã tu tập khổ hạnh nhiều năm
nhưng không có kết quả).
Không nên để xảy ra như thế.
Đối
với riêng
tôi thì bước theo con đường Phật Giáo là một dịp
may mà tôi cho là đẹp nhất trong cuộc đời tôi.
Trong lòng tôi luôn dâng trào niềm biết ơn sâu
xa và vô tận đối với các vị Thầy của tôi. Ngày
còn nhỏ tôi đã phải trải qua nhiều đau thương
thật cay nghiệt, và tôi đã từng phải xa lìa tất
cả. Lúc ấy nào tôi có ngờ trước là cuộc đời lại
có thể tuyệt vời đến như thế này đâu. Nếu
biết nhìn cuộc sống xuyên qua Dharma
(Đạo Pháp)
thì tất cả mọi sự không những sẽ trở nên hoàn
hảo và thấm đượm một màu hồng, và không những
mình được sống trong sự thanh thản và phúc hạnh,
mà còn hơn thế nữa là bất cứ một cảnh huống nào
xảy ra thì cũng đều trở thành những dịp may để
giúp mình tự biến cải lấy mình và giúp mình quán
nhận được hiện thực ngày càng sâu sắc hơn
(đây là một khía cạnh
thật đặc thù của Phật Giáo Tan-tra: dù là nghịch
cảnh thì đấy cũng vẫn là một dịp may giúp mình
tu tập nhằm biến cải chính mình và giúp cho cuộc
sống của chính mình ngày càng trở nên tươi đẹp
hơn). Bước
theo vết chân của Đức Phật, cuộc sống của mình
sẽ biến thành một cuộc phiêu lưu tràn đầy một
sức sống thật cô đọng và sâu xa không có gì có
thể so sánh được. Thật giản dị: vì đấy là cuộc
sống của chính bạn
(chúng ta sống thế
nhưng sự sống ấy thật ra chỉ là sự vận hành của
nghiệp lực lôi kéo bởi sự trói buộc của các hiện
tượng đang chuyển động chung quanh. Bước theo
vết chân của Đức Phật là cách giúp mình quay về
với chính mình để sống thật với chính mình).
Hoàng Phong
chuyển ngữ
|