Ba Vòng Quay Của Bánh Xe Đạo Pháp
Cùng Sự Hình Thành Của Kinh Điển & Các Học Phái
Phật Giáo
Hoàng Phong
Phật Giáo Ấn Độ và Tây Tạng phân loại
và hệ thống hóa toàn bộ giáo huấn của Đức
Phật thành ba chu kỳ khác nhau gọi là "ba vòng
quay của bánh xe Đạo Pháp" (tridharmacakra) hoặc
còn gọi là ba lần Chuyển Pháp Luân. Không nên
nhầm lẫn cách phân loại và hệ thống hoá kinh
điển theo ba vòng quay này với các lần "ôn tập"
hay "kết tập" (samgiti) Kinh Điển được tổ chức
sau khi Đức Phật tịch diệt, với mục đích chỉnh
đốn và bảo tồn sự trung thực của giáo huấn của
Ngài. Có ít nhất ba lần kết tập quan trọng
được tổ chức trong giai đoạn Đạo Pháp còn được
truyền khẩu và sau đó còn có thêm khoảng năm lần
kết tập khác, và lần sau cùng tổ chức ở kinh đô
Rangoon của Miến Điện vào năm 1950.
Phật Giáo Trung Quốc và Phật Giáo Nhật
Bản thì lại không dùng cách phân loại kinh điển
trên đây của Phật Giáo Ấn Độ và Tây Tạng. Thí dụ
Pháp Tướng Tông (Faxiang) của Trung Quốc do ngài
Huyền Trang (602-664) sáng lập, tuy vẫn phân
chia giáo huấn của Đức Phật thành ba chu kỳ thế
nhưng lại căn cứ theo những tiêu chuẩn khác hơn.
Hai tông phái Thiên Thai (Tiantai, thế kỷ thứ
VI) và Hoa Nghiêm (Huayan, thế kỷ thứ VI-VII)
cùng phân loại giáo huấn của Đức Phật thành năm
chu kỳ thế nhưng các tiêu chuẩn thì lại không
giống nhau. Tuy nhiên điểm đáng ghi nhận hơn cả
là hầu hết cả các tông phái và học phái Phật
Giáo đều công nhận toàn bộ kinh điển, kể cả các
kinh điển xuất hiện muộn, đều mang tính cách
chính thống, tức có nghĩa là do chính Đức Phật
Tất-đạt-đa Cồ-đàm thuyết giảng. Duy nhất chỉ có
Phật Giáo Theravada là chỉ thừa nhận kinh điển
thuộc vòng quay thứ nhất trong số ba vòng quay
trên đây là chính thống.
Cách phân loại giáo huấn của Đức Phật
thành "ba vòng quay" của Phật Giáo Ấn Độ và Tây
Tạng tỏ ra khá phù hợp với các diễn tiến và biến
đổi của Đạo Pháp theo dòng lịch sử, do đó bài
viết này sẽ dựa vào hệ thống trên đây để phân
tích một vài đường nét "tiến hóa" chính yếu của
Đạo Pháp theo dòng thời gian, và nhân đó sẽ tìm
hiểu thêm về tính cách chính thống của kinh sách
nói chung cũng như sự hình thành của các tông
phái và học phái khác nhau.

1- Vòng Quay Thứ Nhất:
Bốn Sự Thật Cao Quý, Con Đường của Tám Điều Đúng
Đắn, Vô Thường và khái niệm không có cái tôi
Đức Phật khởi động bánh xe Đạo Pháp
lần đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Mrgadava) ở
Ba-la-nại (Varanasi) với các bài thuyết giảng về
Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế), Con Đường của
Tám Điều Đúng Đắn (Bát Chính Đạo) và giáo lý về
"không có cái tôi" (Vô Ngã). Trong suốt bốn mươi
lăm năm sau đó Đức Phật không ngừng triển khai
căn bản giáo huấn trên đây với thật nhiều khía
cạnh và cấp bậc khác nhau, nhằm thích ứng với
nhiều thành phần người nghe khác nhau. Sau đây
là vài dòng tóm lược phần cốt lõi vô cùng chủ
yếu đó của Đạo Pháp.
Khái niệm về Bốn Sự Thật Cao Quý (Catvaryaryasatyani)
Bốn Sự Thật Cao Quý là:
1- Sự
thật về khổ đau (duhkhasatya): đó là những thứ
khổ đau do vô thường gây ra, như già nua, bệnh
tật và cái chết, khổ đau vì không thực hiện được
đúng với sự mong muốn của mình, khổ đau vì phải
gánh chịu những gì mình không thích.
2- Sự
thật về nguyên nhân của khổ đau (duhkhasamudayasatya):
nguyên nhân gây ra khổ đau là sự thèm muốn và
mọi thứ xúc cảm bấn loạn phát sinh từ sự u mê và
thiếu hiểu biết về bản thể đích thật của chính
mình và của mọi sự vật chung quanh.
3- Sự
thật về sự chấm dứt khổ đau (nirodhasatya): làm
chấm dứt các nguyên nhân mang lại khổ đau là một
việc có thể thực hiện được. Loại bỏ được sự u mê
tức là sự hiểu biết sai lầm của mình là cách
mang lại cho mình niềm an vui và sự an bình của
Niết Bàn.
4- Sự
thật của Con Đường Cao Quý (Arya-Astangika-Marga):
tức là con đường hay phương cách giúp chữa khỏi
căn bệnh u mê và thiếu hiểu biết của mình. Căn
bệnh ấy hay sự thiếu hiểu biết ấy chính là
nguyên nhân gây ra mọi thứ khổ đau. Con Đường
Cao Quý đó gồm có Tám Điều Đúng Đắn (Bát Chính
Đạo) cần phải thực hiện.
Khái niệm về Tám Điều Đúng Đắn (Margasatya)
Tám
Điều Đúng Đắn gồm có:
1- hiểu
biết đúng (samyag drsti)
2-
suy nghĩ đúng (samyak samkalpa)
3-
ăn nói đúng (samyag vac)
4-
hành động đúng (samyak karmanta)
5-
sinh sống đúng (samyag ajiva)
6-
cố gắng đúng (samyag vyayama)
7-
chú tâm đúng (samyak smrti) (có nghĩa là ý thức
đúng được bản chất của chính mình và mọi sự vật)
8- tập trung tâm thần đúng (samyak
samadhi) (có nghĩa là thiền định đúng)
Tám Điều Đúng Đắn trên đây liên quan
đến ba lãnh vực khác nhau: trí tuệ (điều 1 và
2), đạo đức (điều 3, 4 và 5), tâm thần (điều 7
và 8). Đấy là ba lãnh vực tu tập chính yếu nhất
của tất cả những người Phật Giáo.
Trước hết người tu tập phải thấu triệt
thế nào là Bốn Sự Thật Cao Quý, sau đó là bước
theo Con Đường của Tám Điều Đúng Đắn. Dù sao
điều quan trọng hơn hết là phải quán thấy được
bản chất đích thật của chính mình, bản chất ấy
là "không có cái tôi" hay còn gọi là bản chất "vô
ngã". Chữ "ngã" là tiếng Hán, tiếng Phạn là
atman, là "cái tôi" hay cái "của tôi". Đức Phật
dạy rằng "cái tôi" hay "cái ngã" không phải là
một thực thể hiện hữu một cách trường tồn và độc
lập, mà đơn giản chỉ là một sự tạo dựng tạm thời
của tâm thức. Vậy "cái tôi" hay "cái ngã" thật
sự là gì?
Khái niệm về cái tôi (atman)
Khi
ta trèo lên một cái thang hay đứng trên sân
thượng của một tòa nhà nhiều tầng và nhìn xuống
đất thì có thể sẽ bị chóng mặt vì sợ ngã, đấy là
một hình thức phát lộ của "cái tôi". Ngược lại
khi ta đứng trên mặt đất bằng phẳng thì thể dạng
ấy của "cái tôi" không hiện ra, ta cảm thấy an
tâm hơn, và đấy lại là "cái tôi" trong một thể
dạng khác đang hiển hiện. Khi băng qua đường ta
nhìn bên phải, bên trái, trông trước, trông sau
để tránh xe cộ, thế nhưng nếu thấy con đường
vắng tanh thì ta an tâm hơn và cứ băng xéo qua
đường để đến nơi mình muốn nhanh hơn, đấy là
cách phát lộ hai thể dạng của "cái tôi" trong
hai trường hợp khác nhau. Nếu một người nào đó
vu khống hay nói những lời xúc phạm đến mình thì
ta bừng bừng nổi giận, hoặc ngược lại nếu người
này nói lên những lời tâng bốc thì sẽ khiến mình
vui thích, hớn hở, đấy cũng là những cách phát
lộ khác nhau của các "cái tôi". Nếu một người
thanh niên nói với một thiếu nữ một câu tán tỉnh
dịu dàng thì cô nàng đỏ mặt, đôi mắt chớp chớp,
đấy là sự phát lộ của cái tôi nơi người thiếu nữ.
Một người thất tình và chỉ muốn tự tử thì đấy là
"cái tôi" đang xúi dục người ấy. Một người mất
trí ngồi khóc hay cười sằng sặc một mình thì đấy
là một cái tôi lâm vào tình trạng "điên loạn".
Khi trông thấy những thức ăn ngon hay hàng hóa
đắt tiền bày bán trong các cửa hàng thì mình
muốn được ăn những thức ăn ấy hay chiếm hữu
những vật ấy, đấy là "cái tôi" biểu lộ sự thèm
khát của nó. Một thanh niên trông thấy một cô
gái đẹp, thì "cái tôi" sẽ hiện ra xuyên qua một
số ý nghĩ nào đó trong đầu. Một thiếu nữ ngắm
nhìn chân dung mình trong gương, nghiêng đầu,
vén tóc, mỉm cười... để xem mình có duyên dáng
hay không, thì đấy cũng là cách cố tình biểu lộ
"cái tôi" và lo lắng cho những cái "của tôi" của
chính mình, v.v. và v.v... Đối với các phản ứng
đại loại hiện ra liên tiếp trong tâm thức đưa
đến những phản ứng và các cách hành xử thường
nhật như trên đây thì đấy là "cái tôi" hay cái
"của tôi" của chính mình.
Nếu
có ai gọi đúng tên mình thì mình quay đầu lại
ngay, đấy là cách tự đồng hóa tên gọi của mình
với "cái tôi" của mình. Cha mẹ tùy hứng sinh ra
ta và cũng tùy hứng đặt cho ta một tên gọi. Càng
lớn lên cái tên gọi ấy càng ăn sâu và in đậm
trên dòng tiếp nối của tri thức và trở nên "cái
tôi" của chính mình. Ta tự buộc chặt mình vào
cái tên gọi ấy, bám vào nó như một thứ gì đó
thuộc gia tài riêng của mình. Nó tạo ra cho ta
cái cảm tính chính mình là "chủ nhân ông" của
cái tên gọi ấy. Có những chàng mang tên rất oai
hùng thế nhưng mỗi khi trông thấy ma hiện hình
thì mặt mày xanh mét. Có những nàng mang tên rất
dịu hiền thế nhưng mỗi khi cãi nhau tay đôi thì
không thua ai cả. Nếu xem cảm tính về cái mớ hỗn
tạp ấy gồm có tên gọi và những thứ phản ứng như
vừa kể trên đây là "cái tôi" của chính mình thì
đấy là một sự lầm lẫn to lớn.
Bám
víu vào sự tạo dựng sai lầm đó là cách tự giam
mình vào những khổ đau của chính mình. Làm giảm
bớt đi tác động của các thứ xúc cảm níu kéo ấy
và đồng thời phát huy được sự tỉnh giác thì các
hình thức ích kỷ mang tính cách bản năng sâu kín
ấy của "cái tôi" cũng sẽ giảm bớt đi. Nếu xóa bỏ
được hình ảnh của "cái tôi" do mình tạo dựng ra
nhờ cách quán thấy được tính cách cấu hợp tạm
thời của năm thành phần (ngũ uẩn) tạo ra một cá
thể con người thì tính cách ảo giác và giả tạo
của "cái tôi" và cái "của tôi" cũng sẽ hiện ra
rõ rệt hơn.
Đức
Phật bảo rằng tất cả những thứ ấy không thật,
không hiện hữu một cách tự tại và bất biến và
cũng không trường tồn. Chúng chỉ là những biểu
lộ tạm thời phát sinh từ vô số cơ duyên và điều
kiện liên kết với nhau: từ bối cảnh bên ngoài
cho đến các xung năng và tác ý bên trong tâm
thức cũng như sự vận hành chung của năm thứ cấu
hợp tạo ra mỗi cá thể con người.
Tu
tập để loại bỏ sự chi phối của "cái tôi" và cái
"của tôi" chính là khía cạnh chủ yếu trong giáo
lý "vô ngã" mà Đức Phật đã thuyết giảng trong
bài kinh Anattalakkhana-sutta (Kinh về
Giáo Lý Vô Ngã).
Khái niệm về vô thường (anitya)
Ngoài giáo lý về "vô ngã" trên đây Đức Phật còn
cho chúng ta thấy một quy luật thiên nhiên vô
cùng phổ quát chi phối toàn bộ sự vận hành của
thế giới, đấy là bản chất vô thường của mọi hiện
tượng, tức là bản chất thường xuyên biến động và
đổi thay của mọi sự vật. Bên trong sự chuyển
động thường xuyên đó còn tàng ẩn một quy luật vô
cùng khắt khe là quy luật của nghiệp hay quy
luật nguyên-nhân-hậu-quả luôn chi phối và điều
hành toàn bộ thế giới.
Nêu
lên tính cách vô thường của mọi hiện tượng là
cách mà Đức Phật nhắc nhở chúng ta phải ý thức
được sự quý giá của thể dạng con người mà chúng
ta đang hiện có, bởi vì trên dòng luân lưu và
biến đổi liên tục của tri thức, không mấy khi
chúng ta hội đủ điều kiện để đạt được thể dạng
con người. Cái thể dạng ấy chỉ xảy ra và chỉ có
thể hiện hữu trong một khoảng thời gian thật
ngắn. Long Thụ có nói như sau: "Một con thú
muốn hội đủ điều kiện để trở thành con người
cũng khó khăn như một con rùa mù lòa lặn ngụp
dưới đáy đại dương muốn chui đầu vào một cái ách
bằng gỗ nổi trôi trên mặt nước" (trích trong
Mulamadhyamaka- karika). Thể dạng
con người thật khó để có nó thế nhưng chỉ có thể
dạng ấy mới hội đủ khả năng để hiểu được Đạo
Pháp là gì.
Tóm
lại trong vòng quay thứ nhất của bánh xe Đạo
Pháp Đức Phật đã nêu lên bản chất khổ đau của sự
hiện hữu và các khái niệm liên quan đến luân hồi
và niết bàn và các nguyên tắc đạo đức liên quan
đến hành vi của một cá thể. Các khái niệm này
được thiết lập trên nguyên tắc tương phản: tương
phản giữa thể dạng trói buộc và khổ đau của "cõi
luân hồi" (samsara) và thể dạng an bình và giải
thoát của "cõi niết bàn" (nirvana); tương phản
giữa tính cách tiêu cực và tích cực trong từng
hành động, ngôn từ và tư duy của mỗi cá thể. Sự
tương phản phổ quát đó giúp cho mỗi cá thể ý
thức được thế nào là một hành động đúng, thế nào
là một hành động sai, hầu tự mình kiểm soát lấy
hành vi của chính mình. Qua từng hành động, ngôn
từ và tư duy mỗi cá thể phải tạo ra những điều
tích cực và đạo hạnh, đấy là những gì sẽ tác
động và ảnh hưởng đến dòng tiếp nối liên tục của
tri thức của mình trong hiện tại cũng như trong
các kiếp sống tương lai. Đấy là căn bản giáo
huấn đầy đủ, trọn vẹn và thiết thực của vòng
quay thứ nhất nhằm giúp cho mỗi cá thể nhận thấy
Con Đường mà mình phải bước theo.
Căn
bản giáo huấn trên đây được gom chung vào hai
tạng kinh là Vinayapitaka (Luật Tạng)
và Suttapitaka (Kinh Tạng). Hai
tạng kinh này làm nền tảng cho toàn bộ giáo huấn
của Phật Giáo "Nguyên Thủy" còn gọi là Phật Giáo
"Tiểu Thừa". Thật ra cả hai thuật ngữ khá quen
thuộc và thông dụng này đều không được chính xác
lắm, do đó tốt hơn hết nên gọi tông phái này là
Phật Giáo Theravada.
Ngoài hai tạng kinh trên đây, vòng quay thứ nhất
còn gồm thêm một tạng thứ ba là
Abhidhammapitaka (Luận Tạng).
Abhidhammapitaka không hẳn là một tạng kinh,
bởi vì những gì ghi chép không phải là những lời
giảng huấn của Đức Phật mà chỉ là những lời bình
giảng về giáo huấn của Ngài do các vị đại sư sau
này soạn thảo. Có một giả thuyết cho rằng một
phần những lời bình giảng trong Luận Tạng
có nguồn gốc rất xưa, từ những thời kỳ truyền
khẩu, thế nhưng phần lớn những lời bình giảng
đều là những trước tác sau này. Dù sao thì Phật
Giáo Theravada vẫn xem các văn bản trong Luận
Tạng là những gì thật thiết yếu giúp thấu
triệt giáo huấn của Đức Phật, và do đó đã chấp
nhận toàn bộ ba tạng kinh trên đây và xem đấy là
một nền tảng giáo huấn đầy đủ và mạch lạc, không
cần phải ghép thêm bất cứ một kinh sách nào
khác. Ba tạng kinh trên đây được gọi chung là
Tam Tạng Kinh (tiếng Pa-li là Tipitaka,
tiếng Phạn là Tripitaka). Dù sao đi nữa
thì tất cả các tông phái và học phái Phật Giáo
khác cũng đều thừa nhận Tam Tạng Kinh của
vòng quay thứ nhất là nền móng giáo huấn của Đức
Phật và do chính Đức Phật thuyết giảng.
2- Vòng quay thứ hai của bánh xe Đạo Pháp:
Tánh không và Quy Luật Tương Liên
Nếu vòng quay thứ nhất nêu lên bản
chất khổ đau của thế giới, các nguyên tắc vận
hành của mọi hiện tượng và hậu quả do hành vi
của mỗi cá thể tự tạo ra cho mình với mục đích
giúp mỗi cá thể ý thức được Con Đường cần phải
bước theo, thì vòng quay thứ hai cũng vẫn tiếp
tục khai triển sâu rộng hơn căn bản giáo huấn
trên đây thế nhưng đồng thời cũng đưa ra nhiều
cách diễn đạt mới về căn bản giáo huấn trên đây
và do đó cũng đã đưa đến một số đổi thay nhất là
trên phương diện tu tập. Thật vậy vòng quay thứ
hai trùng hợp với sự lớn mạnh của Đại Thừa Phật
Giáo và sự hình thành của một tông phái mới là
Trung Quán Tông. Do đó một số khái niệm liên
quan đến Đại Thừa và Trung Quán Tông cũng đã
được hình thành, trong số các khái niệm này có
lẽ khái niệm về người Bồ-tát là quan trọng nhất,
ít ra là trên phương diện tu tập.
Trên phương diện giáo huấn, sự kiện
quan trọng nhất đã xảy ra trong vòng quay thứ
hai là sự hình thành của Trung Quán Tông do Long
Thụ sáng lập vào thế kỷ thứ II. Tông phái này đã
đánh dấu một giai đoạn phát triển mới trên dòng
lịch sử Phật Giáo. Nếu trong vòng quay thứ nhất
Đức Phật đã nêu lên tính cách "vô ngã" hay "tánh
không" của cá thể con người (pudgalashunyata)
thì nét nổi bật nhất trong vòng quay thứ hai là
Trung Quán Tông đã mở rộng khái niệm này bằng
cách nêu lên tính cách "vô ngã" hay "tánh không"
của tất cả mọi hiện tượng (dharmashunyata).
Ngoài cách giải thích mở rộng đó về tánh không
người ta còn thấy một cách giải thich mới về
khái niệm "hai sự thật" và sự xuất hiện của khái
niệm về sự tương liên giữa các hiện tượng (lý
duyên khởi).
Khái niệm về tánh không (sunyata)
Khái niệm về tánh không không phải đơn
giản chỉ là một thể dạng quán thấy của tâm thức,
cũng không phải là một lý tưởng mà người tu tập
phải đạt cho bằng được, mà đúng hơn là một
phương tiện cụ thể và "thiện xảo" (upaya) giúp
người tu tập phát huy khả năng quán thấy cách
hiện hữu đích thật của mọi hiện tượng. Thể dạng
hiện hữu ấy vượt lên trên sự khẳng định cũng như
phủ định, có nghĩa là khi nhìn vào một hiện
tượng chúng ta không thể bảo rằng nó "có" hay "không
có", bởi vì "có" hay "không có" cũng chỉ là
những biểu hiện tạm thời lệ thuộc vào sự tương
tác của vô số các hiện tượng khác. Lúc thì "có"
lúc thì "không có" chính là tánh không của tất
cả mọi hiện tượng. Quán thấy được tánh không ấy
sẽ khiến cho tâm thức của một cá thể không còn
bám víu vào sự "hiện-hữu" cũng như "không-hiện-hữu"
của mọi sự vật và không còn xem mình
là
trung tâm của thế giới.
Đây cũng là cách mở rộng tình nhân ái và lòng từ
bi hầu giúp một cá thể phát huy trí tuệ của mình.
Đức Phật thuyết giảng giáo huấn về
tánh không trên đỉnh Linh Thứu ở Rajagrha, và
những lời giảng này đã được ghi chép lại trong
bộ kinh thật đồ sộ là Prajnaparamita-sutra
("Kinh về sự hiểu biết siêu nhiên", dịch
âm là Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa). Bộ kinh
này gồm có nhiều bài kinh được ghép chung và
được trình bày với nhiều phiên bản khác nhau, có
những phiên bản rút ngắn gồm vài mươi câu nhưng
cũng có những phiên bản thật dài gồm vài chục
nghìn câu. Nội dung của bộ kinh này là nêu lên
sự "hiểu biết siêu nhiên" (prajnaparamita) tức
là các kinh nghiệm cảm nhận trực tiếp về tánh
không nhờ vào sự chú tâm trong sáng và minh bạch
của tâm thức. Sự "hiểu biết siêu nhiên" là sự
quán thấy hoàn hảo và đúng thật về hiện thực,
phản ảnh thể dạng tâm thức nguyên sinh, tự nhiên
và sâu kín nhất của chính mình.
Khái niệm về sự tương liên (pratityasamutpada)
Thật ra thì khái niệm này cũng đã được
chính Đức Phật nêu lên trong các kinh Nidana
và Mahanidana-sutta (Kinh ngắn
và Kinh dài về Lý Duyên Khởi), thế nhưng
Long Thụ đã triển khai rộng rãi khái niệm này và
đặt vào một vị trí thật quan trọng trong giáo lý
của Trung Quán Tông. Khái niệm tương liên
(interdependence / lý duyên khởi) nêu lên sự vận
hành mang tính cách tương liên, tương kết và
tương tạo giữa mọi hiện tượng, chi phối và điều
hành bởi quy luật "nguyên-nhân-hậu-quả". Sự vận
hành trói buộc đó giữa các hiện tượng còn được
gọi là "sự tạo tác tương liên" (production
interdependante / dependent origination) hay "sự
tạo tác do điều kiện mà có" (production
conditionnée / conditioned production).
Một cách vắn tắt là tất cả mọi hiện
tượng đều mang tính cách cấu hợp nhờ vào sự
tương liên và tương kết của vô số hiện tượng
khác mà có, và chính các hiện tượng này lại tạo
ra những điều kiện cần thiết để làm phát sinh ra
các hiện tượng khác. Tóm lại là các hiện tượng
níu kéo nhau, xô đẩy nhau để cùng vận hành và
chuyển động, tương tự một chuỗi dài các hiện
tượng móc nối nhau trong một tình trạng đổi thay
bất tận. Sự kiện trên đây cho thấy mọi hiện
tượng trong thế giới không do sức mạnh của một
vị Trời tối thượng và trường tồn nào cả đã tạo
ra, mà chỉ là hậu quả tất yếu mang lại từ sự
tương tác giữa các nguyên nhân và các điều kiện
liên hệ với những hiện tượng ấy. Điều này cho
thấy rằng chẳng những các hiện tượng đều là cấu
hợp và vô thường mà cả các nguyên nhân và điều
kiện tạo ra chúng cũng mang bản chất cấu hợp và
vô thường.
Khái niệm về hai sự thật (dvasatya)
Nói chung Phật giáo nhìn sự hiện hữu
hay hiện thực dưới hai góc cạnh khác nhau gọi là
"hai sự thật" hay "hai hiện thực": "hiện thực
tương đối" và "hiện thực tuyệt đối". Tất cả các
học phái lớn như Theravada, Vaibhasika (Tì-bà-sa
luận), Sautrantika (Kinh lượng bộ) thuộc vòng
quay thứ nhất, Madhyamaka (Trung Quán Tông)
thuộc vòng quay thứ hai, và Cittamatra (Duy
Thức Học), Vajrayana (Kim Cương Thừa), Thiền Học
thuộc vòng quay thứ ba, tất cả đều nêu lên khái
niệm này, thế nhưng tất cả lại đều đưa ra các
cách giải thích khác nhau. Sau đây là cách giải
thích về hai sự thật của Trung Quán Tông.
"Hiện thực tương đối" (samvrtisatya)
nguyên nghĩa của nó là "hiện thực bao bọc bên
ngoài" còn gọi là "hiện thực quy ước", tức là
cách biểu lộ bên ngoài của mọi hiện tượng, hay
nói một cách đơn giản hơn thì đấy là những gì
"nhìn thấy bằng mắt". Thật ra thì những thứ ấy
chỉ là những biểu hiện tạm thời phát sinh từ sự
tương liên và tương tạo giữa các hiện tượng, chi
phối bởi quy luật nguyên-nhân-hậu-quả. Tất cả
các hiện tượng nhận biết được qua các biểu hiện
bên ngoài như trên đây đều thuộc vào lãnh vực
của sự thật tương đối.
"Hiện thực tuyệt đối"
(paramarthasatya) hay "hiện thực tối hậu" chỉ
định bản chất đích thật của mọi hiện tượng.
Những người bình dị thường không nhận biết được
sự khác biệt giữa hai sự thật tương đối và tuyệt
đối của mọi sự vật, bởi vì họ chỉ cảm nhận được
duy nhất hiện thực tương đối xuyên qua các giác
quan của họ. Cũng xin nhắc lại là Phật Giáo xem
tâm thức cũng là một giác quan và do đó các đối
tượng của nó là tư duy và xúc cảm cũng chỉ là
những sự thật tương đối.
Trung Quán Tông cho rằng hiện thực tuyệt đối
chính là tánh không của tất cả mọi hiện tượng.
Tri thức (consciousness) của một cá thể cũng là
một hiện tượng và "cái ngã" hay "cái tôi" do tâm
thức tạo dựng ra cũng chỉ là tánh không. Tóm lại
hiện thực tuyệt đối hay tánh không chính là cách
hiện hữu đích thật hay bản chất tự tại của mọi
hiện tượng.
Cũng xin lưu ý là các cách định nghĩa
và giải thích khác nhau về hai sự thật hay hai
hiện thực là một trong những nguyên nhân và lý
do chính yếu nhất đã làm phát sinh ra các tông
phái và học phái khác nhau. Đây là một chủ đề
khá phức tạp không thể giải thích chi tiết trong
khuôn khổ của bài viết này và sẽ chỉ được nhắc
lại một cách sơ lược khi trình bày về một số
tông phái lớn mang tính cách triết học trong các
phần sau.
Khái niệm Bồ-tát (bodhisattva)
Khái niệm về Bồ-tát là một trong những khái niệm
tiêu biểu của "Đại Thừa" nói chung, tuy nhiên
Phật Giáo "Nguyên Thủy" hay Theravada cũng có
nêu lên khái niệm
này, thế nhưng lại cho rằng
phép tu tập của Bồ-tát
nhằm đạt được sự Giác Ngộ tối thượng của một vị
Phật toàn thiện sẽ vô cùng khó khăn, trong khi
đó phép tu tập để trở thành một vị A-la-hán sẽ
dễ dàng và thực tế hơn. Thật vậy Bồ-tát đặt ra
cho mình một lý tưởng quá cao, tức là không cầu
mong đạt được thể dạng A-la-hán, cũng sẽ không
hội nhập vào niết bàn, mà chỉ ước nguyện được
trở thành một vị Phật toàn thiện (Samyaksambudha
/ Chánh đẳng chánh giác Phật) và sau đó cũng sẽ
tiếp tục lưu lại trong thế gian này muôn vạn
kiếp hầu có thể cứu độ chúng sinh một cách hữu
hiệu hơn.
Tóm lại vòng quay thứ hai đánh dấu một
giai đoạn phát triển thật quan trọng của Đạo
Pháp với sự hình thành của Đại thừa Phật Giáo và
học thuyết Trung Quán do Long Thụ sáng lập, một
học thuyết mang nhiều khía cạnh triết học thật
sâu sắc.
3- Vòng quay thứ ba của bánh xe Đạo Pháp:
Bản-thể-của-Phật, tất cả chỉ là tâm thức, ba bản
chất của mọi hiện tượng
Vòng quay thứ ba của bánh xe Đạo Pháp
đánh dấu một giai đoạn phát triển có thể nói là
hưng thịnh nhất của Đạo Pháp với sự xuất hiện
của nhiều khái niệm mới và thật căn bản như: "Bản-thể-của-Phật"
(Tathagatagarbha), "tất cả chỉ là tâm thức" (cittamatra),
"ba bản chất của mọi hiện tượng" (trilaksana),v.v...
Vậy các khái niệm này là gì?
Khái
niệm về Bản-thể-của-Phật (Tathagatagarbha)
Nếu trong vòng quay thứ nhất, Đức Phật
nêu lên giáo lý về vô ngã tức là không có "cái
tôi" và nếu trong vòng quay thứ hai giáo lý này
được mở rộng và nêu lên một tầm nhìn mang tính
cách thật bao quát liên quan đến sự trống không
của tất cả mọi hiện tượng, thì trong vòng quay
thứ ba khái niệm về tánh không lại được hình
dung theo một chiều hướng hoàn toàn mới mẻ qua
những khái niệm thật cụ thể và tích cực gọi là
Bản-thể-của-Phật, Phật tính, v.v...
Chúng ta đã thấy trong vòng quay thứ
hai trên đây các phép tu tập được hướng vào sự
quán thấy tánh không tuyệt đối với mục đích hóa
giải một quy luật vô cùng phức tạp và chặt chẽ
gọi là "quy luật tương liên, tương tác và tương
tạo giữa mọi hiện tượng" trong đó gồm chung quy
luật "nhân-quả", với mục đích nhằm loại bỏ mọi
nguyên nhân mang lại khổ đau, và phép tu tập này
được gọi là "con đường tiêu cực". Trái lại trong
vòng quay thứ ba một đường hướng tu tập mới mang
tính cách tích cực hơn đã được hình thành. Tánh
không tuyệt đối và tối thượng được thay bằng một
khái niệm cụ thể hơn, đó là Bản-thể-của-Phật còn
gọi là Như Lai Tạng, Phật tính, Chân Như, Hiện
Thực, Pháp Thân, v.v... Phép tu tập này gọi là
"con đường tích cực".
Sự
cụ thể hóa hay "vật thể hóa" (chosification /
reification) tánh không để biến nó trở thành
Bản-thể-của-Phật là một sự kiện vô cùng quan
trọng giúp người tu tập phát lộ dễ dàng hơn các
thể dạng tâm thần cần thiết cho việc biến cải
tâm thức của mình, tương tự như không gian thật
cần thiết để giúp cho mọi hiện tượng có thể hiển
hiện dưới muôn ngàn hình sắc khác nhau. Tóm lại
cách quán nhìn linh động và tích cực đó về tánh
không mang lại cho người tu tập những khả năng
thiết yếu giúp mình hình dung ra các thể dạng
vượt lên trên cả hai đặc tính vừa trống-không
lại vừa không-trống-không của mọi hiện tượng,
nói một cách khác là vượt lên trên sự hiện-hữu
và phi-hiện-hữu của hiện thực, kể cả các thứ
nhãn hiệu bằng ngôn từ quy ước mà chúng ta đem
gán cho chúng. Đấy cũng chính là cách giúp cho
người tu tập hiểu được ý nghĩa của một câu thật
nổi tiếng trong Tâm Kinh: "Trống không là
hình tướng, hình tướng là trống không".
Trong vòng quay thứ hai tánh không
được xác định bởi các cách lý luận dựa vào sự
vào nguyên tắc bất hợp lý gọi là tứ đoạn luận do
Long Thụ đưa ra. Các cách lý luận này được xem
như là một phương tiện giúp người tu tập phá vỡ
mọi sự tạo dựng của tâm thức dựa vào sự hiểu
biết công thức và quy ước. Thật vậy chỉ khi nào
loại bỏ được mọi hình thức hiểu biết áp đặt bởi
nguyên tắc nhị nguyên - có nghĩa là phải có chủ
thể hiểu biết và đối tượng để hiểu biết - thì
khi đó bản chất của hiện thực mới có thể hiện ra
được. Chính đấy là cách mà căn bản giáo huấn
trong vòng quay thứ ba đã cho rằng bản chất ấy
của hiện thực cũng chính là bản chất nguyên sinh
phi-nhị-nguyên của tâm thức. Sự nhất thể ấy giữa
hiện thực và tâm thức mang tính cách rất thực và
tròn đầy và được xem là sự "viên mãn của tánh
không" (plenitude of emptiness). Thể dạng tâm
thức quán thấy được, hay cảm nhận được sự tròn
đầy (plenitude / fullness) ấy của tánh không
chính là Bản-thể-của-Phật hay Phật tính.
Sự chuyển hướng này của vòng quay thứ
ba vừa mang tính cách thực dụng lại vừa mang
những khía cạnh tâm lý học thật tinh tế, và cũng
đã báo hiệu rõ rệt sự xuất hiện của các tông
phái lớn là Duy Thức Học, Kim Cương Thừa và
Thiền Học. Ngoài ra khái niệm về
Bản-thể-của-Phật hay Như Lai Tạng, Phật Tính,
Pháp Thân... còn tàng ẩn bên trong nó một thể
dạng thiêng liêng nào đó. Chính tính cách thiêng
liêng này đã ảnh hưởng đến các phép tu tập và đã
làm phát sinh ra nhiều hình thức nghi lễ đủ loại
và do đó cũng đã góp phần tích cực chuyển dần
Đạo Pháp của Đức Phật trở thành một tôn giáo
theo ý nghĩa ngày nay.
Khái niệm Bản-thể-của-Phật chỉ bắt đầu
được nêu lên thật rõ ràng và dứt khoát kể từ thế
kỷ thứ III trong các kinh như:
Tathagatagarbha-sutra (Như Lai Tạng Kinh,
khoảng đầu thế kỷ thứ III),
Shrimaladevishimhanada-sutra (Kinh về
hoàng hậu Maladevi và tiếng rống của sư tử, còn
được gọi tắt là Thắng Man Kinh),
Avatamsaka-sutra (Hoa Nghiêm Kinh,
thế kỷ thứ III)... Ngoài ra khái niệm về Phật
Tính hay Bản-thể-của-Phật cũng đã được đặc biệt
chú trọng và triển khai thật sâu rộng trong tập
luận Uttaratantra-sastra còn gọi là
Ratnagotravibhaga (Bảo tính luận, thế
kỷ thứ IV hay thứ V). Theo truyền thuyết thì tập
luận này do Phật Di Lặc trao truyền cho Vô Trước
khi vị này lên viếng khung trời Đâu Suất. Sau đó
Vô Trước đã ghi lại bằng chữ viết vào thế kỷ thứ
IV. Thế nhưng tập luận này lại biến mất rất sớm
và chỉ được tìm thấy sáu thế kỷ sau, tức là vào
thế kỷ XI, và cũng đã được dịch sang tiếng Tây
Tạng vào thế kỷ này. Thế nhưng theo Phật Giáo
Trung Quốc thì tập luận trên đây được trước tác
bởi một vị đại sư người miền Nam nước Ấn là
Sthiramati (kinh sách tiếng Hán gọi là ngài An
Huệ, 475-555) và đã được dịch sang Hán văn vào
năm 511. Sở dĩ nêu lên một vài chi tiết về
trường hợp khá tiêu biểu trên đây là để cho thấy
truyền thuyết và các dữ kiện lịch sử thường đan
vào nhau trên dòng lịch sử phát triển của Phật
Giáo. Uttaratantra-sastra là một tập luận
trình bày thật sâu sắc các phẩm tính liên quan
đến Bản-thể-của-Phật. Tập luận này cũng là một
trong những văn bản chính yếu nhất đưa đến sự
hình thành của Kim Cương Thừa.
Khái niệm về Bản-thể-của-Phật hay Phật
tính cũng đã được trình bày chi tiết trong kinh
Lankavatara-sutra (Nhập Lăng Già Kinh)
và kinh này được xem như do chính Đức Phật
thuyết giảng khi Ngài đến Tích Lan. Thế nhưng
dựa vào một số dữ kiện lịch sử thì kinh này có
thể đã được trước tác nhiều lần kể từ thế kỷ thứ
I đến thứ III. Dù sao thì kinh này cũng cho thấy
thật rõ rệt là nội dung thuộc giáo huấn của vòng
quay thứ ba, và bản dịch tiếng Hán đầu tiên của
kinh này đã được thực hiện vào năm 443, tức cũng
trùng hợp với vòng quay thứ ba.
Lankavatara-sutra cũng là bộ kinh mà sau này
Bồ-đề Đạt-ma đã dùng làm nền tảng để thiết lập
Thiền Tông tại Trung Quốc.
Phật Tính cũng đã được triển khai
trong kinh Mahaparinirvana-sutra (Đại
Bát Niết Bàn Kinh, đầu thế kỷ thứ III) và
trong kinh Sanmdhinirmocana-sutra (Giải
thâm mật kinh, thế kỷ thứ I-III) là một bộ
kinh căn bản của Duy Thức Học (Cittamatra). Các
phiên bản sơ khởi và xưa nhất của kinh này có
thể đã được trước tác từ thế kỷ thứ I hay thứ
II, phiên bản sau cùng được hoàn tất vào thế kỷ
thứ III và Vô Trước cũng có viết một tập bình
giải về kinh này vào thế kỷ thứ IV.
Khái niệm "tất cả đều là tâm thức" (cittamatra)
Một sự diễn đạt mới và quan trọng thứ
hai về Đạo Pháp thuộc vòng quay thứ ba là khái
niệm cho rằng "tất cả đều là tâm thức". Điều
này có nghĩa là mỗi khi tri thức nhận biết được
một hiện tượng nào đó thì tức khắc nó dán ngay
lên hiện tượng đó một nhãn hiệu và xem hiện
tượng ấy thuộc vào lãnh vực bên ngoài nó và hoàn
toàn cách biệt với nó. Thí dụ những dòng chữ này
mà chúng ta đang đọc trên màn ảnh máy tính và
tưởng rằng đấy là một thực thể cách biệt không
liên hệ gì với tri thức của chính mình, bởi vì
đó chỉ là một bài viết của một người tên là X
hay Y nào đó. Thế nhưng tính cách bên ngoài ấy
chỉ là một khái niệm đơn thuần, hay nói cách
khác là một sự "tưởng tượng", bởi vì đấy chỉ là
một nhãn hiệu phát sinh trong tâm thức người đọc
và do chính người đọc đã gán cho những gì mà
mình đang đọc. Sự thấu triệt mà mỗi người đọc
tiếp nhận được đều mang tính cách cá biệt, sự
thấu triệt đó đã được nhào nặn và biến đổi trong
tâm thức của từng người và đã trở thành một sản
phẩm của tâm thức của chính người ấy. Vô Trước
có viết một câu như sau: "Tùy theo vị thế của
mình, các thiên nhân, con người, súc vật hay quỷ
đói khi đối diện với một đối tượng duy nhất đều
phát lộ những tư duy hoàn toàn khác biệt nhau.
Do đó có thể kết luận rằng đối tượng không thật
sự hiện hữu".
Những dòng chữ này mà người đọc đang
đọc trên màn ảnh máy vi tính trước mặt mình chỉ
là một sản phẩm hay một sự tạo dựng lệ thuộc vào
vô số nguyên nhân và điều kiện: chẳng hạn như
những gì thuộc vào người viết thí dụ như học vấn,
sức khoẻ, quyết tâm, xúc cảm trong lòng của
người ấy..., và những gì thuộc vào người đọc như
cơ duyên, sự tò mò, thì giờ rãnh rỗi, cũng như
khả năng chú tâm của mình. Đấy là chưa nói đến
những điều kiện vật chất như chiếc máy vi tính,
mạng lưới Internet, v.v. và v.v... Những gì vừa
trình bày chính là bản chất lệ thuộc và cấu hợp
của những dòng chữ này. Mặc dù chúng có vẻ như
thuộc bên ngoài và khác với tâm thức của mỗi
người, thế nhưng tri thức nhận biết được chúng
cũng như đối tượng mà chính cái tri thức ấy nhận
biết được - tức là các dòng chữ này - thật ra
không hàm chứa một sự hiện hữu tự tại nào cả. Sự
hiện hữu của chúng chẳng những không mang một
thực thể nào mà thật ra chỉ là những biểu hiện
của tánh không. Những biểu hiện của sự trống
không ấy chính là "bản chất được thiết đặt một
cách hoàn hảo" của mọi hiện tượng bên trong tâm
thức của mỗi cá thể.
Tất cả kinh điển thuộc vòng quay thứ
ba của bánh xe Đạo Pháp đều nói lên khái niệm
trên đây: tất cả những gì mà chúng ta quán nhận
được, hình dung ra được đều là tâm thức. Trong
kinh Dashabhumika-sutra (Thập Địa Kinh,
ch.VI, phẩm 3) có một câu như sau: "Tất cả
những gì hiện hữu trong tam giới nhất thiết chỉ
là tâm thức đơn thuần" (tam giới ở đây có nghĩa
là ba cõi của luân hồi: dục giới, sắc giới và vô
sắc giới). Thiết nghĩ đây là một câu kinh vô
cùng quan trọng. Vị đại sư Thái Lan thật uyên
bác là Buddhadhasa khi thuyết giảng về luân hồi,
tam giới, v.v... đều cho rằng tất cả những thứ
ấy chỉ là những thể dạng khác nhau thuộc vào quá
trình vận hành liên tục của tâm thức, và đấy
cũng là một cách hiểu về luân hồi và tam giới
dưới góc cạnh của khái niệm "tất cả đều là tâm
thức".
Kinh sách Việt văn gốc Hán văn gọi
khái niệm này là "vạn sự do tâm tạo", thế nhưng
nếu dịch chữ "cittamatra" là "vạn sự do tâm tạo"
thì không được sát nghĩa lắm. Thí dụ tách nước
đặt trên bàn trước mặt ta không do tâm thức "tạo
ra" nó, mà đấy chỉ là một sự "nhận biết" và
"diễn đạt" của tâm thức, mang bản chất tâm thức,
thuộc tâm thức và ở bên trong tâm thức, nhằm áp
đặt cho một thứ gì đó ở bên ngoài, tách nước mà
chúng ta nhận biết được trong tâm thức chỉ đơn
thuần là một khái niệm, một sự tạo dựng của tâm
thức bên trong tâm thức.
Duy Thức Học mang hai tên gọi khác
nhau: nếu căn cứ vào nền tảng giáo lý thì gọi là
Cittamatra (tất cả là tâm thức / đơn thuần chỉ
là tâm thức), hoặc căn cứ vào các phép tu tập
tức là các cách ứng dụng vào việc thiền định thì
gọi là Yogacara (Du-già thiền định). Duy Thức
Học cũng còn được gọi là Vijnanavada (Học Phái
Tri Thức) hoặc Vijnaptimatra (Duy nhất chỉ có tư
duy). Sở dĩ mạn phép dài dòng vì nếu hiểu đúng
được ý nghĩa một thuật ngữ thì cũng có thể đã
giúp mình hình dung ra được phần nào nội dung
của khái niệm ấy.
Ngoài hai khái niệm mới là "Phật tính"
và "tất cả đều là tâm thức" vòng quay thứ ba của
bánh xe đạo Pháp còn cho thấy một khái niệm mới
khá quan trọng khác nữa đó là khái niệm về " ba
bản chất" của mọi hiện tượng.
Khái niệm về "ba bản chất" (trilaksana)
Nếu trong vòng quay thứ hai các hiện
tượng được xem là ảo giác và chỉ hiện hữu nhờ
vào sự tương liên, tương tác và tương tạo giữa
chúng với nhau, thì trong vòng quay thứ ba các
hiện tượng được xem có ba bản chất khác nhau:
- bản chất hoàn toàn mang tính cách
tưởng tượng (parikalpitasvabhava): thí dụ
tri thức tưởng tượng ra một cái "ngã" mang tính
cách cá thể. Cái ngã đó giữ một vai trò chủ động
nhằm gán cho mọi hiện tượng một sự "hiện hữu
thật".
- bản chất lệ thuộc (paratantrasvabhava):
tức là sự lệ thuộc giữa nguyên nhân và hậu quả,
nói cách khác là tính cách lệ thuộc hay trói
buộc giữa các hiện tượng với nhau. Tóm lại là "mỗi"
hiện tượng thật ra biểu trưng cho cả một tổng
thể kết nối gồm vô số các hiện tượng cấu hợp
tương kết với nhau để tạo ra "nó".
- bản chất được thiết đặt một cách
hoàn hảo (parinispannasvabhava): có nghĩa
là các hiện tượng nhận biết đúng như thế trong
bối cảnh tương liên của nó. Hiện tượng ấy đúng
thật là như thế, không có bất cứ một sự diễn đạt
mang tính cách "giả tạo" hay "tưởng tượng" nào
được ghép thêm cho nó. Có thể hiểu "bản chất
thiết đặt một cách hoàn hảo" như là "bản chất
đích thật" của các hiện tượng.
Bộ kinh căn bản của Duy Thức Học là
kinh Samdhinirmocana-sutra (Giải Thâm
Mật Kinh) có đưa ra một thí dụ rất cụ thể và
dễ hiểu: thí dụ một tinh thể pha lê trong suốt
được đặt lên trên một tấm vải màu xanh. Ánh sáng
phản chiếu từ tấm vải màu xanh xuyên qua khối
tinh thể khiến cho nó phát ra màu xanh. Hiện
tượng hay sự cảm nhận về khối tinh thể màu xanh
mang "bản chất lệ thuộc" (paratantrasvabhava).
Nếu chúng ta cho rằng khối tinh thể là màu xanh
có nghĩa là tự nó "có" màu xanh thì đấy là một
sự tưởng tượng, một sự diễn đạt của tâm thức,
ảnh hưởng bởi sự cảm nhận sai lầm về màu xanh
của khối tinh thể. Vì vô minh chúng ta cho rằng
khối tinh thể có màu xanh, thế nhưng đấy chỉ là
một sự tưởng tượng (parikalpitasvabhava).
Sau khi quan sát cẩn thận thì chúng ta nhận thấy
khối tinh thể sở dĩ có màu xanh là vì tấm vải
bên dưới có màu xanh, thật sự ra thì khối tinh
thể vẫn trắng tinh và trong suốt. Do đó ảo giác
cho rằng khối tinh thể là một viên "ngọc bích"
hiện ra trong tâm thức của chúng ta trước đây
cũng sẽ hoàn toàn bị loại bỏ. Sự loại bỏ bản
chất lệ thuộc và tưởng tượng ấy sẽ giúp cho tâm
thức nhận biết được "bản chất được thiết đặt một
cách hoàn hảo" (parinispannasvabhava) về
khối tinh thể.
Tóm lại căn bản giáo lý thuộc vòng
quay thứ ba của Đạo Pháp cho thấy một sự chuyển
hướng thật toàn diện. Nếu tánh không và mọi hiện
tượng trong thế giới được nhìn qua một góc cạnh
khá tiêu cực trong vòng quay thứ hai (tất cả chỉ
là trống không tuyệt đối), thì cả ba khái niệm
mới trong vòng quay thứ ba là "Phật tính", "tất
cả đều là tâm thức" và "ba bản chất" đều mang
một khía cạnh rất thật và tích cực nào đó: một
hạt bụi cũng có Phật tính, "tri-thức-căn-bản-của-tất-cả"
là thể dạng đích thật của tâm thức, bản chất
được thiết đặt một cách vững chắc là bản chất
đích thật của mọi hiện tượng.
Nói
chung vòng
quay thứ ba đặt nặng vai trò của tâm thức trong
mọi sự diễn đạt về thế giới hiện tượng bên ngoài
và cả sự vận hành của chính nó. Khuynh hướng
diễn đạt này đã khoác lên cho Đạo Pháp nhiều
khía cạnh tâm lý học vô cùng sâu sắc và tinh tế.
Trong khi đó thế giới Tây Phương phải chờ đến
cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX mới bắt đầu
chập chững tìm hiểu sự vận hành của tâm thức là
gì và đưa ra khái niệm về tiềm thức
(subconsciousness) qua các công trình khảo cứu
của Sigmund Freud, Carl Jung...
Dưới đây là bảng tóm lược các điểm
chính yếu thuộc ba vòng quay của bánh xe Đạo
Pháp:
Bảng tóm lược ba vòng quay của bánh xe Đạo Pháp
Vòng quay thứ I
(Đức Phật tại thế) |
Vòng quay thứ II
(thế kỷ thứ I trước Tây Lịch đến thế kỷ
thứ III) |
Vòng quay thứ III
(thế kỷ
thứ III-IV đến thế kỷ thứ V-VI và sau đó)
|
giáo lý:
Vô Ngã (Anatman)
- Bốn sự
thật cao quý (Tứ Diệu Đế)
- Không
có cái tôi (vô ngã) |
giáo lý:
Tánh Không (Sunyata)
- Tánh
không (sunyata) -
Hiện tượng tương liên (lý duyên khởi ) |
giáo lý:
Bản-thể-của-Phật (Tathagatagarbha)
- Phật
tính hay Bản-thể-của-Phật (Tathagatagarbha)
- Ba đặc tính
của các hiện tượng (trilaksana)
-
Tất cả đều là tâm thức (cittamatra)
-
Tri-thức-căn-bản-của-tất-cả (Alayavijnana) |
Nền móng
giáo lý của Theravada |
nền móng
giáo lý của Đại Thừa
(trong
các thế kỷ đầu tiên khi mới được hình
thành)
|
nền móng
giáo lý của Duy Thức Học,
Thiền Học, Kim Cương Thừa
(Đại
Thừa nói chung sau thế kỷ thứ III) |
- Bản
chất của cõi luân hồi (samsara)
là khổ đau (dukkha)
- Loại
bỏ ảo giác của cái tôi (atman) có
nghĩa là niết-bàn (nirvana) |
- Cõi
luân hồi (samsara) đối nghịch lại với
cõi niết-bàn (nirvana)
- Tánh
không là bản chất tối hậu của mọi hiện
tượng |
- Thể
dạng viên mãn (tròn đầy) của tánh không.
- Các
hình thức cụ thể hóa và thiêng liêng hóa
tánh không: bản-thể-của-Phật, Như Lai
Tạng, Phật Tính, Chân Như, Hiện Thực,
Pháp Thân, Ánh sáng trong suốt, Trí Tuệ
của Phật, Mạn-đà-la, v.v... |
Kinh
điển chính yếu:
-
Dhammacakka-sutta (Kinh Chuyển
Pháp Luân)
-
Satipatthana-sutta (Kinh Tứ Niệm
Xứ)
- Dhammapada (Kinh Pháp Cú)
|
Kinh điển chính yếu:
- Shalistamba-sutra (Đạo Can
Kinh / Kinh về cọng lúa)
- Prajnaparamita-sutra
(Bát-nhã Ba-la-mật-đa Kinh)
- Vimalakirtinirdesha-sutra (Duy-ma-cật
Sở Thuyết Kinh) |
Kinh điển chính yếu:
- Lankavatara-sutra (Nhập Lăng-già
Kinh)
- Avatamsaka-sutra (Hoa Nghiêm
Kinh)
- Sandhinirmocana-sutra (Giải
thâm mật Kinh)
- Mahaparinirvana-sutra (Đại
Bát Niết-bàn Kinh) |
Bảng liệt kê trên đây cho thấy kinh
sách và căn bản giáo huấn của Đức Phật được phân
loại và sắp xếp thành ba chu kỳ khá rõ rệt. Các
chu kỳ thứ hai và thứ ba cho thấy nhiều nét diễn
đạt mới so với giáo huấn căn bản của vòng quay
thứ nhất, do đó cũng đã làm phát sinh ra nhiều
tông phái và học phái khác nhau. Nếu đứng trên
phương diện thuần túy lịch sử thì vòng quay thứ
nhất biểu trưng cho căn bản giáo huấn của Đức
Phật do chính Đức Phật thuyết giảng khi còn tại
thế. Giáo huấn trong hai vòng quay thứ hai và ba
gồm những cách diễn đạt mới về Đạo Pháp và một
số các khái niệm mới đã được phát sinh sau này
song song với sự hình thành và phát triển của
Đại Thừa Phật Giáo.
Thế nhưng
Phật Giáo Ấn Độ và Tây Tạng không căn cứ vào yếu
tố thời gian như trên đây khi thiết lập cách
phân loại kinh điển thành ba chu kỳ và khẳng
định rằng tất cả các kinh điển đều chính thống
và do chính Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thuyết
giảng. Ngoại trừ Phật Giáo Theravada, hầu hết
các các tông phái và học phái Phật Giáo khác
cũng đều chấp nhận như thế. Vậy chúng ta phải
hiểu vấn đề này như thế nào?
4- Tìm hiểu sự chính thống trong kinh sách Phật
Giáo
Sự hình thành của các học phái và tông phái
Tính cách chính thống của kinh sách
Đại Thừa được hiểu hay giải thích bằng nhiều
cách khác nhau.
Theo Phật
Giáo Ấn Độ và Tây Tạng như đã nói đến trên đây
thì chính Đức Phật đã thuyết giảng các kinh Đại
Thừa, thế nhưng chỉ giảng cho một số đệ tử hội
đủ khả năng lĩnh hội. Các kinh này sau đó được
cất giữ và chỉ được tiết lộ khi thời cơ thuận
lợi, tức là vào lúc mà nhiều người có thể hiểu
được các kinh ấy. Nói chung các kinh Đại Thừa do
Đức Phật thuyết giảng đã được "giấu kín" ngay
sau đó. Nhờ vào các cảm ứng thiêng liêng một số
đại sư sau này đã phát hiện ra nơi giấu các kinh
điển ấy. Trên thực tế sự kiện này cũng đã từng
xảy ra ở Ấn Độ và Tây Tạng. Nhiều kinh sách xưa
đã được "khám phá" trong suốt lịch sử Phật Giáo
ở các quốc gia này. Dù sao cũng có thể nghĩ rằng
trong các giai đoạn lịch sử nhiễu nhương một số
kinh sách có thể đã được các người tu hành cất
giấu trong những nơi kín đáo để bảo tồn hầu
lưu lại cho các thế hệ về sau.
Hãy đưa
ra thí dụ về Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa.
Trong kinh này có kể lại rằng Đức Phật ngồi yên
và lắng sâu vào thiền định bên cạnh vị đệ tử Xá
Lợi Phất (Sariputra) và đã truyền cảm ứng của
mình sang cho vị này nhằm giúp vị này trả lời
các câu hỏi của Bồ-tát Quán Thế Âm (Avalokitesvara).
Theo truyền thuyết thì sau đó kinh này đã được
Long Thần (Naga) giấu kín trong lòng đất sâu và
các vị Thiên Nhân (deva) cất giữ trên cõi thiên.
Long Thần và các Thiên Nhân chỉ tiết lộ cho Long
Thụ biết vào thế kỷ thứ II, và nhờ đó Long Thụ
đã đưa kinh này trở lại thế gian. Thế nhưng theo
các dữ kiện lịch sử thì bộ kinh đồ sộ này đã
được trước tác làm nhiều lần, liên tục từ giữa
thế kỷ thứ I trước Tây Lịch cho đến thế kỷ thứ
IV.
Dù sao
thì việc khám phá những văn bản giấu kín cũng
không thể giải thích hết được tất cả số kinh
sách xuất hiện muộn. Nếu phân tích cẩn thận thì
chúng ta cũng sẽ nhận thấy trên phương diện
thuật ngữ và cách diễn đạt mỗi văn bản đều phản
ảnh ít nhiều tính cách "thời đại" khi văn bản ấy
được thực hiện, đây cũng là một tiêu chuẩn để
xác định một văn bản đã được trước tác vào thời
kỳ nào trong lịch sử phát triển Phật Giáo.
Ngoài ra thiết nghĩ cũng cần nêu lên
một đặc tính hết sức đặc thù của nền văn hóa
Ấn Độ là
sự bất chấp các giá trị lịch sử của một sự kiện
hay một biến cố lịch sử xảy ra. Các nhà sử học
Tây Phương và cả của Ấn Độ ngày nay đều "điên
đầu" khi nhìn vào lịch sử lâu đời của vùng đất
này, nhất là vào những thời kỳ cổ đại. Nền văn
hóa Ấn Độ chỉ quan tâm đến giá trị tâm linh và
"sự thật" trong các truyền thống và không hề chú
ý - nếu không muốn nói là hoàn toàn bất chấp -
đến yếu tố thời gian. Bằng chứng hiển nhiên là
các niên biểu liên quan đến Đức Phật cũng như
các nhân vật và các triều đại lịch sử cổ đại của
nước Ấn không được ghi chép cẩn thận. Đây cũng
là một điểm trái ngược lại với nền văn hóa Trung
Quốc luôn quan tâm đến sự chính xác lịch sử. Một
thí dụ điển hình là nhiều kinh sách hay văn bản
tiếng Phạn không mang một mốc thời gian nào cả,
thế nhưng các bản dịch sang tiếng Hán thì đều
được ghi rõ niên biểu và cả tên người dịch.
Tuy nhiên cũng còn có một cách giải
thích khác khá hài hòa và mang tính cách thiêng
liêng hơn, ít ra là đối với những người Phật tử
đã đặt hết lòng tin của mình nơi Đức Phật và
giáo huấn của Ngài. Họ tin rằng Đức Phật sau khi
đạt được Giác Ngộ đã vượt ra khỏi các kích thước
và các điều kiện trói buộc của không gian và
thời gian trong thế giới luân hồi. Ngài có thể
hiện ra dưới các thể dạng của Tam Thân (Trikaya)
để tiếp tục thuyết giảng Đạo Pháp cho chúng sinh.
Tam Thân gồm có:
- Pháp Thân (Dharmakaya) hay Thân Đạo
Pháp, có nghĩa là "Thân Tánh Không của một vị
Giác Ngộ" khi đã vượt thoát khỏi vòng sinh tử.
Đức Phật có nói như sau trong kinh
Vajracchedika-prajnaparamita-sutra (Kim
Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh): "Bất cứ
ai nhìn Ta qua hình tướng của Ta, nghe thấy
tiếng nói của Ta thì đấy là cách mà người ấy
bước vào con đường sai lầm và sẽ không thể [thực
sự] trông thấy được Như Lai. Người ta chỉ có thể
nhận ra được chư Phật xuyên qua Đạo Pháp của họ,
bằng khả năng hướng dẫn của họ phát sinh từ Thân
Đạo Pháp, thế nhưng bản chất đích thật của Đạo
Pháp [nhất thiết] không phải là một đối tượng để
tìm hiểu và cũng không có ai có thể xem đấy như
là một đối tượng được [để mà tìm hiểu nó]"
(theo bản dịch của Philippe Cornu).
- Báo Thân (Sambhogakaya) là "Thân
mang lại an vui và để cùng thụ hưởng với người
khác" (Corps de Jouissance / Reward Body,
Enjoyment Body / còn gọi là Thụ Dụng Thân). Chữ
sambhoga trong tiếng Phạn và tiếng Pa-li
có nghĩa là: cùng thụ hưởng, cùng sống với,
cùng hòa mình với...). Tóm lại Báo Thân tức
là thân hình tướng (rupakaya) đầu tiên của Đức
Phật và các thân "hình tướng" khác hiển hiện ra
sau này. Báo thân là kết quả mang lại từ sự tích
lũy đạo hạnh, là các biểu hiện bên ngoài của
Thân Đạo Pháp, nhằm thích ứng với các nhu cầu đa
dạng của chúng sinh. Báo thân hiện ra dưới muôn
nghìn thể dạng khác nhau và mang nhiều phẩm tính
khác nhau. Chỉ có những vị A-la-hán hay Bồ-tát ở
ba cấp bậc địa giới cao nhất - trong số mười địa
giới hay "thập địa" - mới có thể trông thấy và
nhận biết được các thể dạng ấy cũng như các phẩm
tính ấy của Báo Thân.
- Ứng Thân (Nirmanakaya) là các thể
dạng hiển hiện của Pháp Thân, thúc đẩy bởi lòng
Từ Bi đối với chúng sinh. Ứng thân có thể hiển
hiện qua những hình tướng thật xác thực và thật
đa dạng trong tất cả mọi lãnh vực của thế giới
luân hồi, nhằm mục đích thích nghi với các nhu
cầu của chúng sinh trong từng bối cảnh. Ứng thân
được xác định theo ba cấp bậc khác nhau:
+ Ứng Thân tối thượng
(Uttamanirmakaya) tức là Ứng Thân của chính Đức
Phật Thích-ca Mâu-ni trên hành tinh này.
+ Ứng thân dưới những "thể dạng phát
tán bằng đủ mọi hình sắc" (janmanirmakaya), thí
dụ từ các vị thiên nhân cao cả chẳng hạn như
Thiên Đế (Indra / vị Thần Linh cao nhất của đạo
Bà-la-môn) cho đến các loài cầm thú, chim chóc,
hoặc cũng có thể rất giản dị như một nhịp cầu
bắc ngang sông, một dòng suối mát hay một gốc
cây xanh...
+ Ứng thân hiện ra dưới thể dạng các
nghệ nhân và các sáng tạo nghệ thuật (silpinnirmakaya)
hoặc một số các vật thể mang tính cách thiêng
liêng và mầu nhiệm. Nói cách khác thì đấy là
cách biểu hiện và phát tán của chư Phật xuyên
qua các nghệ nhân và các tác phẩm sáng tạo của
họ, chẳng hạn như các người tạc tượng và các pho
tượng, các nhạc sĩ và các khúc nhạc do họ sáng
tác, v.v.... nhằm mục đích giúp đỡ chúng sinh
bằng các sáng tạo nghệ thuật của họ, chẳng hạn
như kinh sách có kể câu chuyện về một người tấu
nhạc thần của cung Trời Đế Thích nhằm thuần hóa
con quỷ càn-thát-bà (gandharva). Chiêm ngưỡng
một pho tượng, ngắm nhìn một bức tranh hay lắng
nghe một khúc nhạc, một tiếng chuông ngân... đôi
khi cũng có thể làm cho tâm hồn chúng ta lắng
xuống và mang chúng ta đến gần với chư Phật hơn.
Những gì vừa trình bày trên đây thiết
nghĩ có thể giúp chúng ta hình dung được Tam
Thân Phật là gì. Tam Thân của Đức Phật Thích-ca
Mâu-ni cũng như của các vị Phật khác đã vượt qua
không gian và thời gian để bàng bạc khắp nơi,
thấm sâu vào lòng của các vị đại sư trong quá
khứ như Long Thụ, Vô Trước, Trần Na, Bồ-đề Đạt-ma,
Tịch Thiên, Đạo Nguyên...và cả Đức Đạt-lai Lạt-ma
ngày nay. Sự hiện diện sâu kín và tỏa rộng đó
của Tam Thân Phật đã làm rung động con tim của
họ, khai mở tâm trí cho họ, tạo ra những âm
hưởng thật thiết tha trong lòng họ, phản ảnh qua
những lời giảng huấn của họ và cũng đã trở thành
chính họ.
Thật vậy bánh xe Đạo Pháp nào có dừng
lại ở vòng quay thứ ba đâu, mà vẫn còn đang lăn
vào thế giới Tây Phương hôm nay để mang theo với
nó những lời giảng huấn của Đấng Thế Tôn. Có
phải là những lời giảng ấy đang hiện lên trên
những trang sách còn thơm mùi mực bằng các ngôn
ngữ Tây Phương và cả trên các trang web đang
được truyền đi trên khắp hành tinh này hay chăng?
Thật vậy tất cả những gì tinh khiết phát hiện từ
sự chân thật khơi động bởi lòng từ bi sâu kín
trong con tim của tất cả chúng ta đều là những
biểu hiện và phát tán của Tam Thân Phật, đều
mang tính cách chính thống và hoàn
toàn trung thực với Đạo Pháp của Đấng Thế
Tôn.
Tuy nhiên và dù sao đi nữa chúng ta
cũng không cần phải cố gắng tìm mọi cách để giải
thích và chứng minh tính cách chính thống của
các kinh sách xuất hiện muộn. Thật vậy cứ mạnh
dạn nhìn thẳng vào các dữ kiện lịch sử và suy
luận dựa vào sự hiểu biết khoa học ngày nay cũng
thừa đủ để giúp chúng ta tìm thấy một sự mạch
lạc nào đó trong toàn bộ kinh điển Phật Giáo.
Sự tiến hóa của Đạo Pháp qua khía cạnh lịch sử
Khái niệm về sự tương liên giữa mọi
hiện tượng (pratityasamutpada / interdependence
/ lý duyên khởi) và quy luật vô thường (anitya /
impermanence) cho thấy rằng không có bất cứ một
hiện tượng nào lại không mang tính cách lệ thuộc
và không biến đổi. Đạo Pháp của Đức Phật cũng là
một hiện tượng (dhamma). Nếu nhìn mọi sự vật
theo khía cạnh đó thì tất nhiên chúng ta cũng sẽ
nhận thấy các biến đổi của Đạo Pháp theo dòng
thời gian chẳng qua cũng là một quá trình tiến
hóa thật tự nhiên. Sự tiến hóa đó là hậu quả
đương nhiên và tất yếu phù hợp với các nguyên
nhân đã thúc đẩy nó. Mở rộng tầm nhìn theo tinh
thần khoa học như trên đây thiết nghĩ cũng đủ để
giúp chúng ta nhận thấy một sự hợp lý và mạch
lạc nào đó của Đạo Pháp trên dòng lịch sử, và
không cần đến một sự biện minh mang tính cách "tôn
giáo" nào cả.
Đạo Pháp không hề chết khô như một gốc
cây già mà luôn tỏa rộng cành lá, đơm hoa và kết
trái. Giáo huấn của Đức Phật đi sâu vào lòng
người và cùng chuyển động với sự sống, với văn
hóa và lịch sử, cũng như với các nhu cầu và khả
năng thấu triệt của con người theo từng thời đại
và từng địa phương. Có phải ngày nay giáo huấn
của Đức Phật cũng đang đặt chân vào thế giới Tây
Phương để mang lại những giải đáp cho người Tây
Phương, phù hợp với nhu cầu và đòi hỏi của họ,
bằng cách căn cứ trực tiếp vào các truyền thống
văn hóa, triết học và khoa học của chính họ hay
chăng?
Sự hình thành của Phật Giáo Theravada
Đức Phật
thuyết giảng suốt bốn mươi lăm năm nhưng không
hề viết ra một câu nào. Các đệ tử của Ngài đã
học thuộc lòng những lời giảng huấn và truyền
khẩu cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Sau ba lần kết tập kinh điển, lần thứ nhất một
năm sau khi Đức Phật tịch diệt, lần thứ hai vào
thế kỷ thứ IV trước Tây Lịch, và lần thứ ba dưới
triều đại của vua A-dục vào thế kỷ thứ III trước
Tây Lịch, thì hai tập Luật Tạng và
Kinh Tạng được hình thành đầy đủ và được
truyền bá ra khỏi biên giới thung lũng sông Hằng
và đặc biệt nhất và cũng quan trọng nhất là đã
được đưa vào Tích Lan.
Trong
lần kết tập thứ ba tổ chức dưới triều đại của
vua A-dục người ta đã thấy phát sinh ra hai
khuynh hướng diễn đạt khác nhau về giáo huấn của
Đức Phật là Thượng Tọa Bộ (Sthaviravada) và Đại
Chúng Bộ (Mahasanghika). Một vài tư liệu khác
còn cho rằng vào dịp này có đến bốn học phái
khác nhau đã được hình thành, và từ các học phái
này đã phát sinh ra mười tám chi phái khác.
Hai tạng kinh đầu tiên trên đây nhất
thiết là những tạng kinh truyền khẩu và chỉ được
ghi chép sau đó bằng chữ viết vào thế kỷ thứ I
trước Tây Lịch ở Tích Lan. Tập thứ ba là Luận
Tạng xuất hiện muộn hơn thế nhưng cũng đã
được ghép thêm vào hai tạng kinh trên đây để gọi
chung là Tam Tạng Kinh. Thật ra tạng thứ
ba không phải là một tạng kinh đúng nghĩa của nó,
bởi vì trong đó chỉ gồm những lời bình giải của
các vị đại sư về giáo huấn của Đức Phật. Luận
Tạng được xem có nguồn gốc rất xưa từ thời
kỳ truyền khẩu, thế nhưng có thể cũng chỉ được
trước tác từ thế kỷ thứ nhất sau Tây Lịch và đã
được liên tục triển khai thêm trong suốt nhiều
thế kỷ sau đó.
Dù sau
thì Luận Tạng cũng đã giữ một vai trò
thật quan trọng và đã làm nền tảng giáo huấn cho
Phật Giáo Theravada. Phật Giáo Theravada tự cho
mình là một tông phái phát xuất từ Trưởng Lão Bộ
(Sthaviravada). Thế nhưng trên dòng lịch sử,
Phật Giáo Theravada cũng đã biến đổi rất nhiều
và không còn hoàn toàn giữ đúng theo Phật Giáo
cổ xưa trước lần kết tập thứ ba. Thật vậy căn
bản giáo huấn và các phương pháp tu tập của Phật
Giáo Theravada cũng chỉ thực sự được thiết lập
một cách thật rõ nét dựa vào một tập luận giải
mang tên là Visuddhimarga (Thanh Tịnh
Đạo). Trên miền bắc Ấn nơi vương quốc Ma-kiệt-đà
(Magadha) có một vị đại sư là Phật Âm (Buddhaghosa)
đã rời thung lũng sông Hằng đến Tích Lan vào thế
kỷ thứ V để nghiên cứu Tạm tạng Kinh và
đã trước tác ra tập luận này cùng một số các tập
luận khác, tất cả cũng đã được ghép chung trong
Luận Tạng. Tập luận này hàm chứa nhiều
khía cạnh triết học và tâm lý học thật sâu sắc
và đã góp phần không nhỏ trong việc thiết lập
nền móng cho Phật Giáo Theravada.
Sự hình thành của Trung Quán Tông
Nếu Phật Giáo Theravada được phát
triển ở Tích Lan và còn tồn tại đến nay thì tại
miền bắc Ấn, Phật Giáo Đại Thừa đã được hình
thành từ thế kỷ thứ I trước Tây Lịch và đã đưa
đến sự xuất hiện của một tông phái lớn là Trung
Quán Tông. Đại học Na-lan-đà được thiết lập vào
khoảng thế kỷ thứ II tại vị trí của một ngôi
chùa do hoàng đế A Dục xây dựng vào thế kỷ thứ
III trước Tây Lịch, và một trong các vị trụ trì
đầu tiên của đại học này là Long Thụ, một triết
gia và đại sư có thể nói là lừng danh nhất trong
lịch sử Phật Giáo. Nếu bảy thế kỷ trước Đức Phật
đã từng thuyết giảng tánh không qua những khía
cạnh thiết thực và thực dụng thì Long Thụ đã
triển khai khái niệm này thật sâu rộng trên
phương diện siêu hình và thiết lập một học phái
mới gọi là Trung Đạo. Trung Đạo có nghĩa là "Con
Đường ở giữa", không ngả theo bất cứ một cách
suy nghĩ hay dựa vào một khuynh hướng tư tưởng
mang tính cách "khẳng định" nào cả. Long Thụ mở
rộng và khai triển khái niệm về giáo lý "không
có cái tôi" trong kinh Anattalakkhana-sutta
(Kinh về giáo lý vô ngã) và khái niệm
về "tánh không" nêu lên trong các kinh
Culasunnata-sutta và Mahasunnata-sutta
(Kinh ngắn và Kinh dài về Tánh Không),
tức là các kinh nguyên thủy bằng tiếng Pa-li do
chính Đức Phật thuyết giảng, để biến những khái
niệm này trở thành con đường Trung Đạo biểu
trưng cho một sự trống không tuyệt đối, dù đấy
là sự trống không của "cái tôi" của một cá thể
hay là sự trống không của tất cả mọi hiện tượng
trong thế giới.
Theo Phật Giáo Ấn Độ và Tây Tạng thì
sự hình thành của Đại Thừa thuộc vào giáo huấn
của vòng quay thứ hai và của bộ kinh đồ sộ
Bát Nhã Ba La Mật Đa. Thế nhưng theo các dữ
kiện lịch sử thì bộ kinh bằng tiếng Phạn này đã
được trước tác từ giữa thế kỷ thứ I trước Tây
Lịch tức là ba thế kỷ trước đó và kéo dài đến
thế kỷ thứ IV. Chủ đích quan trọng và nổi bật
nhất của kinh này là triển khai khái niệm về
tánh không. Thật ra kinh
Bát Nhã bao gồm rất nhiều kinh khác nhau, trong
số này có kinh Vajracchedikaprajnaparamita-sutra
(Kinh Kim Cương) giữ một vị thế khá quan
trọng trong giáo huấn của Thiền Học, và kinh
Prajnaparamitahridaya-sutra (Tâm Kinh)
là một bài kinh trì tụng rất ngắn và rất phổ
biến. Ngoài ra còn có hai tập kinh quan trọng
khác nữa là kinh Vimalakirtinirdesha-sutra
(Duy-ma-cật Sở Thuyết Kinh) và kinh
Suddharmapundarika-sutra (Kinh Pháp Hoa),
cả hai cũng đều thuộc chung trong bộ Kinh Bát
Nhã. Đặc biệt hơn cả là Kinh Pháp Hoa đã giữ một
vai trò then chốt trong sự hình thành của hai
tông phái Thiên Thai (Tendai) và Nhật Liên
(Nichiren) của Nhật Bản.
Trở lại chủ đề tánh không theo quan
điểm của Long Thụ thì chúng ta sẽ thấy rằng trong
tập Trung Quán Luận Tụng (Madhyamakakarika,
XII, 8) có viết như sau: "Đấng Thế Tôn có nói
rằng tánh không là sự tống khứ hoàn toàn tất cả
mọi quan điểm. [Do đó] nếu có những ai còn tin
vào tánh không thì tôi sẽ bảo rằng họ là những
kẻ không còn cách nào chữa trị được". Ý nghĩa
của câu này là phải phủ nhận cả tánh không, nói
cách khác thì đấy là tánh không của tánh không.
Thật vậy, Long Thụ đã sử dụng một phép suy luận
căn cứ vào sự phi lý để chứng minh tánh không.
Hơn nữa ông còn định nghĩa tánh không một cách
bao quát hơn so với khái niệm vô ngã do Đức Phật
thuyết giảng, Ông cho rằng ngoài tính cách "vô
ngã" của một cá thể, tánh không còn liên quan
đến tất cả mọi hiện tượng trong thế giới và cả
vũ trụ. Nói cách khác là Long Thụ đã khoác thêm
cho tánh không giới hạn bởi "cái tôi" và cái "của
tôi" một chiếc "áo mới" to rộng thùng thình, gói
cả gió mây, thiên hà và vũ trụ. Chiếc áo to rộng
đó đã khiến cho "cái tôi" và cái "của tôi" ẩn
chứa bên trong nó trở nên bé tí. Chiếc áo cũng
mang theo với nó các thứ ảo giác về "cái tôi" và
cái "của tôi" ấy để cùng bay bổng và biến mất đi
trong bầu không gian thênh thang và vô tận mở ra
bởi con đường Trung Đạo.
Ngoài ra Trung Quán Tông còn triển
khai thêm một khái niệm thật căn bản khác của
Đạo Pháp là quy luật tương liên (pratityasamutpada
/ interdependence / lý duyên khởi) còn gọi là "sự
tạo tác do điều kiện mà có" (conditioned
production) hoặc là "sự tạo tác do nguyên nhân
mà có" (dependent origination). Khái niệm này
nói lên sự tương liên, tương tác và tương tạo
của tất cả mọi hiện tượng trong thế giới, kể cả
các tư duy và xúc cảm trong tâm thức của một cá
thể bởi vì những thứ ấy cũng chỉ là những hiện
tượng. Sự tương tác đó tạo ra một chuỗi níu kéo
và biến động liên tục khiến không có một hiện
tượng nào có thể đứng yên được. Sự chuyển động
và đổi thay liên tục đó gọi là "vô thường".
Ngoài ra khái niệm này cũng còn được sử dụng để
giải thích thế nào là tánh không, bởi vì không
có bất cứ một hiện tượng nào tự nó có thể hiện
hữu một cách tự tại được mà phải nhờ vào sự
tương tác của vô số nguyên nhân và điều kiện
khác để hiện hữu. Sự hiện hữu tạm thời và lệ
thuộc đó chỉ là một thứ ảo giác, và đấy chính là
tánh không của mọi hiện tượng.
Ngoài ra con đường Trung Đạo còn chủ
trương khái niệm về "hai sự thật" (dvasatya).
Thật ra khái niệm này là một khái niệm chung của
toàn thể Phật Giáo, thế nhưng Trung Đạo đã nâng
khái niệm này lên một cấp bậc thật quan trọng.
Từ các học phái xưa như Vaibhasika, Sautantrika
cho đến Phật Giáo Theravada và cả Kim Cương thừa
đều đã giải thích khái niệm này với ít nhiều
khác biệt. Đối với Trung Quán Tông, sự thật quy
ước (samvrtisatya) chỉ định những biểu hiện bên
ngoài của mọi hiện tượng tức là những thể dạng
luôn chuyển động của mọi sự vật mà chúng ta "trông
thấy" bằng mắt, và sự thật tuyệt đối hay tối hậu
(paramarthasatya) là tánh không của chúng.
Khoảng hai thế kỷ sau Long Thụ lại
thấy xuất hiện tại đại học Na-lan-đà một vị đại
sư lừng danh khác là Vô Trước (Asanga), sinh
khoảng năm 290. Tuy vẫn trung thành với Trung
Quán Tông thế nhưng ông đã chuyển tông phái này
theo một hướng nhìn khác hơn so với Long Thụ
bằng cách thành lập một học phái mới gọi là Duy
Thức Học. Thật ra thì nhiều học giả cũng chỉ xem
Duy Thức Học như là một nhánh hay một chi phái
của Trung Quán Tông. Vậy thật sự Duy Thức Học là
gì?
Sự hình thành của Duy Thức Học
Chandragupta là một người vô danh
nhưng rất tài giỏi đã tạo được một đế quốc rộng
lớn đầu tiên cho nước Ấn là Maurya vào đầu thế
kỷ thứ IV trước Tây Lịch. Cháu nội của vị này là
A-dục cũng là vị hoàng đế thứ ba đã trị vì đế
quốc Maurya từ năm 274 TCN đến năm 232 TCN.
Hoàng đế A-dục là người rất tích cực trong việc
quảng bá giáo huấn của Đức Phật và đã mở ra một
giai đoạn phát triển liên tục của Đạo Pháp suốt
hơn mười thế kỷ sau đó. Chính ông đã truyền bá
Phật Giáo ra ngoài biên giới của thung lũng sông
Hằng và cả bên ngoài bán lục địa Ấn Độ. Sau khi
hoàng đế A-dục qua đời vào năm 232 TCN thì đế
quốc Maurya cũng suy yếu dần và bị phân chia
thành nhiều vương quốc.
Mãi cho đến thế kỷ thứ III sau Tây
Lịch một đế quốc khác là Gupta mới được thành
lập và kéo dài đến thế kỷ thứ VI. Đế quốc này
bao gồm toàn bộ miền bắc nước Ấn và đã đưa kinh
tế, văn hóa và xã hội Ấn lên điểm tột đỉnh trong
lịch sử của quốc gia này, tương tự như sự phát
triển của nền văn minh thời Đường của Trung Quốc
vào các thế kỷ thứ VII và VIII. Các tôn giáo như
đạo Bà-la-môn, Phật Giáo và đạo Jain (Kỳ-na Giáo)
cũng đồng loạt phát triển thật cao độ theo đà
tiến bộ và hưng thịnh đó của xã hội Ấn. Riêng
đối với Phật Giáo thì hầu hết các kinh sách quan
trọng bằng tiếng Phạn của Đại Thừa Phật Giáo
cũng đã được trước tác song hành và tuần tự với
sự lớn mạnh của đế quốc Maurya. Cũng xin nhắc
lại là theo Phật Giáo Ấn Độ và Tây Tạng thì các
kinh sách này thuộc vào vòng quay thứ ba của
bánh xe Đạo Pháp tức là do Đức Phật thuyết giảng.
Vô Trước trưởng thành trong bối cảnh phát triển
rộng lớn đó của Đạo Pháp và của đế quốc Maurya
và đã sáng lập ra học phái Duy Thức (Cittamatra,
còn gọi là Yogacara). Vậy Duy Thức Học đã mang
lại những điều gì mới lạ và khác hơn so với
Trung Quán Tông do Long Thụ thiết lập hai thế kỷ
trước đó?
Duy thức cho rằng tất cả các hiện
tượng đều chỉ mang bản chất tâm thần và không
thật, đấy chỉ là những biểu hiện mang tính cách
bên ngoài của tâm thức. Do đó Duy Thức không
chấp nhận bất cứ gì thuộc bối cảnh bên ngoài và
cho rằng chỉ có tri thức (consciousness) mới
thật sự hiện hữu với tư cách là một sự thật tối
hậu. Chỉ vì bị vô minh chi phối nên tri thức đã
tự tạo ra cho nó ảo giác về một chủ thể nhận
biết (grahaka) và các đối tượng có thể nhận biết
được (grahya). Duy Thức phân tích sự vận hành
của tri thức thật tỉ mỉ và chính xác và đấy cũng
là nét khác biệt nổi bật nhất so với Trung Quán
Tông của Long Thụ.
Thông thường tri thức (consciousness)
trong Phật Giáo được phân chia thành sáu thể
loại là tri thức ngũ giác và tâm thức, thế nhưng
Duy Thức Học đã phân tích tri thức chi tiết hơn
và mô tả dưới tám thể loại khác nhau. Ngoài sáu
thể loại tri thức đã được nêu lên trong Kinh
Tạng và Luận Tạng, Duy Thức Học còn
mô tả thêm hai thể dạng mới là "tri-thức-ô-nhiễm"
(klistamana) và "tri-thức-căn-bản-của-tất-cả"
còn gọi là "A-lại-da-thức" (alayavijnana). Tri
thức ô nhiễm là tri thức giữ vai trò diễn đạt
các cảm nhận của sáu tri thức đầu tiên là
ngũ giác và tâm thức. Sự diễn đạt của tri-thức-ô-nhiễm
sẽ làm phát sinh ra tình trạng nhị nguyên trong
tâm thức, tức là tạo ra sự phân tách giữa chủ
thể nhận biết và đối tượng được nhận biết. Thế
nhưng trên căn bản thể dạng nguyên sinh của tri
thức luôn phản ảnh một sự hiểu biết trong sáng
và tinh khiết không có chủ thể và đối tượng.
Trong Nhập lăng Già Kinh có một câu như
sau: "Tri thức vừa là người xem kịch, vừa là vở
kịch và đồng thời cũng vừa là người vũ công trên
sân khấu".
Nếu tri thức thứ bảy tức là tri thứ ô
nhiễm loại bỏ được sự phân tách giữa chủ thể và
đối tượng và không gây ô nhiễm cho tri thức thứ
tám tức là tri thức-căn-bản-của-tất-cả hay A-lại-da-thức,
thì tri thức này cũng sẽ hiện ra thật tinh khiết.
Sự hiển hiện trong sáng đó của A-lại-da thức có
thể xem như là sự tỉnh ngộ hay giác ngộ. Nói một
cách khác là khi nào tính cách nhị nguyên đã bị
loại bỏ khỏi tri thức thứ bảy thì khi đó tri
thức thứ tám cũng sẽ hiện ra trong thể dạng tinh
khiết nhất của nó. Thể dạng ấy gọi là Bản-thể-của-Phật,
Phật tính hay "tánh không tuyệt đối và tối
thượng".
Nếu giải thích một cách dài dòng hơn
thì quá trình trên đây sẽ diễn biến như sau:
Tri thức thứ tám hay A-lại-da-thức là
cơ sở tiếp nhận những viết hằn của nghiệp tạo ra
bởi tri thức thứ bảy tức là tri-thức-ô-nhiễm.
Các vết hằn ấy còn được gọi là các "chủng tử"
hay "mầm móng" tồn lưu trong A-lại-da thức, và
tùy theo cơ duyên thời gian tồn lưu này có thể
kéo dài lâu hay mau. Các chủng tử nằm sẵn trong
A-lại-da thức trước đây sẽ hiển hiện trở lại để
hóa thành hình tướng, âm thanh, mùi, vị và các
hiện tượng tâm thần trong tâm thức vào một thời
điểm thích nghi nào đó - có thể trong kiếp sống
hiện tại hay trong các kiếp sống tương lai nếu
tin vào khái niệm tái sinh - khi các cơ duyên và
điều kiện hội đủ. Nói một cách khác đơn giản và
cụ thể hơn thì các chủng tử ấy sẽ làm phát sinh
ra tác ý, tác ý đưa đến hành động và ngôn từ,
hành động và ngôn từ lại tiếp tục tạo ra các vết
hằn mới ảnh hưởng đến tri thức thứ bảy, các vết
hằn mới này lại được chuyển sang cho tri thức
thứ tám là A-lại-da thức. Một khi mà A-lại-da-thức
vẫn còn in đậm bởi các vết hằn hay chủng tử tiếp
nhận từ tri thức thứ bảy thì nó vẫn còn lâm vào
một tình trạng biến đổi liên tục, từ thể dạng
này sang thể khác. Quá trình biến đổi đó có thể
xảy ra trong lúc tỉnh cũng như trong lúc ngủ say,
trong các giấc mơ, trong tình trạng hôn mê và kể
cả trong những lúc lắng sâu vào thiền định. Khi
cái chết xảy ra thì tất cả bảy thể dạng tri thức
khác đều tan biến, chỉ có A-lại-da thức là tiếp
tục tồn tại như một cơ sở để chuyển tải các vết
hằn hay các chủng tử của nghiệp từ kiếp sống này
sang kiếp sống khác. Chỉ khi nào A-lại-da-thức
đã được tinh khiết hóa và không còn một vết hằn
nào tồn lưu nữa, thì khi đó nó sẽ được giải
thoát và trở thành Bản-thể-của-Phật, Phật Tính,
Chân Như, Hiện Thực, Pháp Thân, Như Lai Tạng,
Giác Ngộ, Niết Bàn, v.v và v.v.
Tóm lại A-lại-da-thức là thể dạng tri
thức tự tại nơi tâm thức của mỗi cá thể, luôn ở
trong một tình trạng chuyển động thường xuyên,
phản ảnh sự chuyển đổi liên tục giữa một thể
dạng tâm lý này sang một thể dạng tâm lý khác,
chẳng hạn như một cá thể lúc thì cảm thấy hạnh
phúc, lúc thì khổ sở hay vui mừng, hoặc hoang
mang, giận dữ, hoặc cũng có thể cảm thấy sợ hãi
tương tự như đang sống trong cõi địa ngục. Động
cơ thúc đẩy sự chuyển động ấy chính là nghiệp
tức là các vết hằn trong A-lại-da thức do cá thể
ấy tự tạo ra cho mình.
Trên phương diện ứng dụng Duy Thức chủ
trương một hệ thống gồm các phép luyện tập thiền
định nhằm loại bỏ mọi sự u mê tâm thần còn gọi
là vô minh giúp cho Bản-thể-của-Phật có thể hiển
lộ. Khi nào A-lại-da thức đã loại bỏ được các
vết hằn của nghiệp giúp cho tri thức cảm nhận
được thể dạng phi-nhị-nguyên để trở về với bản
chất nguyên sinh và đích thật của chính nó, nói
cách khác là trở về với Đạo Pháp như chính là
một "thành phần của Đạo Pháp" (dharmadhatu), thì
khi đó A-lại-da thức cũng sẽ trở thành chính sự
Giác Ngộ (Bodhi), Niết Bàn, Bản-thể-của-Phật hay
Phật Tính...
Ngoài cách mô tả sự vận hành của tri
thức như trên đây Duy Thức còn phân loại các
hiện tượng theo ba bản chất (trilaksana) như sau:
- bản chất mang tính cách hoàn toàn
tưởng tượng (parikalpita) có nghĩa dưới ảnh
hưởng của tưởng tượng và ảo giác tức là những
thứ ô nhiễm, tri thức tâm thần sẽ gán cho các sự
vật một sự hiện hữu hay một "cái tôi", một "cái
ngã" đích thật, thế nhưng thật ra thì đấy chỉ là
một sự sai lầm. Các sự vật ấy hoàn toàn không
hiện hữu và nhất thiết chỉ là sản phẩm của vô
minh và ảo giác.
- bản chất lệ thuộc (paratantra) tức
là các hiện tượng tạo ra bởi sự kết hợp của vô
số nguyên nhân và điều kiện, có nghĩa là sự hiện
hữu của nó sở dĩ "có" là nhờ vào sự tương liên,
tương tác và tương tạo của các hiện tượng khác,
tức là nhờ vào tác động của quy luật tương liên
(pratityasamutpada) hay là sự tạo tác do điều
kiện mà có.
- bản chất hoàn toàn được thiết lập
một cách vững chắc (parinispana) tức là bản chất
đích thật và tuyệt đối của các hiện tượng. Thật
ra thì chúng cũng chỉ đơn giản là các hiện tượng
lệ thuộc - tức là các hiện tượng mang bản chất
thứ hai - thế nhưng đã hoàn toàn loại bỏ được
tính cách tưởng tượng - tức là bản chất thứ nhất
(parikalpita). Khi đã loại bỏ hoàn toàn và dứt
khoát được tính cách tưởng tượng của chúng thì
các hiện tượng lệ thuộc cũng sẽ trở thành "hiện
thực đúng là như thế" (tathatagata / ainsité /
suchness / như lai) tức có nghĩa là tánh không
đích thật của mọi hiện tượng hay là sự hiện hữu
vượt thoát khỏi tính cách nhị nguyên và đối
nghịch tạo ra bởi chủ thể và đối tượng.
Các hiện tượng mang bản chất thứ ba
trên đây giữ một vai trò rất quan trọng trong
việc xách định hai sự thật hay hai hiện thực:
hiện thực quy ước (samvrtisaya) mang tính cách
lệ thuộc bị ô nhiễm bởi sự tưởng tượng, và hiện
thực tuyệt đối (paramartha) tuy vẫn còn mang bản
chất lệ thuộc nhưng đã hoàn toàn tẩy sạch được
tính cách tưởng tượng. Đây cũng là cách giải
thích về hai sự thật hay hai hiện thực theo quan
điểm đặc thù của Duy Thức Học.
Tóm lại Duy Thức Học đã khoác lên cho
"cái tôi" hay "cái ngã" một chiếc áo mới, khác
hơn với chiếc áo to rộng mà Long Thụ đã may mặc
cho nó trước đây hai thế kỷ. Chiếc áo do Vô
Trước cắt may phù hợp với kích thước của "cái
tôi" của mỗi cá thể bên trong tâm thức của cá
thể ấy. Ông quả xứng đáng là một nhà khoa học,
thần kinh học, tâm lý học, phân tâm học và đồng
thời cũng là một nhà tâm linh học Phật Giáo. Duy
Thức Học đã mang lại một sự chính xác tuyệt vời
về một thể dạng hiện hữu tự tại bên trong tâm
thức của mỗi cá thể gọi là tri-thức-căn-bản-của-tất-cả
hay là A-lại-da-thức. Nói một cách khác là tánh
không bên trong tâm thức của mỗi cá thể đã được
Vô Trước cụ thể hóa hay vật thể hóa (chosify /
reify) bằng một sự hiện hữu "rất thật" là A-lại-da
thức.
Sở dĩ dài dòng vể Duy Thức Học bởi vì
học phái này đã dánh dấu một bước rất dài nếu
không muốn nói là một sự chuyển hướng thật quan
trọng trên dòng "tiến hóa" của Đạo Pháp và đã
ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành của Kim
Cương Thừa và Thiền Học trong vòng chưa đầy hai
thế kỷ sau đó.
Sự hình thành của Kim Cương Thừa
Kim Cương Thừa còn được gọi là Tan-tra
Thừa là một thừa Phật Giáo chấp nhận toàn bộ tất
cả các kinh điển cũng như căn bản giáo huấn
thuộc vào cả ba vòng quay của bánh xe Đạo Pháp
và đều xem tất cả là đích thật và chính thống,
từ Tam Tạng Kinh bằng tiếng Pa-li cho đến các
kinh sách xuất hiện rất muộn, chẳng hạn như kinh
Kalachakra (Kinh Thời Luân) xuất
hiện vào thế kỷ thứ X.
Đối với Kim Cương Thừa thời gian là
một sự xoay vần bất tận, biểu trưng bởi "Bánh xe
thời luân" (Kalachakra), do đó việc xác định hay
đánh giá một hiện tượng hay ghi nhận một biến cố
căn cứ vào tính cách lịch sử của nó sẽ không
mang một ý nghĩa nào cả. Thật vậy đấy cũng chính
là ý nghĩa của khái niệm về Báo Thân (Sambhogakaya).
Báo Thân là một thể dạng hiển hiện của chư Phật
dưới mọi hình sắc ở bất cứ bối cảnh không gian
và thời gian nào.
Kim Cương thừa chủ trương một đường
hướng tu tập thật tích cực bằng cách vận dụng
tất cả các phương tiện thiện xảo (upaya) để phát
huy nhanh chóng sự "hiểu biết tối thượng" (prajna
/ bát nhã) nhằm đạt được sự Giác Ngộ ngay trong
kiếp sống hiện tại, hoặc tối đa là sau một vài
lần tái sinh. Muốn thực hiện được mục đích ấy
thì điều kiện tiên quyết là phải phát huy được
lòng quyết tâm dựa và các phương tiện tu tập
thật hiệu lực và cương quyết, và nhất là phải
thấu triệt được toàn bộ căn bản giáo huấn của
Đại Thừa cũng như của Phật Giáo Theravada, chẳng
hạn như các khái niệm về tánh không của "cái tôi",
tánh không của tất cả mọi hiện tượng, Bồ-đề tâm
(Bodhicitta), lòng Từ Bi (Karuna), sự hiện hữu
của Bản-thể-của-Phật (Tathagatagarbha) hay Phật
tính nơi tất cả chúng sinh có giác cảm, bản chất
và sự tương liên của mọi hiện tượng cũng như bản
chất và sự vận hành của tri thức nơi mỗi cá thể,
v.v. và v.v... Sự kiện đó cho thấy Kim Cương
Thừa là một tông phái vô cùng phong phú và toàn
diện.
Trên phương diện ứng dụng Kim Cương
Thừa đã tận dụng phương pháp cụ thể hóa hay vật
thể hóa các khái niệm trừu tượng nhằm mục đích
giúp cho việc tu tập được dễ dàng hơn. Sự tận
dụng các kỹ thuật tâm linh - tức là các phương
tiện thiện xảo - cực mạnh biểu trưng bởi các vị
thần linh hiền hòa lẫn hung dữ, mọi loại biểu đồ,
các mạn-đà-la, các pháp khí sử dụng trong việc
lễ lạc, thí dụ như từ bi và trí tuệ được tượng
trưng bởi một khí cụ gọi là "kim cương chử" (một
cái chùy nhỏ bằng đồng) và "một cái chuông nhỏ",
v.v... Kim Cương Thừa còn hình dung ra sự vận
hành của khí lực trong cơ thể qua một hệ thống
kinh mạch gồm có các "luân xa", các "nút thắt",
các "giọt trắng" và "đỏ"...
Tất cả những phương tiện thiện xảo của
Kim cương Thừa thường bị một số người hiểu lầm
là một sự thoái hóa mang tính cách thần bí hay
ma thuật của Phật Giáo. Thế nhưng thật ra đấy là
các phương tiện cực mạnh giúp người tu tập đạt
được kết quả nhanh chóng. Ngay cả các người tu
tập theo Kim Cương Thừa còn yếu kém hoặc chưa
hội đủ lòng quyết tâm cũng không tận dụng được
sức mạnh mang lại từ các phép luyện tập ấy.
Các phép luyện tập của Kim Cương Thừa
còn cho thấy có thể tạo ra những tai hại hay bất
lợi nào đó cho những người tu tập chưa hội đủ
căn bản và khả năng. Thay vì thăng tiến một cách
nhanh chóng thì các người này có thể bị mê hoặc
và rơi vào những hình thức sinh hoạt lệch lạc vô
cùng tai hại.
Do đó Kim
Cương Thừa cũng đã thiết lập nhiều phương pháp
và các quy tắc thật khắt khe nhằm ngăn ngừa
những trường hợp trên đây có thể xảy ra, thí dụ
như nêu lên sự so sánh một người tu tập tan-tra
với một con rắn bị nhốt bên trong một ống tre
rỗng ruột: nếu người này tuân thủ được những đòi
hỏi khắt khe trong việc tu tập tan-tra thì sẽ
vọt ra khỏi ống tre để đạt được sự Giác Ngộ,
ngược lại sẽ lọt khỏi ống tre để rơi xuống tầng
thấp nhất của địa ngục gọi là cõi Avici (A-tỳ).
Tóm lại người tu tập trước hết phải trải qua một
thời gian học hỏi và thử thách, và chỉ khi nào
đã hội đủ được một số tiêu chuẩn đã được quy
định sẵn thì mới được thụ giới qua những nghi lễ
gọi là "quán đảnh". Lễ thụ giới hay thụ pháp gồm
có nhiều nghi thức vô cùng tỉ mỉ và phức tạp
nhằm thử thách quyết tâm của người tu tập và
đồng thời cũng là một dịp giúp người này chính
thức biểu lộ sự cam kết tuân thủ những lời
nguyện ước của mình. Đây chính là cách mà Kim
Cương Thừa sử dụng để loại bớt những người chưa
hội đủ "khả năng thích nghi", những người này
còn được gọi là những "cơ sở tiếp nhận còn bị ô
nhiễm", hầu tránh mọi thứ tai hại đủ loại có thể
xảy đến cho họ và cho cả Đạo Pháp.
Viêc tu tập tan-tra thường mang tính
cách cá nhân, và phải được một người thầy hay
đạo sư đầy đủ khả năng chẳng hạn như một vị Lạt-ma
đích thật hướng dẫn. Vị này sẽ theo dõi và giảng
riêng cho từng nhóm nhỏ hoặc cho từng đệ tử, tất
cả tùy thuộc vào trình độ và khả năng lĩnh hội
của họ. Những nghi thức lễ lạc trên đây và các
phương pháp giảng dạy mang tính cách "cá nhân"
thường được hiểu lầm là mang tính cách "thần bí".
Có thể vì thế mà
một số
người gọi Kim Cương Thừa là "Mật Tông", một
thuật ngữ dễ gây ra những hiểu lầm đáng tiếc.
Đức Phật có nói rằng giáo huấn của Ngài không
hàm chứa một hậu ý bí ẩn nào cả mà luôn minh
bạch như bàn tay để ngửa.
Một điểm đặc thù khác của Kim Cương
Thừa cũng đáng được nêu lên là tông phái này chủ
trương các phép tu tập hướng thẳng vào "kết quả",
tức là phải trực tiếp đạt được sự Giác Ngộ, Phật
tính, Bản-thể-của-Phật hay Tánh Không tuyệt đối
và tối thượng. Nói một cách giản dị là người tu
tập theo Kim Cương Thừa hướng thẳng vào mục đích
trở thành Phật ngay trong kiếp sống này, khác
hơn với các phép tu tập của các tông phái khác
là hướng vào "nguyên nhân", tức là tìm cách loại
bỏ từ cội rễ các nguyên nhân mang lại khổ đau.
Cách trực tiếp hướng sự tu tập vào "kết quả"
thường được dựa vào các phép quán tưởng để hội
nhập với chư Phật và để trở thành Phật.
Sự hình thành của Thiền Học
Thiền Học là một tông phái đặc thù của
Trung Quốc được hình thành ở Trung Quốc do một
vị sư người Ấn Độ là Bồ-đề Đạt-ma đến đây thành
lập vào khoảng thế kỷ thứ VI. Người Trung Quốc
gọi tông phái này là "Tchan" hay "Channa", là
các chữ dịch âm từ chữ Phạn dhyana có
nghĩa là định tâm, tĩnh tâm hay
thiền định, tiếng Nhật gọi là Zen. Thật ra
thiền định là một phép luyện tập rất phổ cập
chung cho tất cả các tông phái Phật Giáo Ấn Độ
và cả của Trung Quốc trước khi Thiền Học được
thành lập. Dù sao Thiền Học cũng đã sáng tạo
thêm một phép luyện tập thật chuyên biệt và đặc
thù, không nhắm vào một sự thăng tiến tâm linh
tuần tự hay thực hiện một thể dạng tĩnh lặng nào
cả mà hướng thẳng vào sự Giác Ngộ theo ý nghĩa
nêu lên trong Đại Thừa Phật Giáo. Sự Giác Ngộ đó
là một thể dạng Tỉnh Thức giúp quán nhận trực
tiếp được bản chất của Hiện Thực hay Thực Tại
bằng cách vượt lên trên ngôn từ và mọi sự lý
luận quy ước cũng như tính cách nhị nguyên giữa
chủ thể nhận biết và đối tượng được nhận biết.
Mối quan tâm lớn nhất của các vị thiền
sư là phải đạt được những kinh nghiệm cảm nhận
trực tiếp sự Giác Ngộ một cách thật vững chắc và
đơn giản nhất, không cần đến các nghi thức lễ
bái cũng như việc học hỏi từ kinh sách. Phép tu
tập này cho thấy một sự tương phản hoàn toàn so
với phép tu tập của Kim Cương Thừa. Tuy nhiên
nếu kết luận một cách vội vã và cho rằng Thiền
Học bất chấp nghi thức và kinh điển là một sự
lầm lẫn vô cùng to lớn. Mặc dù Thiền Học đặc
biệt chú trọng đến khía cạnh thực dụng của phép
thiền định để đạt được Giác Ngộ thế nhưng không
phải vì thế mà loại bỏ mọi nghi lễ và việc
nghiên cứu kinh điển. Thiền học mang đầy óc sáng
tạo và đã thiết lập ra nhiều nghi thức lễ bái
tuy bề ngoài mang tính cách đơn sơ, tinh khiết
và giản dị thế nhưng thật ra bên trong rất cầu
kỳ và tỉ mỉ mà những người bình dị không thể
nhận ra được. Một người tu thiền phải chú ý đến
từng cử động, ngôn từ và tư duy của mình ngay cả
trong những lúc sinh hoạt thường nhật. Tất cả
mỗi hành động từ cử chỉ đến ngôn từ và tư duy,
đều được quy định thật chặt chẽ và đều mang một
ý nghĩa hay một chủ đích rõ rệt. Chỉ cần đơn cử
một thí dụ về tư thế ngồi thiền chẳng hạn, muốn
tọa thiền đúng cách người tu tập cũng phải để ra
một thời gian thật dài có khi phải hàng tháng
hay hàng năm mới có thể ngồi thật đúng cách. Chỉ
cần nhìn vào tư thế ngồi yên của một người hành
thiền cũng có thể đoán ra được trình độ tu tập
của người ấy. Tư thế ngồi yên, uy nghi và vững
chắc như một quả núi cũng là một hình thức phản
ảnh tâm thức của người hành thiền.
Thiền Học chủ trương một con đường tu
tập tâm linh thật đơn giản và tinh khiết hầu
giúp người tu tập loại bỏ những sự tạo dựng tâm
thần mang tính cách khái niệm và quy ước nhằm
giúp họ quay trở về với những gì thật thiết thực
để nhận thức được bản chất của Hiện Thực và của
chính họ. Quán nhận được Hiện Thực và bản chất
của chính họ một cách đúng đắn chính là cách
mang lại sự Giác Ngộ ngay trong kiếp sống ngắn
ngủi này của họ. Thiền Học không đòi hỏi người
hành thiền phải vùi đầu vào kinh sách, và thật
ra thì Thiền Học cũng không có kinh điển riêng,
ngoài các tập sách ghi chép các công án và một
tập kinh rất gần với quan điểm và chủ trương của
Thiền Học là Lankavatara-sutra (Nhập
Lăng Già Kinh). Tuy nhiên không phải vì thế
mà bảo rằng Thiền Học không quan tâm đến giáo
huấn của Đức Phật. Tuy việc thực tập thiền định
được đặt lên hàng đầu thế nhưng người tu tập
cũng phải thấu triệt các khái niệm chủ yếu nhất
trong toàn bộ giáo huấn Phật Giáo.
Chỉ cần nhìn vào tập luận đồ sộ của
của học phái Tào Động là Shôbgenzô (Chánh
Pháp Nhãn Tạng) cũng sẽ hiểu là phần lý
thuyết của Thiền Học quan trọng đến đâu. Đạo
Nguyên (1200-1253) trước tác tập luận này từ năm
1231 đến năm 1251 tức chỉ dừng lại khoảng hơn
một năm trước khi ông qua đời, và tập luận cũng
đã gồm đến 75 chương. Sau đó một vị thiền sư
khác là Hoài Nhượng (Ejô, 1198-1234) tiếp tục
công trình này và trước tác thêm 12 chương nữa.
Một người đệ tử của vị này cho biết rằng ý định
của thầy mình là sẽ góp thêm 100 chương vào
nguyên bản của Đạo Nguyên, thế nhưng chỉ mới
hoàn tất được 12 chương thì qua đời. Tất cả các
chương do Đạo Nguyên và Hoài Nhượng trước tác
được góp chung và được xem là bản gốc của tập
Chánh Pháp Nhãn Tạng. Sau đó tập luận này
còn được ghép thêm ba lần nữa và bản chính thức
cuối cùng được ấn hành tại Nhật Bản vào năm
1811. Nội dung của tập Chánh Pháp Nhãn Tạng
thật xúc tích, sâu sắc, và hết sức khó để thấu
triệt, vừa cô đọng lại vừa được ghi chú quá tỉ
mỉ tất cả các xuất xứ liên quan đến toàn bộ kinh
sách thuộc tất cả ba vòng quay của bánh xe Đạo
Pháp. Thật vậy sự tỉ mỉ và khắt khe là bản tính
khá tự nhiên của người Nhật và bản tính này cũng
đã phản ảnh thật rõ rệt qua các nghi lễ trong
thiền học Zen.
Nói chung thiền học Zen phản ảnh tánh
khí của người Nhật thế nhưng đồng thời thì thiền
học Zen cũng đã tạo ra những ảnh hưởng thật sâu
đậm vào sự sinh hoạt thường nhật của cả xã hội
Nhật, chẳng hạn như nghệ thuật cây kiểng, cắm
hoa, trà đạo, võ thuật, thư pháp, thi phú, kịch
nghệ, v.v... Tương tự như vậy thiền học Tchan
của Trung Quốc cũng đã tạo ra những ảnh hưởng
thật rõ nét ăn sâu vào toàn bộ nền văn hóa của
Trung Quốc .
Nói chung, mới thoạt nhìn thì Thiền
Học và Kim Cương Thừa có vẻ trái ngược nhau trên
nhiều phương diện. Kim Cương Thừa mang tính cách
tích cực với nhiều hình thức tu tập cầu kỳ phản
ảnh một sự quyết tâm cao độ, Thiền Học thì lại
chủ trương một sự tu tập thanh thoát, đơn giản
và "nhẹ nhàng" hơn. Thế nhưng thật ra thì cả hai
đều đòi hỏi người tu tập một lòng quyết tâm và
kiên trì ngang nhau, sự khác biệt giữa hai tông
phái là cách thức tu tập và các hình thức sinh
hoạt khác nhau. Dù sao thì tác động do Thiền Học
và Kim Cương Thừa mang lại cũng đã ảnh hưởng
thật sâu đậm trên nhiều khía cạnh từ văn hóa đến
những sinh hoạt thường nhật trong cả hai xã hội
Nhật Bản và Tây Tạng.
Điểm giống nhau chủ yếu nhất giữa Kim
Cương Thừa và Thiền Học là phải đạt được sự Giác
Ngộ trong kiếp sống ngắn ngủi này bằng cách hội
nhập với "tánh không tuyệt đối và tối thượng"
xuyên qua các khía cạnh "tích cực" và "cụ thể"
của tánh không là Bản-thể-của-Phật, Phật tính,
Như Lai Tạng, Chân Như, Hiện Thực, Ứng Thân Phật,
Trí Tuệ của Phật, Pháp Thân, v.v…
Sau hết nếu không đề cập đến trường
hợp của Tịnh Độ Tông thì quả thật là một sự
thiếu sót lớn. Vậy pháp môn Tịnh Độ là gì?
Sự hình thành của Tịnh Độ Tông
Tịnh Độ là một tông phái Đại Thừa phát
sinh ở Ấn Độ và đã được truyền sang Trung Quốc,
Tây Tạng, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Có
thể hình dung Tịnh Độ như là một tông phái rất
lớn trên con số tín đồ và mang nặng các đặc tính
tín ngưỡng của một tôn giáo. Trên căn bản lý
thuyết Tịnh Độ chủ trương một giáo huấn tương
đối giản dị, dựa vào lời thệ nguyện của một vị
Phật là A-di-đà là sẽ cứu độ tất cả những chúng
sinh nào cầu khẩn đến sự giúp đỡ của Ngài để
được tái sinh vào cõi Cực Lạc (Sukhavati).
Dấu tích xưa nhất về Phật A-di-đà được
tìm thấy ở Ấn Độ là một bệ đá dùng để dựng một
pho tượng, trên bệ đá này có ghi khắc "Phật
A-di-đà", và bệ đá đã được định tuổi năm 104 sau
Tây Lịch. Ngoài ra vào thế kỷ thứ II Long Thụ
cũng có nói đến cõi Tịnh Độ trong một tập luận
của ông, có lẽ ông đã căn cứ vào các kinh sách
đã có từ trước nêu lên về khái niệm này (?). Vào
thế kỷ thứ IV, Thế Thân (Vasubandhu) có trước
tác một tập luận mang tựa là
Amitayussutropadesa còn gọi là
Sukhavativyuhopadesa trình bày và giải thích
về cõi Tịnh Độ. Thế nhưng thật ra tại Ấn Độ việc
sùng bái Phật A-di-đà chỉ giữ một vị thế thứ yếu
và không đáng kể so với các tông phái lớn thời
bấy giờ, và nhất là bị lấn lướt bởi sự tôn thờ
Phật Di Lặc.
Khi Phật Giáo được đưa vào Trung Quốc
ở thế kỷ thứ nhất sau Tây Lịch thì việc sùng bái
Phật Di Lặc cũng vẫn là chính yếu. Sự tôn thờ
Phật A-di-đà chỉ thật sự bắt đầu từ thế kỷ thứ
IV, thế nhưng ngay sau đó đã phát triển rất
nhanh và lấn lướt hẳn việc sùng bái Phật Di Lặc.
Tuy rằng kinh Pratyutpannasamadhi-sutra (Đại
Phương Đẳng Đà-la-ni Kinh) đã được dịch sang
tiếng Hán từ năm 179 dưới thời Hậu Hán và toàn
bộ kinh Sukhavativyuha-sutra (còn gọi là
Amitabha-sutra / tức là Tịnh Độ Kinh
hay A-di-đà Kinh, hay Đại Thừa Vô
Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh) cũng đã được
dịch vào năm 252, thế nhưng Tịnh Độ chỉ chiếm
một vị thế thứ yếu cho đến thế kỷ thứ IV.
Tịnh Độ chủ trương một phép tu tập đơn
giản đã giải quyết một cách dứt khoát tất cả mọi
khó khăn mang tính cách triết học của Phật Giáo
mà chỉ có giới nho quan và những người trí thức
vào thời bấy giờ mới thấu triệt được. Nhờ đó
Tịnh Độ đã phát triển một cách vô cùng nhanh
chóng ở Trung Quốc, và sau đó đã đặt chân vào
Triều Tiên vào khoảng thế kỷ thứ VI và truyền
sang Nhật Bản tương đối rất sớm sau khi Phật
Giáo được du nhập vào xứ sở này từ giữa thế kỷ
thứ VI.
Tịnh Độ Tông chỉ bắt đầu du nhập vào
Việt Nam từ thế kỷ thứ IX thế nhưng chỉ giữ một
vị thế thứ yếu. Thiền Học vẫn tiếp tục là tông
phái chính yếu và được ưa chuộng nhất. Tịnh Độ
chỉ được xem như một phép tu tập phụ thuộc kèm
thêm vào giáo huấn của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
Nói chung so với phép tu tập của Thiền
Học thì Tịnh Độ tỏ ra ít khắt khe hơn, do đó đã
thu hút được đông đảo người thế tục, giúp họ tu
tập bằng cách tụng niệm bất cứ lúc nào trong
những lúc sinh hoạt thường nhật, không như Thiền
Học phải tạo ra những điều kiện thuận lợi cho
việc hành thiền. Tuy thế trong trường hợp của
bối cảnh Việt Nam Tịnh Độ cũng chỉ bắt đầu phát
triển nhanh chóng và rộng rãi vào thế kỷ XX,
nhất là bắt đầu từ những năm 1930, tức là vào
thời kỳ "tiền chiến". Có thể đây là một phản ứng
"tự vệ" trước chế độ thực dân và sự bành trướng
nhanh chóng của Thiên Chúa Giáo nhờ vào sự bảo
vệ và ưu đãi của chính quyền thực dân thời bấy
giờ.

5- Lời kết
Chữ sutta
tiếng Pa-li, tiếng Phạn là sutra, được
dịch sang tiếng Hán Việt là Kinh. Nguyên
nghĩa của chữ này là "sợi chỉ" hay
"đường chỉ may", ý nói lên kinh điển là một
hệ thống liên tục và trọn vẹn nhằm nêu lên một
hệ thống giáo huấn mạch lạc của Đức Phật.
Thật vậy nếu tách rời một sự kiện hay một khái
niệm để phân tích và nghiên cứu thì cũng chỉ
mang lại một sự hiểu biết hời hợt mà thôi. Bài
viết ngắn này cố gắng nêu lên một vài nét "tiến
hóa" chung của Phật Giáo theo một tầm nhìn bao
quát với hy vọng giúp tất cả chúng ta cùng lăn
theo bánh xe Đạo Pháp trong một chuyến du hành
xuyên qua không gian và thời gian trên dòng lịch
sử kéo dài hơn hai mươi lăm thế kỷ.
Cuộc du hành đó sẽ giúp chúng ta nhận
thấy sự phong phú và siêu việt của Đạo Pháp và
những tác động của nó ảnh hưởng thật sâu rộng
trong tư tưởng cũng như sự sinh hoạt thường nhật
của các dân tộc Á Châu. Mặc dù các tiến bộ kỹ
thuật và truyền thông đã thu nhỏ hành tinh này
và mang con người đến gần với nhau hơn, thế
nhưng sự khác biệt giữa hai thế giới Tây Phương
và Á Châu - ít nhất là trên phương diện văn hóa
và các quan điểm xã hội - cũng vẫn còn đậm nét.
Một trong những sự khác biệt dễ nhận thấy nhất
là ngược về dòng lịch sử tiến hóa chung của nhân
loại, chiến tranh tôn giáo ít xảy ra ở Á Châu
hơn so với thế giới Tây Phương rất nhiều. Nếu
chiến tranh dù có tàn phá Á Châu trong lịch sử
cận đại thì một phần cũng là do những cuộc xung
đột về ý thức hệ phát sinh từ các tư tưởng triết
học không tưởng của người Tây Phương do chính
người Tây Phương đưa vào Á Châu. Chúng ta chỉ
biết hy vọng rằng Đạo Pháp vừa đặt chân vào thế
giới Tây Phương khoảng một thế kỷ nay và đang
bắt rễ trong thế giới đó, sẽ không mang lại một
tai hại nào đáng kể cho các dân tộc trên phần
lục địa này, nếu không muốn nói là Đạo Pháp có
thể sẽ mang lại một giải pháp nào đó cho tình
trạng bế tắc của các truyền thống tâm linh lâu
đời các dân tộc ấy. Đồng thời thì bánh xe Đạo
Pháp biết đâu cũng sẽ chuyển sang một hướng mới
lạ hơn khi lăn vào thế giới Tây Phương và sẽ
đánh dấu một giai đoạn mới khác trong lịch sử
Phật Giáo sau này.
Nếu nhìn trở lại các chặng hành trình
trong cuộc du hành của chúng ta với Đạo Pháp thì
ắt chúng cũng sẽ phải nhận thấy vô số những tư
tưởng mới, những khái niệm mới được hình thành.
Thế nhưng nếu tìm hiểu cặn kẽ những lời giảng
huấn của Đức Phật thì chúng ta cũng sẽ nhận ra
rằng các tư tưởng và khái niệm mới ấy thật ra
cũng không phải thật mới mẻ gì cho lắm, bởi vì
Đức Phật đã nêu lên đã khá lâu từ trước. Chỉ xin
đơn cử một vài thí dụ dưới đây cũng đủ để chứng
minh cho sự nhận xét ấy.
Nếu Trung Quán Tông của Long Thụ đã
triển khai và mở rộng khái niệm tương liên,
tương kết và tượng tạo giữa các hiện tượng (pratityasamutpada)
vào thế kỷ thứ II dưới những hình thức bao quát
mang những khía cạnh triết học siêu hình, thì
Đức Phật cũng đã nêu lên quy luật này từ hơn bảy
thế kỷ trước dưới những hình thức thật đơn giản,
thiết thực nhưng không kém phần sâu sắc.
Trong các kinh Nidana Samyutta
và Mahanidanasutta đều có nói đến quy
luật này, và đặc biệt nhất trong Tương Ưng Bộ
Kinh (Samyutta Nikaya, II, 28) có ghi
lại lời giảng sau đây của Đức Phật:
Imasmin sati idam hoti
Imassuppàdà idam uppajajati
Imasmin asati idam na hoti
Imassa
nirodhà idam nirajjhati
Cái
này có, cái kia hình thành
Cái
này hiển hiện, cái kia sinh ra
Cái
này không có, cái kia không hiển hiện
Cái
này chấm dứt, cái kia không sinh ra
Câu trên đây có thể là một trong
những câu đơn giản nhất và đồng thời cũng thâm
sâu nhất trong số các lời giảng huấn của Đức
Phật. Tuy hết sức đơn giản nhưng câu ấy đã giải
thích trọn vẹn bản chất tương liên của cả vũ trụ
này. Không cần phải chờ đến thế kỷ thứ II mới
thấy Long Thụ triển khai khái niệm về sự tương
liên, tương kết và tương tạo của mọi hiện tượng.
Khi đọc lại kinh sách thì chúng ta sẽ nhận thấy khái niệm "tất cả đều là
tâm thức" do Vô Trước chủ xướng ở thế kỷ thứ IV
cũng đã xuất hiện từ thế kỷ thứ II trong kinh
Đại Thừa Samadhiraja-sutra (Chính Định
Vương Kinh). Trong kinh này có một câu như
sau: "Này các người con của Vị Tối Thắng
(tức là Đức Phật, người đã chiến thắng được vô
minh), tam giới (tức dục giới, sắc giới
và vô sắc giới) chỉ [đơn giản] là tâm thức mà
thôi". Ngược trở về xa hơn nữa thì người ta
cũng sẽ thấy câu thứ nhất của tiết thứ nhất
trong kinh Pháp Cú (Dhammapada)
bằng tiếng Pa-li cũng đã nêu lên vai trò chủ yếu
của tâm thức:
Manopubbangama dhamma
manosettha manomaya
manasa ce padutthena
Tâm
thức dẫn đầu các hiện tượng,
chúng
nhất thiết [chỉ] là tâm thức,
tạo
dựng bởi tâm thức.
Nếu Vô Trước đã sáng lập ra Duy Thức
Tông vào thế kỷ thứ IV và nêu lên khái niệm "tất-cả-chỉ-là-tâm-thức"
(cittamatra) thì đấy cũng chỉ là sự lập lại và
triển khai thêm từ những gì mà Đức Phật đã
thuyết giảng từ trước. Lời thuyết giảng trên đây
của Đức Phật cho rằng mọi hiện tượng chỉ là tâm
thức và do tâm thức khởi xướng đã nêu lên một
cách thật minh bạch vai trò chủ yếu của tâm thức
trong sự cảm nhận và diễn đạt về bản chất của
mọi hiện tượng trong thế giới.
Tóm lại
những gì mà các vị đại sư sau này triển khai sâu
rộng bằng các thuật ngữ mới hoặc bằng các cách
diễn đạt cầu kỳ, phức tạp và trừu tượng thì Đức
Phật cũng đã nêu lên từ trước một cách thật ngắn
gọn, súc tích và không kém phần sâu sắc.
Câu giảng
trên đây của Đức Phật cho thấy rằng chẳng những
tâm thức dẫn đầu tất cả để tạo dựng ra mọi hiện
tượng mà tất cả cũng chỉ là tâm thức, và tâm
thức thì tự nó cũng tạo dựng ra chính nó. Bên
trong mọi hiện tượng và phía sau cái tâm thức
đứng ra để dẫn đầu tất cả và tự tạo dựng ra
chính nó sẽ còn lại những gì, phải chăng chỉ là
một bầu không gian trống không? Tuyệt vời
thay một câu dẫn nhập để khởi đầu cho một bài
kinh!
Đối với khái niệm về tánh không thì
sau khi thuyết giảng về Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ
Diệu Đế) Đức Phật đã nêu lên giáo lý về "vô ngã"
tức là giáo lý "không có cái tôi", hay tánh
không của một cá thể. Đấy là những gì thiết thực
và cụ thể nhất giúp cho người tu tập đạt được sự
giải thoát. Ngài chỉ nói đến tánh không ở một
cấp bậc cao hơn và tổng quát hơn qua hai bài
kinh giảng riêng cho một người đệ tử thân cận
nhất của Ngài là A-nan-đà, đấy là hai bài kinh
Culasunnata-sutta và Mahasunnata-sutta
(bài Kinh Ngắn và bài Kinh Dài về Tánh
Không). Trong hai bài kinh này Đức Phật chỉ
nêu lên tánh không theo bảy cấp bậc khác nhau.
Ngài không hề mổ xẻ và phân tích cái
tánh không ấy trên phương diện trí thức để giải
thích cho A-nan-đà mà chỉ nói cho người đệ tử
của mình biết đấy là những kinh nghiệm cảm nhận
về một thể dạng trống không "hoàn toàn tinh
khiết, vô song và tối thượng không có gì vượt
hơn được". Riêng trong Bài Kinh Ngắn về
Tánh Không Đức Phật cũng đã cho A-nan-đà
biết là mình luôn hòa nhập và an trú trong tánh
không ngày càng sâu xa hơn: "... Quả đúng như
thế, này A-nan-đà, những gì ngươi đã được nghe
thấy đúng là như thế; những gì ngươi hiểu được
cũng đúng là như thế. Đang trong lúc này, và
cũng tương tự như trước đây Ta từng an trú trong
tánh không thì nay Ta lại càng an trú sâu xa hơn
trong tánh không....".
Cái tánh không ấy mà Đức Phật đã nêu
lên với A-nan-đà đã được người sau mổ xẻ, tìm
hiểu, diễn đạt bằng trăm nghìn cách khác nhau và
đưa vào vị trí trung tâm của Đạo Pháp. Tất cả
các tông phái, học phái cũng như các vị đại sư
trên dòng lịch sử của Phật Giáo sau này đều
hướng vào một nỗ lực duy nhất là tìm mọi cách
giúp người tu tập thực hiện được những kinh
nghiệm cảm nhận về "thể dạng tinh khiết, vô
song và tối thượng, không có gì vượt hơn được"
mà chính Đức Phật đã thường trú trong ấy.
Một trong các phương pháp trên đây là
"vật thể hóa" (chosification / reification) tánh
không để khoác lên cho nó một chiếc áo mang tính
cách tích cực và cụ thể hơn, giúp cho người tu
tập dễ nắm bắt hơn. Chiếc áo mới ấy mang tên là
Bản-thể-của-Phật, Phật tính, Chân Như, Hiện Thực,
Pháp Thân, Trí Tuệ của Như Lai, Ứng Thân của chư
Phật, Thành Phần của Đạo Pháp (Dharmadhatu),
"tri-thức-tinh-khiết-căn-bản-của-tất-cả" (alayavinana),
ánh sáng trong suốt của cái chết, v.v. và v.v.
Thế nhưng phương
pháp "cụ thể hóa" hay "vật thể hóa" ấy Đức Phật
cũng đã sử dụng rồi. Ngài đã gọi tánh không
tuyệt đối hay "thể dạng cảm nhận về tánh
không tinh khiết, vô song không có gì vượt hơn
được" là niết bàn, một cõi đối nghịch
lại với cõi luân hồi. Thật vậy các thuật
ngữ niết bàn và luân hồi cũng chỉ
là những thuật ngữ và khái niệm có sẵn mà Đức
Phật đã vay mượn từ các tín ngưỡng đương thời đã
thấm nhuần trong quảng đại quần chúng, nhằm để
nói lên sự tương phản giữa hai thể dạng tâm
thức: một thể dạng giải thoát nhờ vào cách an
trú trong tánh không tuyệt đối và tối thượng gọi
là cõi niết bàn, và một thể dạng u mê,
hoang mang, đầy xao động và sợ hãi gọi là cõi
luân hồi. Tu tập cũng chỉ giản dị có thế:
chỉ là cách hoán chuyển những cảm nhận khổ đau
và xao động của cõi luân hồi trở thành sự
"cảm nhận tánh không tinh khiết, vô song và tối
thượng, không có gì vượt hơn được" trong tâm
thức của chính mình.
Hoàng
Phong

|