Thầy Tu Có Vợ
Thích Trí Siêu

Ðúng theo Ðạo
Phật thì người xuất gia (mà chúng ta quen gọi là
Sư Tăng) không được lập gia đình. Chữ Sư có
nghĩa là Thầy, chỉ có Thầy Tăng mới không được
quyền có vợ, còn những ông thầy khác như Giáo sư
(thầy dạy học), Kỹ sư (thầy kỹ thuật), Kiến trúc
sư (thầy vẽ kiểu nhà), võ sư (thầy dạy võ) v.v...
những ông thầy này được quyền có vợ chứ! Ngay cả
Ðạo sư (thầy dạy Ðạo) cũng có vợ được nếu đạo sư
đó không phải là Tăng.
Gần đây có một số
Phật tử Việt Nam theo học Ðạo với các Thầy Lạt
Ma Tây Tạng. Những Phật tử này thường vẫn còn
khái niệm Thầy tu không được có vợ. Vì thế nên
có một cô Phật tử ở Canada đến nói với tôi rằng:
"Con theo học với vị Lạt Ma này được hai
tháng nhưng sau khi biết ông ta có vợ thì thôi,
không theo học nữa".
Giá trị đạo đức
của một ông Thầy không nên được đánh giá trên
việc ông ta có vợ hay không có vợ. Ở Nhật Bản
các vị Tăng đa số đều có vợ. Có nhiều chùa, sau
khi vị trụ trì mất thì con của họ lên thay thế
làm trụ trì. Có hai vị thiền sư Nhật nổi tiếng
là Shunryu Suzuki (1905-1971) tác giả quyển "Thiền
tâm, Sơ tâm" (Zen mind, Beginner"s mind) và
Daisetz Teitaro Suzuki (1870-1966) tác giả bộ "Thiền
Luận". Khi nói về hai vị này, nhiều người gọi họ
là Ðại Sư. Tôi tự hỏi không biết những người này
có biết là hai Ðại Sư của họ có vợ chăng? Nếu
biết thì có còn gọi là Ðại Sư nữa không?
Riêng theo truyền
thống Tây Tạng thì có hai loại Lạt Ma. Lạt Ma
Tăng không có vợ và Lạt Ma cư sĩ có vợ con. Chữ
Lạt Ma (Lama) là dịch từ chữ Phạn Guru có nghĩa
là Ðạo Sư, vị Thầy chỉ đạo. Phật Giáo được
truyền vào Tây Tạng khoảng thế kỷ thứ 8 do
Padmasambhava (Liên Hoa Sanh), vị này là một Ðạo
Sư nổi tiếng về Mật Giáo, xuất thân từ tu-viện
Vikramasila, một tu-viện lớn ngang hàng với
Nalanda. Padmasambhava có hai người vợ và cũng
là hai đệ tử lớn. Chính ông đã sáng lập ra phái
Nyingmapa (Cổ Mật), trong phái này đa số các Lạt
Ma đều là cư sĩ nên chuyện có hay không có vợ
không phải là một vấn đề. Sau đó vào thế kỷ thứ
11, có thêm hai phái nữa ra đời là Kagyupa và
Sakyapa. Sơ Tổ Tây Tạng phái Kagyupa là Marpa
qua Ấn Ðộ học Ðạo với Naropa rồi trở về xứ dịch
kinh truyền Ðạo. Ðạo Sư Marpa có vợ và đệ tử
xuất sắc nhất của ông là Milarépa, vị này không
phải là Tăng mà là một đạo sĩ Du Già (Yogi,
naldjorpa). Ðệ tử kế nghiệp Milarépa là Gampopa,
một vị Tăng nên bắt đầu từ Gampopa trở đi đa số
đều là Tăng, nhưng vẫn còn một phần ba là cư sĩ.
Kế nghiệp Gampopa là Karmapa, bắt đầu từ vị này
thì có sự tái sinh trở lại ngôi vị mình cho tới
Karmapa thứ 16, vị này mới mất năm 1982. Karmapa
là vị lãnh đạo tối cao của phái Kagyupa, tương
đương với đức Ðạt Lai Lạt Ma. Vị Karmapa thứ 15
cũng có vợ. Sơ Tổ của phái Sakyapa là Sachen
Kunga Nyingpo cũng có vợ và hai vị Tổ kế tiếp
chính là hai con trai của ông. Ða số Lạt Ma của
phái này là cư sĩ, vị lãnh đạo tối cao hiện nay
là Sakya Trizin. Vào thế kỷ 14 có phái Guélugpa
ra đời, Sáng Tổ là Tsongkhapa, một vị Tăng. Kế
thừa sau này là Gendun Drub, Ðạt Lai Lạt Ma thứ
nhất. Sau khi chết, vị này tái sinh trở lại mỗi
đời, cho tới nay là Ðạt Lai Lạt Ma thứ 14 (Tenzin
Gyatso).
Trong bốn phái
lớn vừa kể, ba phái đầu được gọi là Hồng Mạo
phái (phái mũ đỏ), phái chót là Hoàng Mạo phái (phái
mũ vàng). Phái này rất tôn trọng giới luật nên
đa số Lạt Ma đều là Tăng. Kể sơ các dòng phái
của Tây Tạng để bạn đọc và người nào muốn theo
học với Phật Giáo Tây Tạng khỏi bị bỡ ngỡ trước
vấn đề "Lạt Ma có vợ". Với dân Tây Tạng, một vị
Lạt Ma có vợ hay không, việc đó không thành vấn
đề. Hơn thế nữa, trong giáo lý Mật Tông Tây Tạng
(Tantrayana) có những pháp môn mà trong đó hành
giả cần phải có vợ hay một người nữ cùng tu để
tập chuyển hóa những năng lực tính dục (énergie
sexuelle) hầu sớm mau đắc đạo. Ðây là một điều
mà Phật tử Việt Nam không thể nào hiểu nổi,
nhiều khi còn cho đó là bàng môn tả đạo. Và đây
cũng là một lý do mà tôi không muốn truyền bá
Phật Giáo Tây Tạng sau sáu năm học Ðạo với các
Lạt Ma.
Tạm bỏ qua chuyện
Sư Nhật hay Lạt Ma Tây Tạng có vợ,
bây giờ
nói đến chuyện các vị Sư hoàn tục để cưới vợ.
Theo truyền thống Phật Giáo ở các nước Nam Tông
như Thái Lan, Miến Ðiện, Tích Lan, Lào, Cam Bốt,
các vị Sư tu hành lâu năm hoàn tục vẫn được Phật
tử kính nể vì họ quan niệm rằng vị Sư đó dù đã
hoàn tục nhưng kiến thức và phẩm chất đạo đức
của ông vẫn không mất. Ngược lại trong giới Phật
tử Việt Nam thì lại quan niệm việc hoàn tục là
một sự thất bại, có nghĩa là vị Sư đó tu hành
không đến nơi đến chốn, không có nghị lực để bị
sa ngã, v.v... Vì đa số Phật tử quan niệm như
thế nên các vị Sư hoàn tục thường có mặc cảm,
rồi đoạn tuyệt hẳn với Ðạo Phật, không còn
bén mảng tới chùa nữa. Như vậy không những chùa
mất đi một vị Tăng mà còn mất luôn một người
Phật tử nữa. Ðây là một điều đáng tiếc và quan
niệm này hãy còn thiếu nhiều thương yêu hiểu
biết.
"Chiếc
áo không làm nên Thầy tu" kia mà! Sao
chúng ta cứ mãi vô minh cố chấp vào hình thức?
Tu là phải như thế này, phải như thế kia!
Từ lúc vào chùa
đi tu đến nay, tôi đã chứng kiến nhiều huynh đệ
hoàn tục. Ban đầu tôi cũng bất mãn, thầm trách
Thầy tôi sao không khuyên răn ngăn cản họ. Nhưng
rồi với thời gian, tôi hiểu và thông cảm, thấy
rằng họ còn những bài học cần phải học, cần phải
hiểu để tiến hóa. Ðạo không nhất thiết phải học
ở trong chùa hay trong kinh sách mà Ðạo ở khắp
mọi nơi.
Có nhiều Phật tử
phê phán: "Tội
nghiệp Thầy đó nghiệp nặng, hoặc Sư Cô đó còn
nặng nợ trần gian". Họ làm như mình
không còn nặng nợ nữa vậy. Có biết đâu mình cũng
nặng nợ như ai nhưng trốn nợ hoặc chưa tới lúc
phải trả đó thôi!
Thích Trí Siêu
(Pháp quốc)

các 'Sư Thầy' Phật Giáo Nhật Bản

* Chân thành cảm ơn bạn đọc Dạ Thảo đã gởi bài
viết này đến trang nhà PGĐC!
|