ẤM TRÀ ĐÊM GIAO
THỪA
NGÃ DU TỬ
Hồi mới vào bậc trung học đệ nhất cấp
khoảng năm 1968, 1969, lúc ấy ông nội tôi còn
tại thế, mỗi lần đi học về, tôi thường lân la
với ông để chuyện trò, có những điều không biết
tôi thường hỏi ông tôi. Nội tôi có thói quen là
đọc sách và uống trà. Sách ông đọc thường bằng
chữ Nho, thỉnh thoảng ông vẫn đọc sách quốc ngữ
dịch từ tiếng Hán như Tam quốc chí, Thuyết Đường,
Đông Chu liệt quốc… nghe ông nói việc uống trà
từ rất sớm lúc ấy chắc vào lúc ngoài bốn mươi,
tôi còn nhớ những động thái của ông lúc pha trà
cũng như lúc uống trà.Thế mới biết thú uống trà
cũng công phu quá đổi: ‘nghề chơi cũng lắm công
phu’.
Đầu tiên ông
đun nước sôi, không hiểu sao ông nói chỉ ấm đất
nước mới ngon pha trà mới tuyệt, lẽ ra phải dùng
nước giếng buổi sáng múc từ dưới giếng của nhà
cũ của mình hình như là mạch nước đó tốt , tôi
thì chả hiểu tốt xấu thế nào nhưng rõ ràng là
mỗi lần về quê những lần nghỉ học là khoái uống
ngụm nước giếng quê nhà múc từ giếng, nó ngọt
ngào làm sao, cái vị ngọt ấy tôi chẳng thể nào
quên, nhưng điều kiện ở thành phố không có đành
chịu, nước thủy cục thì chẳng thể nào bằng, lúc
nước sôi bùng ông vẫn còn để trên bếp bớt lửa cứ
dùng từ từ, ông tráng ấm, tráng chén , xong đâu
đó ông thận trọng mở lon trà, lon trà làm bằng
cạc- tông của Đài Loan màu đỏ, ngoài có viết chữ
thảo của Tàu, có ấm trà và chén trà khói nghi
ngút , họa sĩ Đài loan vẽ rất đẹp, bên trong
còn tráng lớp ny lông. Trà ông thường uống là
trà Kim Phát do người Tàu định
cư ở Quảng Ngãi sản xuất nước có màu xanh thơm
lạ thường lúc bấy giờ nó là danh trà ở xứ tôi,
thỉnh thoảng ai đó biếu ông bịch trà Đài Loan ,
ông quý lắm ông cẩn trọng thêm bịch ny –lông dày
buột dây cao su đeo tay kỷ lưỡng lắm, ông nói
làm như vậy trà sẽ ít bị bay hơi, mùi trà thơm
lâu, rồi ông khum tay dốc trà vào lòng tay mình
liều lượng tương đối nhất định, ông bỏ vào bình.
Ông tráng ấm, tráng ấm cũng rất điệu nghệ, lắc
đều nước quay đều đến thành miệng ấm mà chẳng ra
ngoài, rồi ông dốc bỏ nước ấy, sau đó ông chế
tiếp nước sôi vào ấm nước đặt trên bếp rề sô nhỏ
màu ô liu quân đội ,ba kiềng táo khi không nấu
nữa thì xếp vào thân gọn gàng lắm, ông rất ngăn
nắp vị trí nào ra vị trí nấy. Cái bình trà
cũng ngộ lắm, nhỏ chút xíu màu gan gà nghe ông
nói đó là ấm thời nhà Minh bên Tàu. Đặc biệt bên
dưới in chữ Tàu trong ô vuông , chữ sắc sảo lắm
và lại nữa khi ông úp xuống nó cùng nằm trên mặt
phẳng thẳng tắp ba tiếp điểm vòi bình, miệng
bình và quai bình.
Bộ bình của
ông chẳng hiểu sao có ba chén nhỏ và một chén
tống,(có lẽ bể một chén chăng?) nước đầu tiên
ông rót cả vào chén tống, rồi ông tiếp tục đỗ
nước sôi vào bình lần hai, đợi ra trà lần nầy
ông rót cả vào chén nhỏ, ông rót tuần tự hết
vòng tới vòng, trước khi uống ông đặt vào thành
mắt mình cho hơi trà xông vào mắt ông, ông nói
rằng như vậy sẽ làm mắt sáng hơn, chẳng biết
điều nầy đúng hay sai thế nào nhưng sau nầy
thỉnh thoảng khi uống trà buổi sáng tôi cũng
thường làm như vậy, tôi cũng thấy mắt mình dễ
chịu.Chuyện uống trà buổi sáng của ông có khi
đến 7, 8 giờ sáng mới xong.
Khi đâu đấy xong xuôi ông thận trọng lau
chùi bình tách và đặt lại đúng vị trí cũ, và
không quên phủ lên nó miếng nỉ màu cổ trầu.
Mùa xuân năm ấy, sau khi bàn thờ, nhà cửa
được trang trí mới để đón xuân, dù đời sống của
cha mẹ tôi là công chức chính phủ tương đối
nhưng cái tết cũng bình thường thôi, ba tôi có
thói quen là chơi nhành mai, lỡ năm nào mai đắc
đỏ quá ba tôi sai anh tôi về quê chặt mai ở vườn
nhà ra chơi, năm nào nhành mai ra nhiều cánh mai
sáu cánh là ông và ba tôi vui lắm vì ông quan
niệm rằng mai sáu cánh là hên lắm. trên nhành
mai bao giờ cũng có nhiều thiệp chúc xuân và vài
chữ phúc, lộc, thọ vàng mua ở phố về gắn lên.
Giao thừa năm
ấy, tôi cũng đã lớn . Sau thời khắc giao thừa
thiêng liêng, khi cái radio nhà tôi bắt đầu lời
vang vang chúc tết của Tổng Thống, ba tôi chăm
chú nghe, chỗ nào đắc ý thì gục đầu trông có vẻ
nghiêm nghị lắm, mẹ tôi thì cứ bảo: ‘mình* lúc
nào cũng thời sự’còn ông tôi thì thỉnh thoảng
vuốt chòm râu ‘mỹ nhiệm công’** của ông rồi từ
tốn:
- Đàn ông,
ngoài công việc của chính phủ cũng phải hiểu
thời sự, con à…
Mẹ tôi chỉ nghe
chứ không trả lời.
Lúc bấy giờ
chiến tranh đã ác liệt, thường đêm đêm những
tiếng pháo cứ ầm ì vào khu vực ngoại thành,
thỉnh thoảng cũng vào trong thành mỗi lần như
thế là xôn xao cả phố. Thị xã Quảng Ngãi là thị
xã nhỏ nên mỗi lần như vậy tôi cũng biết được,
chẳng những biết mà thậm chí tôi hiếu kỳ rủ bạn
bè trương lứa cùng xem.
Nhang đèn nghi ngút trên bàn thờ, ông tôi pha
ấm trà, tết mà, ấm trà Đài Loan chính hiệu, sau
khi rót vào ba chén nhỏ xong ông mời ba mẹ tôi
uống trà giao thừa, còn chúng tôi thì náo nức
các dĩa bánh trên bàn thờ, khi nào hạ là sẽ được
ăn thỏa thích. Lúc làm bánh thuẩn tôi chỉ được
hưởng những cái bánh thầy tu (không nở) mà đã
thấy ngon lành.
- Trà
ngon lắm con à, ông tôi nói vậy, ba mẹ tôi cùng
ông ngồi uống.
- Năm nay
đình chiến từ giao thừa đến hết ngày mùng một,
nên quân đội có ít người về ăn tết, ba tôi nói
với ông tôi như vậy, hình như còn muốn nói thêm
điều gì….trầm ngâm một lúc lâu ông lại tiếp:
- Ngày Tết là ngày thiêng liêng đó là
truyền thống ngàn đời của dân ta, thế mà chiến
tranh, chiến tranh khốc liệt quá các con à,
không biết năm nay sẽ ra sao? Ông tôi nói rất ôn
tồn, rồi ông phe phẩy cái quạt lông ông tự kết
bằng lông chim cán gỗ khéo lắm, ông tiếp:
- Người dân bao giờ cũng muốn thanh bình,
an cư lạc nghiệp đó là nguyện vọng ngàn đời duy
nhất của dân, chiến tranh chỉ làm khổ nhân dân,
nhân dân bao giờ cũng vậy thích thanh bình làm
ăn tự do không biết những người cầm quyền có
hiểu điều đó hay không, hay là họ cố tình không
hiểu? và rồi ba tôi và ông tôi mãi miết chuyện
trò còn bọn tôi khi hạ đèn là chén sạch các dĩa
bánh, trước khi đi ngủ lại ba tôi còn căn dặn:
- Ngày
mai là Tết các con không được dậy trễ, không
được khóc, phải cẩn thận không cho đổ vỡ đồ đạc,
mặc quần áo mới để mừng tuổi ông bà tổ tiên, ông
nội, ba mẹ và được… lì xì.
Chúng tôi dạ rân
và đi ngủ lại, trong đầu tôi còn nghe văng vẳng
ông tôi nói với ba tôi:
- ‘Trà
tam , tửu tứ , chu du nhị’, có lẽ bấy giờ mẹ tôi
cùng chúng tôi đi ngủ lại chăng không còn đủ ba
người nên ông nói vậy?
Tết nào cũng vậy đó là truyền thống của gia
đình cha mẹ tôi, Sau nầy tôi có gia đình tôi
cũng sẽ giữ thói quen đẹp và đáng trân trọng như
vậy với các con tôi.
Sau lần chứng
kiến uống trà đêm giao thừa của ông và ba tôi,
tôi không có dịp nào nữa nên lần ấy cứ len lén
vào tôi mỗi khi tết đến xuân về, nhất là những
khi có ai đó nhắc đến việc uống trà
Chiến tranh kết thúc, thời thế khó chúng tôi
vào Nam lập ngiệp , thời gian trôi đi lạnh lùng
như thác đổ, mới đó đã mấy mươi năm, ông tôi thì
mất ở những năm bảy ba của thế kỷ trước, mỗi lần
giỗ ông bao giờ mẹ tôi cũng pha ấm trà đắc tiền,
mẹ tôi bảo:
- ‘Lúc sinh tiền ông nội thích uống trà
ngon, ông cẩn thận trong cách pha chế và uống
trà’ tri ân cha như thế cũng quí lắm rồi.
Còn riêng tôi thì cứ băn khoăn hồi ấy tại sao
không hỏi ông hoặc ba tôi ‘trà tam, tửu tứ, chu
du nhị là gì ? mặc dù tôi vẫn tiếp tục sống với
cha mẹ tôi và đã có quá nhiều kỷ niệm vui buồn
trong đời với ba tôi nhưng có lẽ tôi không đặt
vấn đề đó nữa, có lẽ vì cơm áo, mà thú thật với
các bạn đọc ngày ấy khó lắm, tưởng rằng chữ
nghĩa không còn nghĩa lý gì khi mọi chuyện bị
chi phối bởi cái bao tử, đời sống duy nhất lúc
bấy giờ chỉ là lao động, sản xuất. Tủ sách đồ sộ
của ba tôi tích cóp từ thời ông còn rất trẻ,
tháng lương nào ông cũng sắm năm bảy đầu sách,
khi giải phóng Quảng Ngãi ông ‘được’ chính quyền
quân quản cho hồi hương, ông cẩn thận bỏ từng
cuốn sách vào những vỏ bao phân hóa học cột kỹ
lưỡng cái gia tài chữ nghĩa ấy, riêng chuyện
chuyên chở gia tài sách ấy về quê cũng mất cả
ngày vì lúc đó vận tải bằng… xe cộ, ông thì quý
sách như thế nhưng lệnh của chính quyền thì tất
cả các sách là tàn dư đồi trụy của thực dân, đế
quốc phải bị tịch thu, cha tôi sợ quá nên làm
củi nấu bếp, trong ánh lửa bập bùng của những
trang sách, con chữ tôi thấy cha tôi mắt nhòa lệ,
ông nói chỉ chính ông nghe rất khẽ khàng: ‘chữ
nghĩa là tài sản quí của đời tôi, nhưng thời thế
đành phải đốt, chẳng biết sau nầy thế hệ con tôi
có còn...’ hình như ông nghẹn ngào không nói hết
câu.
Và như ông còn tiếc rẻ nên lựa một số sách
thuần túy văn học cẩn thận bỏ vào những vỏ bao
phân hóa học nhiều lớp và cùng chúng tôi chôn
chặt dưới lớp đất trong vườn, mấy năm sau khi
tình hình tương đối lắng dịu chúng tôi lại đào
lên, than ôi, mối mọt đã tàn phá hơn 3/4 .
Thời gian lại trôi qua, ba tôi sau khi học
tập về quê cha đất tổ, ba tôi bịnh bọn chúng tôi
thì thất thời, thuốc thang lúc nầy quá đắc đỏ,
mua từng bửa, từng ngày, ông cũng mất cuối thập
niên tám mươi của thế kỷ trước, lòng tôi cứ ân
hận hoài chuyện cha tôi mất vì lúc ấy quá nghèo,
không đủ tiền chạy chữa. Mỗi lần nghĩ đến chuyện
nầy lòng tôi lại nhỏ lệ rưng rưng.
Rồi sau nầy tôi
cũng tìm hiểu thế nào về chuyện : - trà tam tửu
tứ chu du nhị, khốn thay những lời giải thích
của nhiều người tôi chưa thấy thuyết phục nên
nửa tin nửa ngờ.
Mãi khi tôi gặp thầy Thiện Nhơn, người mà
tôi rất kính phục về sự uyên bác kiến thức, đặc
biệt là thầy kể các chuyện Tàu như Tam quốc,
Thủy hử, Đông Châu liệt quốc…những nhân vật thầy
nhớ rõ lắm, khi tôi hỏi thầy về vấn đề nầy :-
“tại sao người xưa lại bảo: trà tam, tửu tứ,
chu du nhị” thầy suy nghĩ lục lạo lại trí nhớ
của mình, rồi ôn tồn trả lời:
- Thầy có đọc vấn đề nầy ở đâu đó nhưng
bây giờ thì không nhớ chính xác tài liệu nào,
đại loại như thế nầy: người xưa cẩn thận lắm,
nên thường bàn những việc đại sự của đất nước,
dân tộc , chuyện còn mất…phải kín kẻ, ba người
tâm phúc nhau thôi bởi vì ba ít lộ ra ngoài,
uống trà ba người để đàm đạo việc đời phải trái,
thắng thua, đạo đức, luân lý, chính trị, xã hội,
đời sống…nên phải tỉnh táo để thấy được cái thâm
sâu của người xưa vì trà là chất làm sảng khoái
thần kinh , và ba cũng là cụm đoàn kết ước lệ
tối thiểu, tức yếu tố cần và đủ của cổ nhân, nên
ca dao có câu ‘ một cây làm chẳng nên non, ba
cây chụm lại thành hòn núi cao’, khác với rượu,
rượu là uống để vui vầy cùng bạn bè, người thân
nên không khí ồn ào đông vui là chính nên tửu tứ
là vậy chắc các con trong đời cũng từng thấy
được điều nầy, có ai bàn việc tối quan trọng
bằng rượu đâu nào. Còn chu du nhị ư? Ngày xưa,
đâu có phải ai cũng du lịch được, người đi chơi
là giới trung thượng lưu nên đi chơi tức là đi
thưởng lãm những danh lam thắng cảnh non nước
hữu tình rồi cảm tác, rồi chuyện trò nên nếu
một thì có cảnh buồn vui thì ai chia xẻ, tâm
tình lúc thưởng ngoạn, cảm tác…vì vậy đi chơi
với hai là thú vị nhất, nên ‘ chu du nhị là như
vậy’
Nghe thầy
giải thích như vậy tôi lấy làm vui vì có tính lý
luận thuyết phục nên tôi tin là như vậy, nhưng
trong tài liệu nào thì đến nay tôi vẫn chưa có
duyên để đọc được, dù sao cũng nói lên điều nầy
để những ai đọc rồi giới thiệu cho nhau cùng
hiểu thêm.
Sau nầy các anh chị em tôi ai cũng có
gia đình riêng lẽ nên chẳng thể có được cái
hương vị quá khứ ấy.Từ mấy chục năm nay, sống ở
đất Sài Gòn hoa lệ nầy nhưng tôi chưa bao giờ
tận hưởng cái không khí ấm áp đó, có lẽ phong
tục mỗi vùng miền khác nhau hay là lý do gì nữa
hoặc vì không ai đàm đạo.
Những
năm gần đây, cứ mỗi lần tết đến xuân về tôi lại
nhớ ấm trà đêm giao thừa xa lắc năm xưa, khi còn
ông nội tôi vui vầy với cha mẹ và anh chị em tôi,
sao mà nghe ấm áp lạ thường.
Cuộc đời nầy làm gì có được những chuyện
đã mất đi, nếu còn chăng là kỷ niệm của đời
người, mà kỷ niệm đẹp thì giữ vào góc riêng hồn
mình để tận hưởng ký ức ngọt ngào, việc ấy tự do
chẳng ai cấm cản, may thay./.
NGÃ DU TỬ
ảnh Hoàng Dũng Hùng
============================
MÀU HOÀNG HOA
XUÂN
Ngày cứ mãi trôi theo dòng sông bạc
Như cơ hồ đánh đố với người thơ
Mơ trùng dương dậy sóng giục giang hồ
Đêm kỳ diệu,- Em cung trầm suy niệm
Đời trước mặt thơ ngọc ngà tương tiến
Bước thăng hoa ngày đơm sắc hương lòng
Sợi nắng vàng căng như dây đàn căng
Ngôn ngữ gọi lung linh nghìn ánh mắt
Tiếng xuân ca cứ ngọt ngào rót mật
Hồn đê mê , hởi cung bậc thăng trầm
(nghe lầm than hóa đá đứng lặng căm
Thềm hiu quạnh có xanh màu ngọc bích? )
Tiếng em hát man man làn nước biếc
Dòng sông êm thân ái chảy về nguồn
Đóa xuân vàng thèm khát đến vàng thơm
Dâng tha thiết cho đời thơm đến vậy
Xuân ngao du từ ngàn xưa trỗi dậy
Màu hoàng hoa ấm áp cõi lòng ta
Suối yêu thương tuôn chảy rất thực thà
Muôn trìu mến thả tơ lòng cảm xúc./.
NGÃ DU TỬ
DON QUÊ*
Ngã bóng xế cơn
gió chiều quạnh vắng
Đôi vai gầy một
quang gánh don
Tiếng rao vang
vọng vào con phố
Nhịp bàn chân
theo bước thật giòn
ồ, lâu lắm tô don
quê trước mặt
khói hương bay
thơm ngát cả tâm hồn
thời trai trẻ
thêm lần tái hiện
dáng quê nhà đỏ
như dấu son
người xa xứ luôn
nhớ về quê quán
những thân quen
từ độ biết yêu người
ngày trở lại nhìn
tô don nóng hổi
hởi con don độ
lượng hiến dâng đời
màu don đỏ, như
triện son ấn chứng
vị sông Trà ngọt
lịm của tình quê
hớp miếng don như
hớp trăng cổ độ
có tình tôi xa
nhớ buổi quay về
ơi, hương vị quê
nhà, thưa: - rất tuyệt
hiểu giùm tôi nổi
thương nhớ vô cùng
đôi quang gánh và
tấm thân gầy guộc
giữ hồn quê trong
cách sống âm thầm
Ngã Du Tử
Sài Gòn, Việt Nam
*một loài như
ốc đòn xóc nhưng ruột đỏ, thịt thơm và rất ngọt,
đặc sản của Quảng Ngãi…
|