Ý Nghĩa Cái Chết Theo Quan Điểm Phật Giáo
Hoang Phong

"Bên trong thân xác bằng một sải tay mang đầy
giác cảm này, Như Lai xem đấy cũng chẳng khác
gì như toàn thế giới, sự hình thành của thế
giới và cả con đường đưa đến sự chấm dứt của thế
giới". Lời
Phật dạy (Kinh Tăng Nhất A Hàm)

Phật Giáo đưa ra nhiều quan điểm khá khác biệt
nhau về cái chết. Nếu đã có nhiều quan điểm khác
nhau thì tất nhiên cũng sẽ phải có nhiều phép tu
tập khác nhau. Thế nhưng cái chết cũng chỉ là
một hiện tượng duy nhất, vậy chúng ta hãy thử
tìm hiểu xem tại sao Phật Giáo lại có nhiều quan
điểm và nhiều phép tu tập như thế.
Bài viết ngắn này không mang tham vọng phân tích
sâu xa một chủ đề to lớn trên đây mà chỉ cố gắng
tìm hiểu quan điểm của Phật Giáo về chủ đề này,
giới hạn trong ba khuynh hướng tu tập dựa vào
những nền móng giáo lý gần hơn hết với Đạo Pháp
là: Phật Giáo Theravada, Kim Cương Thừa và Thiền
Học Zen.
Cái chết
luôn mang lại cho con người một sự lo âu sâu kín
và ray rứt nhất, thế nhưng để cái chết có thể
xảy ra thì ít ra trước đó cũng phải có sự sống.
Sự sống và cái chết cũng chỉ là hai khía cạnh
của một hiện tượng, nếu chỉ nhìn vào một khía
cạnh thì tất nhiên sẽ khó tránh khỏi một cái
nhìn phiến diện hay một sự thiếu sót lớn lao.
Vậy trước hết chúng ta cũng nên tìm hiểu và định
nghĩa cái chết và cả sự sống là gì - ít nhất là
trên phương diện tâm linh - hầu giúp chúng
ta dễ theo dõi và phân tích vấn đề hơn.
Định nghĩa về sống chết theo quan điểm Phật Giáo
Phật Giáo quan niệm cái chết chỉ là một sự
chuyển tiếp, một hiện tượng hay biến cố trên
dòng tiếp nối liên tục của sự sống. Đối với hành
tinh này thì các nhà khoa học cho rằng sự sống
bắt đầu hình thành cách nay khoảng từ 3,5 đến
3,8 tỷ năm. Sự sống đó khởi đầu bằng sự kết hợp
các thành phần vô cơ để tạo ra các phân tử hữu
cơ nhờ vào một số điều kiện môi trường thuận lợi
xảy ra trên địa cầu. Sau đó các phân tử này lại
kết hợp với nhau và dần dần biến thành các vi
sinh vật thật thô sơ. Các vi sinh vật thô sơ này
lại kết hợp với nhau để trở thành các vi sinh
vật đa bào, dưới dạng thực vật cũng như động vật.
Các vi sinh vật đa bào thô sơ theo dòng tiến hóa
lại tiếp tục biến thành các sinh vật phức tạp và
đa dạng hơn: từ những loài khủng long to lớn cho
đến con người rất thông minh và biết suy nghĩ.
Trên dòng tiến hóa đó vô số chủng loại đã bị tận
diệt cũng như hàng tỉ cá thể đã chết. Ngay đối
với riêng loài người trên dòng hình thành đó
cũng đã có nhiều chủng loại bị tận diệt. Các nhà
sinh học gọi chung dòng tiến hóa đó của sự sống
là sự "hình thành sinh học" (biogenesis). Tóm
lại sự sống trên bình diện tổng quát, ít nhất là
trên hành tinh này, là một sự tiến hóa liên tục
và "cái chết" thì mang hai khía cạnh khác nhau:
sự biến mất đồng loạt của một chủng loại (chẳng
hạn như các loài khủng long) và cái chết của
từng cá thể sinh vật (chẳng hạn như cái chết của
mỗi người trong chúng ta). Nếu sự tiến hóa và
tận diệt của một chủng loại trực tiếp hay gián
tiếp tạo ra điều kiện thuận lợi và cần thiết đưa
đến sự hình thành của một chủng loại mới, thì
nếu căn cứ theo mô hình đó ta cũng có thể nghĩ
rằng cái chết của một cá thể hay một sự sống
cũng sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi và cần thiết
để làm phát sinh ra một sự sống khác.
Những hiểu biết khoa học trên đây rất gần với
quan niệm của Phật Giáo về sự sống và cái chết:
tất cả chỉ là một sự tiếp nối và chuyển động bất
tận. Quan niệm đó khác hẳn với quan niệm của các
tôn giáo thần khải khi các tôn giáo này xem mỗi
sự sống là "duy nhất" và mỗi cái chết cũng là "duy
nhất": cả hai đều tùy thuộc vào ý chí của một
Đấng Tối Cao. Phật Giáo trái lại chỉ là một tín
ngưỡng phát sinh từ kinh nghiệm của con người,
dựa vào kinh nghiệm của một con người là Đức
Phật, một con người đã đạt được sự Giác Ngộ (Bodhi)
có nghĩa là đã đạt được sự hiểu biết đích thật
về sự vận hành của sự sống và cái chết và cả bản
chất của thế giới.
Sống
và Chết là một quá trình xoay vần
Phật Giáo xem sự sống và cái chết là một quá
trình diễn tiến và xoay vần liên tục. Cái chết
không phải là một "thể dạng" đối nghịch lại với
sự sống mà đúng hơn chỉ là một quá trình "ngược
chiều" với với sự sinh (theo Phật Giáo sự sinh
có nghĩa là: hình thành, già nua, bệnh tật và
chết). Quá trình "xuôi dòng" của sự sống và "ngược
dòng" của cái chết tạo ra một "chu kỳ xoay vần"
bất tận. Chúng ta chỉ quan sát được quá trình
xuôi dòng của sự sống mà không hình dung ra được
quá trình đảo ngược của nó tức là cái chết và
những gì xảy ra phía sau cái chết, bởi vì quá
trình này sẽ gồm những sự tan biến của những thứ
cấu hợp phát sinh từ sự hình thành. Sự tan biến
đó sẽ tạo ra các điều kiện cần thiết đưa đến một
sự hình thành khác. Nói một cách khác là chúng
ta chỉ trông thấy "bằng mắt" một nửa "chu kỳ
xoay vần" trên đây mà thôi. Thật ra "xuôi dòng"
hay "ngược dòng" thì cũng chỉ là những hình ảnh
cụ thể hóa nhằm giúp chúng ta hình dung ra sự
luân lưu và biến động liên tục của sự sống và
cái chết được dễ dàng hơn thế thôi. Sự sống và
cái chết trên bình diện tổng quát cũng chẳng
khác gì như các hiện tượng khác, cũng đều thuộc
vào sự chuyển động chung của toàn thể vũ trụ.
Động cơ thúc đẩy sự chuyển động trên đây là hậu
quả của những tác động gây ra từ quy luật tương
liên, tương tác và tương tạo giữa mọi hiện tượng
(pratityasamutpada / interdependence /
conditioning co-production / lý duyên khởi). Quy
luật nguyên-nhân-hậu-quả (karma) là một
thành phần nằm bên trong quy luật tương liên này
và được hiểu như là một quy luật đặc biệt chi
phối trực tiếp quá trình xoay vần của sự sống và
cái chết. Không có một sức mạnh nào có thể chận
đứng hay làm chuyển hướng được sự vận hành tự
nhiên đó.
Vòng xoay vần liên quan đến sự sống và cái chết
của con người cũng sẽ chỉ xảy ra cho con người,
thế nhưng không phải vì thế mà cái chết của con
người là một biến cố ngoại lệ, khác hơn với cái
chết của các sinh vật khác. Cái chết của con
người hay của mọi sinh vật cũng đều nằm trong sự
vận hành chung của vũ trụ. Do đó cái chết không
phải là một bước nhảy xổ vào một hố sâu hay rơi
vào một cõi trống không, hoặc bay vào một thế
giới khác như sự tưởng tượng của nhiều người.
Tuy nhiên và dù sao đi nữa thì cái chết cũng là
một sự tan biến của những gì đã được cấu hợp.
Theo Phật giáo thì mầm mống của sự tan biến ấy
đã nằm sẵn bên trong sự sinh ngay từ lúc tinh
trùng mới bắt đầu phối hợp với noãn cầu, không
phải sự tan biến chỉ khởi sự từ lúc tim hết đập
và phổi hết thở. Thế nhưng nhiều người lại cứ
xem sự tan biến ấy như là một biến cố đột ngột
và mang tính cách tiêu cực, vì thế mà cái chết
cũng thường được diễn đạt như là một sự chia lìa,
một sự sụp đổ của một thể dạng thăng bằng, một
sự đứt đoạn nào đó. Cũng có người hình dung cái
chết như là một sự bất công và phi lý, hoặc đấy
là do ý chí của Trời (volonté de Dieu / God's
will) mà con người không hiểu nổi, hoặc có khi
cũng cho đấy là một thảm trạng, một định mệnh,
một sự bất lực của con người, một sự tàn ác của
thiên nhiên, v.v... Các cách diễn đạt này không
tránh khỏi mang lại mọi thứ khổ đau. Phật Giáo
không hề hình dung cái chết dưới những khía cạnh
ấy.
Quy luật vô thường và cái chết
Như vừa trình bày trên đây, đối với một số người
thì cái chết biểu trưng cho một sự "đứt đoạn" và
họ xem đấy như là một "biến cố" lớn đưa đến một
sự chấm dứt cuối cùng, do đó đã khiến họ sợ hãi.
Lý do cũng không phải là quá khó hiểu, đấy chẳng
qua là vì họ luôn sống tách rời với hiện thực.
Nếu phát huy được sự chú tâm và cảnh giác để
sống gần hơn với thực tại và hòa mình với hiện
thực thì có thể chúng ta sẽ cảm nhận được hiện
tượng "đứt đoạn" ấy cũng chẳng khác gì như rất
nhiều những hiện tượng "đứt đoạn" khác thường
xuyên xảy ra chung quanh ta. Những biến đổi trên
thân xác và những biến động thường xuyên trong
tâm thức cũng là những sự "đứt đoạn" thế nhưng ở
vào một cấp bậc thấp hơn và tinh tế hơn. Một khi
đã trông thấy những sự "đứt đoạn" đó xảy ra liên
tục khắp nơi thì chúng cũng sẽ phát huy được một
tầm nhìn đúng đắn và chính xác hơn về bản chất
của thế giới chung quanh. Phật Giáo gọi bản chất
"đứt đoạn" và "không trường tồn" đó là "vô
thường" (anitya / impermanence). Nếu bản
chất của thế giới là vô thường và cái chết là
một sự sụp đổ hay đứt đoạn vậy thì có một hiện
tượng nào mang tính cách "trường tồn" và "vĩnh
cửu" không?
Nếu chú tâm để quán xét những gì xảy ra trong
thế giới và cả bên trong tâm thức của chính mình
thì chúng ta cũng sẽ dễ dàng nhận thấy là sự "trường
tồn" không hề là một đặc tính của sự hiện hữu,
dù thuộc vào lãnh vực vật-chất hay phi-vật-chất.
Sự "trường tồn" chỉ là một cảm giác lừa phỉnh
liên quan đến những ước vọng bất tận của con
người nhằm tìm đủ mọi cách để lẫn trốn khổ đau
mang lại từ vô thường.
Thế nhưng tại sao vô thường lại là nguyên nhân
mang lại khổ đau? Bởi vì chúng ta không chấp
nhận nó, đơn giản chỉ có thế! Chúng ta chối bỏ
nó, làm ngơ như không có nó, và cũng không thừa
nhận nó như là một sự kiện hiển nhiên của sự
hiện hữu. Mặc dù làm ngơ như không trông thấy nó,
hoặc còn lâu nó mới xảy đến với mình, tức có
nghĩa là xem nó như là một thứ gì từ bên ngoài
sẽ xảy đến với mình vào một lúc nào đó, thế
nhưng thật ra thì cái chết là bản chất của chính
mình, nó thấm sâu trong tạng phủ và tâm thức
mình, trong từng tư duy và xúc cảm của chính
mình, nó là gia tài của chính mình. Mỗi người
trong chúng ta đều thừa hưởng cái gia tài đó từ
khi tinh trùng của cha và noãn cầu của mẹ kết
hợp với nhau để mang lại sự hình thành của mình.
Tóm lại chấp nhận vô thường là bước tiên khởi
của một người tu tập Phật Giáo.
Sự tương liên giữa sự sống và cái chết
Như vừa được trình bày trên đây, cái chết là gia
tài tự tại của chính mình. Tại sao lại như thế?
Chúng ta và mọi hiện tượng khác trong thế giới -
kể cả tư duy và xúc cảm bên trong tâm thức - tất
cả đều mang bản chất cấu hợp, không có một ngoại
lệ nào cả. Vậy bản chất "cấu hợp" của một hiện
tượng là gì? Sự "cấu hợp" là kết quả phát sinh
từ sự kết hợp của nhiều thành phần với nhau dưới
tác động của quy luật tương liên và quy luật
nguyên-nhân-hậu-quả. Tất cả mọi hiện tượng đều
sinh ra từ một số nguyên nhân nào đó, và ngay
sau đó chúng sẽ lại trở thành các nguyên nhân
khác để đưa đến những sự kết hợp khác, làm phát
sinh ra các hiện tượng khác.
Cha và mẹ mỗi người là một sự kết hợp nhờ vào vô
số nguyên nhân và thành phần. Sự kết hợp giữa họ
- tức là sự "quen biết" giữa hai người với nhau
- cũng phải cần đến thật nhiều điều kiện và cơ
duyên. Sự kết hợp đó đưa đến sự hình thành của
ta. Sự hình thành của ta cũng khởi sự bằng một
sự cấu hợp giữa tinh trùng và noãn cầu, tinh
trùng và noãn cầu lại cũng là những thành phần
kết hợp. Sự cấu hợp giữa tinh trùng và noãn cầu
tiếp tục phát triển và biến đổi, các cơ quan
giác cảm được hình thành, tư duy và xúc cảm phát
sinh, "cái tôi" (cái ngã) được tạo dựng..., Đến
một lúc nào đó thì các điều kiện chống đỡ sự "cấu
hợp" và "phát triển" ấy không còn hội đủ nữa, và
khi đó ta cũng sẽ tan biến, từ thân xác cho đến
xúc cảm và tư duy, kể cả "cái tôi". Sự tan biến
đó gọi là cái chết của ta.
Thế nhưng nếu chúng ta hình dung cái chết như là
một sự biến mất, một sự chấm dứt, không còn lưu
lại gì cả thì nhất định đó là một sự sai lầm.
Trên phương diện vật chất chúng ta lớn lên nhờ
không biết bao nhiêu thức ăn do người khác tạo
ra, trên phương diện phi-vật-chất tức là tinh
thần thì nhờ vào giáo dục và những kinh nghiệm
cảm nhận mang lại từ các cơ quan giác cảm. Khi
nào các điều kiện tạo ra sự cấu hợp đó vẫn còn
hội đủ thì ta "còn sống". Nếu đã gọi là "sống"
thì khó tránh khỏi đủ mọi thứ tư duy và xúc cảm
phát sinh, đưa đến sự hình thành của "cái tôi".
Từ "cái tôi" đó sẽ sinh ra tác ý, tác ý đưa đến
hành động và ngôn từ. Tác ý, hành động và ngôn
từ sẽ làm phát sinh ra vô số hậu quả, các hậu
quả đó sẽ tác động đến tất cả chúng sinh và môi
trường chung quanh. Sự kiện đó cho thấy tác động
do một "sự sống" tức là một cá thể gây ra vẫn
tiếp tục tỏa rộng và trường tồn, tạo ra vô số
những điều kiện khác làm phát sinh ra vô số
những hiện tượng khác, dù cho "sự sống" đó hay
cá thể đó đã tan biến và không còn hiện hữu nữa.
Vậy nếu quan niệm cái chết là một sự xóa bỏ, một
sự đứt đoạn hay một sự chấm dứt thì nhất định là
sai.
Giới hạn trong khuôn khổ của một cá thể thì sự
tan rã của một cá thể này sẽ tạo ra nguyên nhân
và điều kiện để làm phát sinh ra một cá thể khác,
luôn luôn phù hợp với quy luật nguyên-nhân-hậu-quả.
Cá thể mới phản ảnh và liên hệ với cá thể cũ,
thế nhưng không phải là một sự "lập lại", bởi vì
vô số nhưng điều kiện và nguyên nhân mới đã tham
gia vào sự hình thành của cá thể mới ấy. Do đó
một sự sinh mới không hoàn toàn khác nhưng cũng
không phải hoàn toàn giống với sự sinh cũ. Một
người tu tập phải luôn hình dung sự tái sinh của
mình theo mô hình đó. Kinh sách Pali, tức là
kinh sách được xem là ghi chép những lời thuyết
giảng của Đức Phật, chỉ nói đến sự "tái sinh"
(renaissance / rebirth) nhưng không hề nói đến
sự "đầu thai" (reincarnation) còn gọi là hoán
sinh hay chuyển sinh (transmigration).
Tóm lại nếu bước đầu của một người tu tập là
phải chấp nhận hiện tượng vô thường, thì bước
thứ hai sẽ phải xem cái chết như là một sự mở
rộng nhằm tạo điều kiện thuận lợi và cần thiết
làm phát sinh ra một sự sinh mới, và sự sinh mới
này không phải là một sự lập lại nhưng cũng
không phải hoàn toàn khác hẳn với sự sinh cũ
trước đó.
Mối liên hệ mật thiết giữa hai sự sinh
Chúng ta vừa thấy sự sinh này làm phát sinh ra
một sự sinh khác nhờ vào cái chết làm trung gian.
Vậy những mối dây tương tác nào đã tạo ra sự "liên
hệ" giữa hai sự sinh? Như đã được trình bày trên
đây tất cả mọi hiện tượng trên thế giới đều mang
bản chất cấu hợp, có nghĩa là được phát sinh từ
một số nguyên nhân và thành phần nào đó, các
hiện tượng này lại trở thành nguyên nhân làm
phát sinh ra các hiện tượng khác. Đó là một quy
luật toàn cầu chi phối sự vận hành của toàn thể
thế giới, con người không phải là một ngoại lệ:
sự sinh mang bản chất cấu hợp này sẽ làm phát
sinh ra một sự sinh mang bản chất cấu hợp khác.
Thế nhưng những sự liên hệ giữa hai sự sinh xảy
ra như thế nào, bằng cách nào và dựa trên những
cơ sở nào?
Mối dây tương tác tạo ra sự liên kết giữa hai sự
sinh là "dòng chuyển động không ngưng nghỉ của
tri thức". Dòng chuyển động đó mang tính cách
phi-vật-chất và gồm những xung năng (impulsions
/ pulses) thật tinh tế xảy ra tiếp nối nhau,
chúng xô đẩy nhau và đồng thời cũng tương tác
với nhau, và vào một lúc thích nghi nào đó thì
chúng sẽ trở thành các nguyên nhân trực tiếp đưa
đến một sự sinh mới.
Đức Đạt-lai Lạt-ma gọi dòng lưu chuyển của những
xung năng đó là "dòng tiếp nối liên tục của tri
thức" (continuum of consciousness). Có thể hình
dung dòng tiếp nối đó như là một chuỗi dài gồm
các đơn vị tri thức (hay xung năng) liên kết và
tương tác với nhau. Dòng tiếp nối ấy sẽ mang
theo với nó các "chủng tử" của nghiệp. Một cá
thể mỗi khi phát lộ một tác ý, thực thi một hành
động hay thốt ra một ngôn từ thì tức khắc sẽ gây
ra hậu quả hay nghiệp (karma), và nghiệp
sẽ lưu lại dấu vết của chúng dưới hình thức các
các "vết hằn" in đậm trên từng đơn vị của dòng
tri thức của cá thể ấy. Tóm lại mỗi đơn vị tri
thức khi hiện ra sẽ tiếp nhận các vết hằn của
nghiệp phát sinh từ các hành động xảy ra trùng
hợp với thời điểm hiển hiện của nó. Các vết hằn
này sẽ tác động với các vết hằn có sẵn trong đơn
vị ấy do đơn vị xảy ra trước đó đã chuyển sang
cho nó. Sự tương tác giữa các vết hằn cũ có sẵn
và các vết hằn mà nó vừa tiếp nhận được sẽ tạo
ra những vết hằn mới. Các vết hằn mới này lại sẽ
được chuyển sang cho đơn vị tri thức hiện ra
tiếp theo đó, và cứ tiếp tục như thế... Sự tương
tác giữa nghiệp cũ và mới trên cùng một đơn vị
cho thấy rằng nghiệp do những hành động thực thi
từ trước có thể biến đổi khác đi. Do đó các xung
năng của nghiệp ghi khắc trên các đơn vị tri
thức dưới dạng các vết hằn cũng có thể sẽ trở
nên nặng nề hơn, hoặc nhẹ bớt đi, hoặc cũng có
thể bị chận đứng khiến chúng sẽ "ngủ yên" trong
một thời gian dài hay ngắn. Chẳng hạn các nghiệp
thật xấu cũng có thể sẽ "ngủ yên" hoặc chuyển
hướng, hay hoàn toàn được hoá giải bởi các hành
động đạo hạnh, sự tu tập kiên trì, hoặc cũng có
thể nhờ vào kết quả mang lại từ các phép thiền
định.
Trong cuộc sống thường nhật dòng tri thức của
một cá thể liên tục ghi nhận hậu quả do hành
động của cá thể ấy tạo ra. Mỗi đơn vị sau khi
tiếp nhận các vết hằn vừa được tạo ra sẽ "nhào
nặn" chúng cùng với các vết hằn cũ mà nó đã tiếp
nhận được từ trước để tạo ra một "tổng hợp" các
vết hằn mới mang các "xung năng" mới. Dù cho cái
chết có xảy ra với cá thể ấy thì dòng tri thức
tinh tế này vẫn tiếp tục lưu chuyển và không bao
giờ bị gián đoạn. Trong giai đoạn chuyển tiếp
này, các khả năng thuộc thân xác, giác cảm và
tâm thức sẽ tan biến hết và do đó sẽ không trực
tiếp tạo ra thêm các vết hằn mới trên dòng tri
thức, thế nhưng các đơn vị của dòng tri thức ấy
vẫn tiếp tục tiếp nhận ảnh hưởng mang lại từ
những tác động thật tinh tế tạo ra bởi các bối
cảnh và môi trường phi-vật-chất chung quanh
trong khi quá trình của cái chết đang diễn tiến.
Sự kiện này cho thấy sự "hồi hướng", các "nghi
lễ" hay một bối cảnh thiêng liêng nào đó hiện ra
cũng có thể mang lại một số tác động lợi ích có
thể biến cải được các dấu vết có sẵn trên dòng
tri thức của một cá thể trong giai đoạn đang xảy
ra sự tan biến của quá trình cái chết. Dù sao đi
nữa thì nghiệp đã được ghi khắc và tồn lưu trên
dòng tri thức cũng sẽ tương tác với bối cảnh mới
trong một môi trường mới như là các cơ duyên làm
phát sinh ra một sự sinh mới.
Tóm lại, bước thứ ba của người tu tập
là phải ý thức được tác động của nghiệp và quá
trình vận hành của nó trên dòng tri thức
của mình hầu giúp mình biết giữ gìn thế nào cho
dòng tri thức ấy được tinh khiết nhằm mang lại
cho mình niềm an vui trong kiếp sống hiện tại và
tạo ra những nguyên nhân thuận lợi cho kiếp sống
tương lai.
Các cách ứng phó với cái chết
Trong tận cùng của tâm thức, mọi người đều mong
cầu tìm được hạnh phúc, thế nhưng các giải pháp
thuộc các lãnh vực chính trị, triết học, khoa
học, y khoa, kỹ thuật... mà xã hội đang nỗ lực
thực hiện có mang lại được hạnh phúc mà con
người mong cầu hay không? Trước câu hỏi này Phật
Giáo khẳng định một cách dứt khoát là KHÔNG! Quả
cũng không khó để nhận thấy sự tiến bộ khoa học,
y khoa cũng như các phương tiện kỹ thuật hiện
đại, kể cả các chủ thuyết triết học và các thể
chế chính trị..., tất cả đều không mang lại một
giải pháp nào có thể hóa giải được vô thường và
ứng phó hữu hiệu với cái chết. Các cố gắng - nếu
không muốn nói là các thái độ mang tính cách
kiêu căng và thách thức ấy - của xã hội con
người thật ra chỉ là những cách tránh né hiện
thực, tạo ra một sự mất thăng bằng liên tục đưa
đến các sự xung đột và chiến tranh mà thôi. Sự
say mê tìm kiếm một sự an toàn nào đó - dù đấy
là của cải, sức khoẻ hay tâm linh - chỉ là những
cách phản ứng phát sinh từ những mối lo âu ích
kỷ và một tầm nhìn thiển cận về sự sống ngắn
ngủi của cá nhân mình trong thế giới này.
Tóm lại giải pháp có thể giúp mang lại sự an vui
không thuộc vào bối cảnh bên ngoài, và cũng
không nhất thiết là một trọng trách của xã hội,
mà đúng hơn là thuộc nội tâm của mỗi cá thể.
Giải pháp đó chỉ có thể mang lại bằng sự hiểu
biết đúng đắn về bản chất đích thật của mình và
của các hiện tượng đang chuyển động chung quanh.
Thật vậy chúng ta nào có biết được bản chất của
sự hiện hữu của mình là gì đâu? Chúng ta cũng
chẳng hiểu được tại sao mình lại sinh ra đời?
Cái tên do cha mẹ tùy hứng đặt cho mình nào có
phải là mình đâu! Chúng ta chỉ biết tự nhận diện
mình xuyên qua cảm tính của một "cái tôi" đứng
phía sau cái tên gọi ấy như là một thứ nhãn hiệu
đại diện cho mình. Chúng ta bám víu vào "cái tôi"
và cái nhãn hiệu ấy để hiện hữu và để phát lộ
mọi thứ xúc cảm: bấn loạn cũng có, thích thú
cũng có, ích kỷ cũng có, hung dữ cũng có, thương
yêu cũng có, đam mê cũng có... Nếu chúng ta cứ
tiếp tục cảm nhận sự hiện hữu của mình xuyên qua
những thứ xúc cảm đó và cho rằng đấy là bản chất
của sự sống của chính mình thì quả thật hết sức
thô thiển, hời hợt và sai lầm. Phật Giáo gọi
những sự cảm nhận ấy là những cảm nhận phát sinh
từ vô mình.
Nếu muốn xóa bỏ vô minh để nhìn thấy bản chất
sâu kín của chính mình và của thế giới thì chỉ
có một giải pháp duy nhất là sự chú tâm. Sự chú
tâm giúp chúng ta chiến thắng vô minh tức là sự
u mê tâm thần để quán thấy những gì tàng ẩn phía
sau những cảm tính lừa phỉnh ấy, hầu có thể giúp
mình quay trở về với bản chất đích thật và
nguyên sinh của chính mình. Sự chú tâm cũng là
một yếu tố tối cần để phát huy trí tuệ hầu giúp
mình quán thấy bản chất của thế giới hiện tượng
đang chuyển động chung quanh mình. Thế nhưng nếu
muốn gia tăng sự chú tâm và phát huy trí tuệ thì
phải làm sao? Không có cách nào khác hơn là phải
thực hành phép thiền định.
Nói đến thiền định tất sẽ có người lo ngại hoặc
nản chí vì không hiểu thiền định là gì. Sống với
tham vọng, nhìn vào "cái tôi", nuôi nấng, bảo vệ
sự si mê của mình, ước mơ thực hiện được những ý
đồ của mình... chỉ là những cách mang lại cho
mình sự xao động thường xuyên. Trái lại, sống
trong đơn sơ, trở về với bản chất chân thật và
giản dị của mình và thỉnh thoảng ngồi xuống
trong yên lặng, thì đấy gọi là thiền định. Thật
vậy không có gì dễ dàng hơn là sống trong đơn sơ
và ngồi xuống trong yên lặng, thế nhưng đó lại
là cách mở ra cho mình một bầu không gian rộng
lớn. "Trong bầu không gian mênh mông đó Thần
Chết (Mara) sẽ không còn tìm thấy mình ở
đâu cả" (Kinh Pháp Cú, tiết 170). Ngồi yên để
thiền định không phải là cách giả vờ chết hay
lẫn trốn "Thần Chết" mà đúng hơn là cách cứ để
cho "Thần Chết" chết theo với "cái tôi" và những
thứ xúc cảm bấn loạn của mình. Dù sao nếu muốn
cho việc thiền định mang lại hiệu quả thì phải
có một cuộc sống thích nghi. Một cuộc sống hối
hả, mưu đồ và tính toán sẽ không bao giờ giúp
cho việc thiền định mang lại hiệu quả được. Học
hỏi những lời giảng huấn của Đức Phật và sống
với những lời giảng huấn ấy một cách chân thật
và nghiêm túc là cách tạo ra cho mình những điều
kiện thuận lợi để thiền định và đồng thời sẽ
mang lại cho mình một cuộc sống tốt đẹp. Một
cuộc sống tốt đẹp tất sẽ đưa đến một cái chết
tốt đẹp. Một cái chết tốt đẹp sẽ đưa đến một sự
tái sinh tốt đẹp. Cái chết chỉ là hình ảnh phản
chiếu sự sống hiện tại của mình trong một tấm
gương. Nếu giữ được một cuộc sống nghiêm minh và
thực hiện được phép thiền định thật sâu xa thì
biết đâu mình cũng có thể đạt được một mức độ
giải thoát nào đó ngay trong kiếp sống này?
Kinh sách xưa gọi sự giải thoát là một sự "đình
chỉ" (nirodha), nói cách khác thì đấy là
một sự "mở rộng trí tuệ" giúp mình cởi bỏ những
mối dây ràng buộc tạo ra bởi mạng lưới của các
các quy luật tương liên (pratityasamutpada)
và nguyên-nhân-hậu-quả (karma). Khi nào
thực hiện được sự "đình chỉ" ấy một cách tuyệt
đối thì tất cả mọi thứ xúc cảm bấn loạn cũng sẽ
bị tiêu trừ, "cái tôi" sẽ tan biến, và khi đó
nếu nhìn vào tấm gương thì chúng ta cũng sẽ
chẳng thấy mình ở đâu cả.
Tóm lại bước thứ tư của người tu tập không
phải là một cách bó tay và chấp nhận cái chết mà
phải làm mọi cách để cắt đứt vòng xoay vần của
sinh tử, có nghĩa là phải làm đình chỉ chuỗi dài
lôi kéo của khổ đau, nói một cách khác là vượt
lên trên cả sự sống lẫn cái chết.
Dù sao thì bước tiến thứ tư này cũng khá phức
tạp bởi vì các tông phái và học phái chủ trương
nhiều phép tu tập khác nhau. Vậy phải hiểu như
thế nào về những sự khác biệt ấy? Thiết nghĩ
trước hết chúng ta hãy thử phân tích quan điểm
chung của Phật Giáo về sự sống và cái chết, và
sau đó sẽ tìm hiểu chi tiết hơn các quan điểm dị
biệt giữa các tông phái và học phái.
Quan điểm chung của Phật Giáo về sự sống và cái
chết
Nếu muốn thấu triệt quan điểm của Phật Giáo về
sự sống và cái chết thiết nghĩ không nên quan
niệm Phật Giáo như là một tôn giáo theo cách
hiểu thông thường, chẳng hạn như theo cung cách
mà người Tây Phương đánh giá các tôn giáo độc
thần của họ. Giáo Pháp (Dharma) do Đức
Phật thuyết giảng không phải là những lời thần
khải, cũng không nhất thiết là những lời giáo
huấn đạo đức của một vị hiền nhân là Đức Thích-ca
Mâu-ni, mà đúng hơn là một "khám phá" siêu việt
của một vị Giác Ngộ về "Sự Thật" của thế giới.
"Sự Thật" do Đấng Giác Ngộ nêu lên liên quan đến
thế giới vật-chất và cả phi-vật-chất, bao hàm
tất cả mọi lãnh vực hiểu biết của con người: từ
khoa học, triết học cho đến đạo đức và cả sự vận
hành sâu kín của tâm thức nơi mỗi cá thể. Nếu
suy xét thật kỹ thì chúng ta cũng sẽ thấy rằng
tuy "Sự Thật" đó liên quan đến bản chất của toàn
thể vũ trụ, thế nhưng Đấng Giác Ngộ mà người ta
còn gọi là Đức Phật, chỉ nhấn mạnh đến những
khía cạnh thật thiết thực là những khổ đau mà
con người tự gây ra cho mình và các phương pháp
giúp họ tự giải thoát khỏi những khổ đau đó. Nếu
nhìn hai khía cạnh ấy của Đạo Pháp qua nhãn quan
của con người thuộc thời đại chúng ta ngày nay
thì sẽ thấy rằng cả hai khía cạnh đều thuộc vào
lãnh vực "tâm lý học" (psychology) với ý nghĩa
thật bao quát của ngành học này. Nếu nhìn theo
một góc cạnh thu hẹp và thực dụng hơn nữa thì
đấy là một ngành y học gọi là "tâm lý trị liệu"
(psychotherapy), nếu nhìn theo một góc cạnh mở
rộng và sâu sắc hơn thì đấy là một sự khám phá
kỳ diệu thuộc lãnh vực "tâm linh" (spiritual
exploration). Thế nhưng mặc dù sự khám phá thuộc
lãnh vực tâm linh ấy có siêu việt đến đâu đi nữa
thì Phật Giáo nhất định cũng không phải là một
tôn giáo mang tính cách thần bí và diệu kỳ (a
mystical mysticism). "Niết-bàn" hay "mục đích
tối thượng" của việc tu tập Phật Giáo không phải
là một cõi "thần bí" hay "thiêng liêng" nào cả
mà chỉ đơn thuần là một "thể dạng tâm thần" đang
hiển hiện trong trí của mỗi chúng ta, tất nhiên
là với điều kiện thể dạng tâm thần ấy đã loại
bỏ được cảm tính kiêu căng của "cái tôi" và
những thứ xúc cảm bấn loạn phát sinh từ "cái tôi"
ấy.
Phật Giáo không hướng vào một Vị Sáng Tạo để xây
dựng giáo lý của mình bằng cách dựa vào sự tưởng
tượng và những thứ xúc cảm ngây thơ, mà chỉ nhắm
vào những gì thật thiết thực mang lại lợi ích
cho con người, nhằm đáp ứng những đòi hỏi sâu xa
của họ. Phật Giáo cũng không hề được xây dựng
dựa vào đức tin, nghi lễ, hoặc một sự kiện lịch
sử hay một truyền thuyết nào cả, mà đúng hơn đã
được phát huy từ sự quán xét và phân tích hiện
thực qua những kinh nghiệm cảm nhận trực tiếp và
những sự hiểu biết của con người dưới nhiều góc
cạnh khác nhau. Cũng chính vì đặc tính nhân bản
đó mà Phật Giáo đã trở nên đa dạng và đã đưa ra
nhiều quan điểm khác nhau về cái chết, phản ảnh
từ các góc nhìn khác nhau của các tông phái và
học phái về vấn đề này.
Thật ra chúng ta cũng sẽ chỉ đề cập đến ba tông
phái quan trọng nhất chủ trương những quan điểm
rõ rệt hơn cả về sự sống và cái chết, phù hợp ít
nhiều với giáo lý nguyên thủy nêu lên trong Đạo
Pháp do Đức Phật thuyết giảng, đấy là: Phật Giáo
Theravada, Kim Cương Thừa và Thiền Học. Phật
Giáo Theravada chủ trương các quan điểm về sự
sống và cái chết cũng như các phép tu tập gần
với giáo lý nguyên thủy của Đức Phật hơn cả. Kim
Cương Thừa dựa vào sự quan sát và những kinh
nghiệm thiền định thật tinh tế nhằm phân tích
quá trình của sự sống và cái chết và căn cứ vào
đấy để đưa ra các phép tu tập thích nghi. Thiền
Học chủ trương một giáo lý mang nhiều khía cạnh
triết học và các phép tu tập rất cá biệt nhằm
loại trừ sự sai lầm căn bản của sự hiểu biết quy
ước do tâm thức tạo dựng. Giáo dục và các kinh
nghiệm cảm nhận phiến diện và lừa phỉnh của các
giác quan cũng như các cách diễn đạt lệch lạc
của tâm thức đã mang lại cho con người một sự
hiểu biết hoàn toàn lầm lẫn về hiện thực. Kinh
sách gọi sự hiểu biết lầm lẫn đó là vô minh, và
chủ đích của Thiền Học là tìm cách loại trừ sự
vô minh đó để đạt được sự giác ngộ.
Nếu phân tích thật kỹ thì có lẽ cũng không phải
là quá khó để nhận thấy rằng cả ba xu hướng của
ba tông phái và học phái trên đây đều hướng vào
sự tìm hiểu bản chất và sự vận hành của tri thức
(vijnana, citta / consciousness)
nhằm rút tỉa những sự hiểu biết qua những góc
nhìn khác nhau hầu để ứng dụng vào việc tu tập
của tông phái mình. Tóm lại tri thức chính là
chiếc chìa khóa hữu hiệu nhất để tìm hiểu cả ba
khuynh hướng tu tập trên đây và cả của Phật Giáo
nói chung. Vậy chúng ta hãy thử tìm hiểu xem bản
chất của tri thức là gì và sự vận hành của nó ra
sao.

Bản chất của tri thức
Phật Giáo định nghĩa tri thức (consciousness /
kinh sách gốc Hán ngữ gọi là "thức") là một "khoảnh
khắc" giúp nhận biết được bản chất đích thật và
đúng đắn của một hiện tượng. Trên bình diện tổng
quát có thể gọi đấy là một "khoảnh khắc hiểu
biết". Chữ tâm thức (esprit / spirit / kinh sách
gốc Hán ngữ gọi là "Tâm") mang ý nghĩa bao quát
hơn và có nghĩa là một tổng thể bao gồm những
kinh nghiệm cảm nhận dưới các hình thức xúc cảm
và cả sự hiểu biết nói chung. Tâm thức có khả
năng biết suy nghĩ và nhận thức được những khái
niệm trừu tượng và tinh tế, chẳng hạn như tánh
không. Xúc cảm là các kết quả phát sinh từ sự
diễn đạt của tâm thức về những gì mà ngũ giác và
chính nó - tức là tâm thức - cảm nhận được (ngũ
giác cảm nhận được mùi, vị, âm thanh..., tâm
thức cảm nhận được xúc cảm, tư duy...). Các sự
cảm nhận đó của "tâm thức" mang tính cách giai
đoạn, trái lại sự hiểu biết tinh tế và sâu sắc
của "tri thức" mang tính cách liên tục và lâu
dài hơn, chẳng hạn như ta vẫn còn giữ được sự
hiểu biết từ ngày còn nhỏ, như sở dĩ ta đọc được
dễ dàng các dòng chữ này ấy là nhờ ngày còn nhỏ
ta được đi học. Sự hiểu biết sở dĩ kéo dài được
như thế là nhờ vào những "khoảnh khắc" hiểu biết
liên tục tiếp nối nhau tương tự một dòng luân
lưu không gián đoạn hay "dòng tiếp nối liên tục
của tri thức" (continuum of consciousness) mà
Đức Đạt-lai Lạt-ma nhắc đến. Tất nhiên là bản
chất của nó mang tính cách phi-vật-chất, vậy sự
liên hệ của tri thức phi-vật-chất liên quan với
bộ não như thế nào?
Phật Giáo xem bộ não như là cơ sở hỗ trợ và
chuyển tải tâm thức qua những thể dạng vận hành
thô thiển gồm các kinh nghiệm cảm nhận của các
cơ quan giác cảm còn gọi là "tri thức ngũ giác",
và các sự diễn đạt tâm thần còn gọi là "tri thức
tâm thần" (gồm xúc cảm, tư duy, tác ý...). Não
bộ và các loại tri thức thô thiển này tương tác
với nhau một cách mật thiết, thí dụ bộ não bị
chấn thương thì sẽ gây trở ngại hoặc tạo ra
những ảnh hưởng tai hại cho sinh hoạt tâm thần (có
thể bị hôn mê, mất trí, ngớ ngẩn chẳng hạn), các
thể dạng tâm thần lành mạnh, an vui, hoặc lo âu
hay xao động..., đều ảnh hưởng đến hệ thần kinh
và sức khoẻ trên thân xác. Thế nhưng cũng có một
thể dạng thật tinh tế của dòng tri thức dưới
dạng những khoảnh khắc hiểu biết sâu sắc ("thức"
trong các kinh sách gốc Hán ngữ) không liên hệ
đến sự sinh hoạt của não bộ và cũng không sử
dụng não bộ như là một cơ sở chống đỡ hay chuyển
tải nó.
Tính cách "độc lập" đó giúp cho dòng tri thức
tinh tế tồn tại và tiếp tục luân lưu suốt trong
quá trình của sự sống, trong khi ngủ hay trong
những lúc bị hôn mê, kể cả trong các trường hợp
não bộ bị chấn thương và không còn hoạt động
được nữa. Sự vận hành của nó mang tính cách liên
tục dù cho thân xác vật chất và các thể dạng tâm
thần thô thiển đã tan biến hết khi cái chết xảy
ra. Nhờ đó dòng tri thức sẽ tiếp tục luân lưu từ
kiếp sống này sang kiếp sống khác, xuyên qua các
giai đoạn trung gian thuộc quá trình của cái
chết.
Theo Phật Giáo Tây Tạng thì dòng liên tục đó của
tri thức luân lưu không có điểm khởi thủy và
cũng sẽ không chấm dứt. Mỗi khoảnh khắc của dòng
tri thức sở dĩ phát sinh là do nguyên nhân gây
ra bởi khoảnh khắc xảy ra trước nó, chính nó lại
tạo ra nguyên nhân làm phát sinh ra khoảnh khắc
tiếp theo sau. Giả sử nếu như có một khoảnh khắc
"đầu tiên" thì nhất định phải có các nguyên nhân
"bên ngoài" nó khiến làm phát sinh ra nó. Điều
đó đi ngược lại với nguyên tắc của Phật Giáo là
một hiện tượng chỉ có thể phát sinh từ những
nguyên nhân liên hệ với nó, thí dụ sự tái sinh
và khổ đau sở dĩ xảy ra là do những nguyên nhân
do chính mình tạo ra cho mình. Mặt khác nếu giả
sử như dòng tri thức có một sự chấm dứt cuối
cùng đánh dấu bởi một khoảnh khắc sau cùng, thì
đấy cũng sẽ lại là một sự phi lý khác, bởi vì
theo Phật Giáo nếu có một hiện tượng phát sinh
thì bắt buộc sau đó nó sẽ phải trở thành một
nguyên nhân để làm phát sinh ra một hiện tượng
khác, do đó một sự chấm dứt cuối cùng sẽ không
thể nào xảy ra được. Theo Đức Đạt-lai Lạt-ma thì
dòng tiếp nối liên tục của tri thức tinh tế của
một cá thể sẽ vẫn tiếp tục luân lưu sau khi cá
thể ấy đã thoát ra khỏi vòng luân hồi, tức là đã
đạt được sự Giải Thoát cuối cùng, chỉ có một
điểm khác biệt là dòng tri thức ấy đã được tẩy
sạch các vết hằn của nghiệp và đã trở nên tinh
khiết.
Những gì được trình bày trên đây là bản chất của
tri thức theo quan điểm của Phật Giáo. Vậy thì
dòng tri thức tinh tế đó vận hành như thế nào.
Sự vận hành của tri thức
Các khoảnh khắc của dòng tri thức hiện ra và
biến mất trong một khoảnh khắc rất ngắn, sự hiểu
biết này tiếp nối với sự hiểu biết khác. Tuy
mang tính cách giai đoạn và nhất thời (ponctuel
/ punctual) thế nhưng các khoảnh khắc hiện ra và
tiếp nối nhau rất nhanh, tương tự như hình ảnh
linh động của một cuốn phim, khiến chúng ta có
cảm giác như dòng tri thức mang tính cách liên
tục.
Tất cả mọi tư duy, hành động và ngôn từ đều tạo
ra nghiệp: tích cực, tiêu cực hay trung hòa, bởi
vì nếu đã có một nguyên nhân (hành động) thì tất
sẽ phải tạo ra hậu quả (nghiệp / vết hằn / chủng
tử). Nghiệp tạo ra bởi một cá thể sẽ lưu lại dấu
vết của nó trên các đơn vị của dòng tri thức.
Nói một cách khác là mỗi đơn vị của dòng tri
thức sẽ tiếp nhận những vết hằn của nghiệp do
chính cá thể ấy tạo ra, trùng hợp với thời điểm
xảy ra sự hiển hiện của đơn vị ấy. Các vết hằn
này lại tương tác với các vết hằn có sẵn mà đơn
vị này đã tiếp nhận được từ đơn vị trước nó. Tác
động của nghiệp vừa tiếp nhận sẽ có thể hóa giải
bớt, hoặc gia tăng thêm hay cũng có thể chuyển
hướng được xung năng của nghiệp cũ có sẵn trong
cùng một đơn vị và tạo ra một "tổng thể các vết
hằn mới" trước khi chuyển sang cho một đơn vị
khác hiện ra sau đó. Đây cũng chính là cách giải
thích về sự vận hành của nghiệp trong hiện tại
cũng như sự tồn lưu của nó từ kiếp sống này sang
kiếp sống khác. Sự tương tác trên đây giữa các
dấu vết của nghiệp trong từng đơn vị tri thức
cho thấy tính cách luôn luôn biến động và vô
thường của nghiệp. Nghiệp cũng chỉ là một hiện
tượng như tất cả các hiện tượng khác. Người tu
tập cũng nên ghi nhận sự kiện này để hiểu rằng
nghiệp có thể khắc phục và biến đổi được trong
từng giây phút một, do đó phải luôn tự nhắc nhở
mình phải chú tâm thật mạnh vào từng tư duy,
hành động và ngôn từ hầu giúp mình biến cải và
tinh khiết hóa các dấu vết của nghiệp trên dòng
tri thức của chính mình. Xao lãng và phung phí
thì giờ vào những chuyện vô bổ là một điều đáng
tiếc nhất cho một kiếp người.
Sự xao lãng sẽ khiến chúng ta không nhận thấy
được những gì đang biến động trên thân xác và
trong tâm thức mình. Mỗi đơn vị trên dòng tri
thức tuy mang tính cách "độc lập", thế nhưng
thật ra thì chúng đều lệ thuộc và tương tác với
nhau thật chặt chẽ. Các dấu vết của nghiệp tồn
lưu trong đơn vị này sẽ tạo ra nguyên nhân để
làm phát sinh ra đơn vị khác hiện ra sau đó. Sự
kiện này chẳng những có thể giải thích sự tồn
lưu của nghiệp như vừa trình bày trên đây mà còn
giúp tìm hiểu "trí nhớ" và sự "lãng quên" là gì.
"Trí nhớ" dưới một khía cạnh nào đó có thể xem
như là những vết hằn của nghiệp ghi khắc trên
mỗi đơn vị tri thức. Khi các vết hằn thuộc loại
trí nhớ được truyền sang cho một đơn vị khác thì
chúng cũng có thể sẽ bị biến đổi đi, chẳng hạn
như bị lu mờ, méo mó hoặc hoàn toàn bị che lấp
bởi tác động của các vết hằn mới. Thí dụ chúng
ta có thể quên hoặc nhớ lại được một vài kỷ niệm
ngày còn nhỏ, thế nhưng khi nhớ lại thì các kỷ
niệm này cũng đã biến dạng đi, mơ hồ và thiếu
chính xác, hoặc cũng có thể sẽ tạo ra những xúc
cảm khác hơn. Đấy chẳng qua là vì các dấu vết đó
sau khi đã được chuyển tải không biết bao nhiều
lần, từ hết đơn vị này sang đơn vị khác trên
dòng luân lưu của tri thức, đã bị các nghiệp
khác tác động khiến cho chúng phải biến đổi khác
đi. Chẳng hạn như ngày còn bé, mỗi khi phải ở
một mình trong một gian phòng tối thì ta "sợ
ma", ngày nay mỗi khi hồi tưởng hay "nhớ lại" sự
sợ hãi đó thì sự kiện nhớ lại ấy lại có thể
khiến cho ta phải bật cười, bởi vì ngày nay ta
nhận thấy rằng sự sợ hãi ấy thật trẻ con. Chẳng
qua đấy là vì những kinh nghiệm trong sự sống
khi lớn lên đã ghi khắc trên dòng tri thức của
mình những vết hằn mới, và các vết hằn này đã
hóa giải được sự sợ hãi khi còn bé.
Hãy lấy một
thí dụ khác, trước đây có lần ta thất tình và
chỉ muốn tự tử, thế nhưng một thời gian sau đó
ta lại "quen" một người khác "xinh đẹp và có
duyên" hoặc "bảnh trai và tài giỏi" hơn, và khi
"nhớ lại" chuyện thất tình trước đây thì ta mừng
thầm và nghĩ rằng nếu lúc đó mình uống một gói
thuốc chuột thì đã tiêu đời từ lâu rồi! Sự kiện
nhớ lại đó không làm cho mình "khổ sở" như trước
đây nữa mà trái lại còn có thể làm gia tăng thêm
"hạnh phúc" mà mình đang có. Đấy là vì tác động
của các vết hằn mới đã khiến các vết hằn cũ
trước đây phải chuyển hướng khác đi. Hãy nêu
thêm một thí dụ khác nữa, khi đi ngang một sạp
bán thịt heo ở chợ, ngửi thấy mùi thịt và máu
xông lên rất hôi tanh, ta cảm thấy sợ và đêm hôm
đó nằm mơ thấy cảnh thọc huyết heo, con vật giẫy
dụa, kêu en ét, máu me lênh láng, ta khiếp sợ
giật mình và toát mồ hôi. Hình ảnh con vật bị
thọc huyết khiến ta khiếp sợ thế nhưng đồng thời
thì ta cũng cảm thấy thương hại con vật vô cùng.
Hoặc ngược lại nếu ta trông thấy trên sạp bán
thịt ở chợ một khối thịt đùi thật ngon, nạc
nhiều, ít mỡ, da mỏng, lông cạo thật sạch, ta
liên tưởng nếu được một nồi thịt kho thơm phức
dọn ra trong buổi cơm chiều nay thì chẳng có gì
thích thú hơn, một sự "thèm khát" và "bám víu"
hiện ra trong trí mình. Về đến nhà hình ảnh
miếng thịt vẫn chưa phai, và đêm hôm ấy ta nằm
mơ thấy người nhà dọn cơm ra với thịt kho, rau
luộc, dưa cải..., tuy đói thế nhưng vì lý do này
hay lý do khác ta không sao ăn được. Hoặc cũng
có thể ta nằm mơ thấy mình đang lang thang ở một
nơi xa lạ, bụng đói thế nhưng nhà nhà đều đóng
cửa, ta cứ đi hết phố này sang phố khác và không
tìm thấy hàng quán nào để ăn, nhà của mình ở đâu
cũng không biết. Các thí dụ trên đây cho thấy
cách ghi khắc của nghiệp trên dòng tri thức và
những biến dạng trong sự vận hành của nó. Nói
chung nếu phân tích thật cẩn thận từng hành động,
ngôn từ và tác ý của mình trong ngày hoặc đã xảy
ra thật lâu trong quá khứ thì chúng ta cũng có
thể giải đoán được các giấc mơ hay các cơn ác
mộng của mình. Sự xao lãng và thiếu chú tâm nhất
định sẽ không giúp mình tìm hiểu được những sự
kiện ấy.
Một số nghiệp tạo ra trong cuộc sống thường nhật
có thể tạo ra những ảnh hưởng rất sớm đến sự vận
hành của tri thức trong giấc ngủ, bởi vì trong
khi ngủ lục giác ngưng hoạt động, các đơn vị của
dòng tri thức không tiếp nhận các vết hằn mới,
do đó một số các vết hằn vừa ghi nhận được trong
ngày có thể hiện ra trong tâm thức để khuấy động
mình. Một số nghiệp khác có thể ngủ yên lâu hơn
và sẽ ảnh hưởng một cách cụ thể hơn trong những
thời điểm khác, hoặc cũng có thể trong các kiếp
sống khác. Thí dụ sự thương xót con vật bị thọc
huyết sẽ khiến ta tái sinh trong một bối cảnh
thuận lợi giúp ta biết ăn chay và biết được Đạo
Pháp. Trái lại nếu sự thèm khát các thức thức ăn
gây ra khổ đau cho các chúng sinh khác cứ xảy ra
liên tục sẽ tạo ra một tổng hợp xung năng thật
mạnh xui khiến ta tái sinh trong một gia đình
thiếu thốn hoặc một nơi nghèo đói và hung bạo.
Cùng một sự kiện đi ngang một sạp bán thịt ở chợ,
thế nhưng những xung năng khác nhau của nghiệp
có thể đưa đến những tác ý khác nhau và những
hậu quá khác nhau.
Cách nêu lên sự vận hành của quy luật tương liên
(interdependence) qua một vài thí dụ, dù đã được
đơn giản hóa một cách quá đáng đi nữa, là chỉ
nhằm vào mục đích giúp chúng ta dễ hiểu hơn về
quy luật này. Hơn nữa đấy cũng là một dịp để
nhắc nhở chúng ta về một nguyên tắc thật căn bản
trong giáo lý nhà Phật là không có bất cứ gì
sinh ra lại không có lý do và nguyên nhân của nó,
và cũng chẳng có bất cứ thứ gì mất đi hay tan
biến đi mà lại không lưu lại hậu quả phát sinh
từ tác động do chính chúng gây ra. Dòng tri thức
chẳng những là cơ sở chuyển tải các vết hằn của
nghiệp mà đồng thời cũng gánh chịu những tác
động do chúng tạo ra trên dòng lưu chuyển liên
tục đó. Một cơn ác mộng không xảy ra vô cớ, khi
giật mình toát mồ hôi trong đêm cũng không phải
là không có lý do của nó. Sự chú tâm sẽ giúp
mình nhận thấy rằng sức khoẻ hay ốm đau trên
thân xác, an vui hay lo buồn trong tâm thức đều
phát sinh từ những nguyên nhân rất gần hay thật
xa nào đó mà chính mình đã tạo ra cho mình.
Tóm lại trí nhớ có thể hiểu như một sự vận hành
và tồn lưu của nghiệp, do đó trí nhớ đôi khi
cũng có thể là một dịp may giúp chúng ta suy
nghĩ về các hành động trước đây của mình hầu
giúp mình có thể canh chừng và theo dõi nghiệp
đã, đang hay sẽ phát sinh từ các hành động ấy.
Các vết hằn "ngủ yên" hay bị "quên lãng" cũng là
một hình thức vận hành khác của nghiệp, giúp cho
nghiệp tồn lưu trong dòng lưu chuyển của tri
thức thật lâu, có thể xuyên qua nhiều kiếp sống.
Dù "ngủ yên" và bị "quên lãng" thế nhưng thật ra
chúng luôn luôn năng động và không ngừng tương
tác với các nghiệp khác một cách kín đáo và có
thể "thức dậy" để gây ra hậu quả bất cứ lúc nào
trong cuộc sống của mình. Càng ngủ yên lâu dài
chúng lại càng trở nên cường mạnh hơn dưới tác
động của các nghiệp khác cùng một thể loại, hoặc
cũng có thể bị hóa giải và tiêu trừ bởi những
nghiệp mang tính cách đối nghịch với chúng. Các
nghiệp xấu "ngủ yên" lâu dài thường rất nguy
hiểm, chúng có thể "thức dậy" bất cứ lúc nào khi
gặp được cơ duyên thuận lợi để đưa ta vào những
cảnh khổ đau kinh khiếp và không lường được.
Thiền định dưới một khía cạnh nào đó cũng là một
cách "đánh thức" các nghiệp sâu kín trong tâm
thức mình sớm hơn hầu để hóa giải chúng.
Nếu phân tích thật kỹ hành vi cũng như các cách
hành xử của mình trong hiện tại thì chúng ta
cũng có thể nhận thấy tác động của nghiệp trong
quá khứ ảnh hưởng khá rõ nét đến các hành vi và
các cách hành xử ấy của mình. Có một số người có
thể "nhớ lại" nhiều biến cố hay sự việc xảy ra
liên quan với mình trong kiếp sống trước. Trong
các trường hợp này các vết hằn "trí nhớ" của các
người ấy không bị tác động của các vết hằn khác
làm cho lu mờ nên đã được lưu giữ lâu dài hơn.
Khoa học ngày nay có thể chụp hình và theo dõi
sự vận hành của não bộ (IRM / MRI / MRT /
Imagerie par Résonnance Magnétique / Magnetic
Resonance Imaging), thế nhưng nếu hỏi một nhà
khoa học trí nhớ là gì thì dù họ là nhà thần
kinh học, tâm lý học hay phân tâm học thì tất cả
cũng sẽ chịu thua không giải thích được. Đây
cũng là một sự hiểu biết của Phật Giáo mà khoa
học vẫn còn chưa theo kịp. Sau đây chúng ta sẽ
tìm hiểu về sự liên hệ giữa dòng tri thức và
các thể dạng khác nhau biểu trưng cho sự sống và
cái chết.
Quá trình "vi mô" và "vĩ mô" của sự sống và cái
chết
Cách giải thích về tri thức trên đây cũng là một
dịp gián tiếp để nhắc lại một một quy luật thiên
nhiên và toàn cầu vô cùng quan trọng trong giáo
huấn Phật Giáo mà Đức Phật đã khám phá ra hơn
hai mươi lăm thế kỷ trước: đó là quy luật tương
liên, tương tác, và tương tạo giữa mọi hiện
tượng (pratityasamutpada /
interdependence / lý duyên khởi). Các đơn vị của
dòng tri thức thay nhau chuyển tải các vết hằn
của nghiệp. Một đơn vị khi biến mất sẽ tạo điều
kiện để làm phát sinh ra một đơn vị khác và
chuyển sang cho đơn vị này các vết hằn của
nghiệp mà nó cất giữ. Đơn vị vừa hiện ra lại sẽ
biến mất để tạo ra nguyên nhân đưa đến sự hình
thành của đơn vị tiếp theo. Mỗi đơn vị là một cơ
sở dự phần vào việc tồn lưu và chuyển tải các
vết hằn của nghiệp, do đó chúng mang tính cách
cấu hợp và đồng thời phải lệ thuộc vào một đơn
vị khác để hiện hữu.
Sự hiện hữu đó
gọi là sự tạo tác do điều kiện mà có
(conditioning co-production / dependent
origination). Chính vì đặc tính cấu hợp và do
điều kiện mà sinh ra nên mỗi khoảnh khắc hay đơn
vị của dòng tri thức cũng không tránh khỏi quy
luật vô thường, kể cả nghiệp mà nó cất chứa bên
trong nó cũng vô thường như chính nó (bởi vì
chúng luôn tương tác với nhau để làm phát sinh
ra các nghiệp mới). Mỗi đơn vị mang đặc tính
trọn vẹn và đầy đủ của một hiện tượng: sinh ra,
chuyển tải nghiệp, tan biến và tạo điều kiện để
làm phát sinh ra một đơn vị khác. Do đó có thể
xem mỗi đơn vị khi nó hiện ra là một "sự sống"
và khi nó biến mất đi là một "cái chết". Dòng
tri thức do đó cũng chết đi và sống lại liên tục
qua từng đơn vị của nó. Dòng lưu chuyển liên tục
đó cũng có thể xem như sự xoay vần của vòng luân
hồi trên một bình diện thật tinh tế và sâu kín
xảy ra trong tâm thức của mỗi cá thể. Chúng ta
tạm gọi dòng biến đổi tinh tế ấy là "quá trình
vi mô" của sự sống và cái chết.
Sự hình
thành của một cá thể đưa đến già nua, bệnh tật,
chết và tái sinh là "quá trình vĩ mô" của sự
sống và cái chết. Quá trình này gồm có nhiều
giai đoạn: tinh trùng kết hợp với noãn cầu đưa
đến sự hình thành của bào thai, các giác quan
phát triển, giác cảm phát sinh, "cái tôi" được
tạo dựng, sau đó là già nua, bệnh tật, cái chết
xảy ra, ngũ uẩn tan rã đưa đến một sự hình thành
khác. Một số các giai đoạn này có thể quan sát
và theo dõi được bằng mắt, trong khi đó thì "quá
trình vi mô" diễn tiến thật âm thầm và sâu kín
trong tâm thức. Vậy hai quá trình này liên hệ
với nhau như thế nào?
Tác ý,
hành động và ngôn từ thuộc quá trình vĩ mô của
một cá thể tạo ra nghiệp, các nghiệp này lưu lại
các dấu vết của chúng trên từng đơn vị của dòng
tri thức. Quá trình "vi mô" tiếp nhận và chuyển
tải các các dấu vết ấy và đồng thời cũng giữ một
vai trò thật quan trọng là tạo ra một "cơ sở"
hay "môi trường" thuận lợi giúp các vết hằn của
nghiệp tương tác với nhau. Sự tương tác đó giữa
các vết hằn của nghiệp trên quá trình vi mô và
sẽ làm phát sinh ra hậu quả vào một thời điểm
nào đó. Các hậu quả này lại gây ra tác động ảnh
hưởng ngược trở lại quá trình vĩ mô. Thí dụ hậu
quả phát sinh từ quá trình vi mô có thể đưa đến
một sự sinh thuận lợi thuộc vào quá trình vĩ mô
chẳng hạn, hoặc trong giấc ngủ các vết hằn của
quá trình vi mô có thể tạo ra những cơn ác mộng
hay những giấc mơ thật đẹp, hoặc trong lúc hấp
hối các vết hằn này cũng có thể đưa đến một cái
chết thanh thản hay một cái chết thảm thương đầy
sợ hãi, v.v...
Sự liên
kết và vận hành chung của hai quá trình vi mô và
vĩ mô trên đây cho thấy sự diễn tiến níu kéo và
xoay vần bất tận của một cá thể trong cõi luân
hồi trên cả hai bình diện tinh tế và thô thiển.
Chủ đích của việc tu tập là tìm cách làm cho sự
diễn tiến đó phải "đình chỉ" tức là làm cho nó
phải dừng lại, nói cách khác là "hóa giải" sự
chi phối của nó, "vượt thoát" ra khỏi sự kiềm
tỏa của nó. Tùy theo các góc nhìn khác nhau
trước sự diễn tiến bất tận đó mà các tông phái
và học phái đã đưa ra các phép tu tập khác nhau
phù hợp với quan điểm hay góc nhìn của mình. Có
ba tông phái và học phái lớn nêu lên các giáo lý
gần với Đạo Pháp của Đức Phật hơn hết là: Phật
Giáo Theravada, Kim Cương Thừa và Thiền Học.
Chúng ta sẽ lần lượt nêu lên dưới đây các quan
điểm dị biệt về sự sống và cái chết cũng như các
khuynh hướng tu tập khác nhau của các tông phái
và học phái này.
Cái chết và sự giải thoát theo Phật Giáo
Theravada
Phật
Giáo Theravada chủ trương sự sống là một quá
trình diễn tiến liên tục và không chấp nhận sự
hiện hữu của bất cứ một thể dạng trung gian nào
giữa hai sự sinh, tức là giữa hai "kiếp sống"
của một cá thể. Khi một sự sinh này biến mất thì
ngay sau đó nó sẽ được tiếp nối bởi sự hình
thành của một sự sinh khác, phù hợp với các quy
luật tương liên và nguyên-nhân-hậu-quả. Quá
trình "sinh-tử-và-tái-sinh" đối với Phật Giáo
Theravada là một quá trình liên tục, tương tự
như hình ảnh tiếp nối không gián đoạn giữa các
đơn vị của dòng tri thức. Khái niệm về một chu
kỳ "vĩ mô" gồm có ba giai đoạn rõ rệt là sự "sinh
", "thể dạng trung gian" và sự "tái sinh" không
hề được nêu lên trong Phật Giáo Theravada. Sự
kiện này cũng cho thấy một khía cạnh lô-gic (hợp
lý) nào đó trong giáo lý của tông phái này về sự
sinh và cái chết. Tái sinh là một sự sinh mới,
phát sinh từ các hậu quả do sự sinh trước đó tạo
ra. Sự tái sinh này lại trở thành nguyên nhân làm phát sinh ra một sự sinh khác.
Tóm lại
Phật Giáo Theravada chỉ chú trọng đến sự sống
trong những giây phút hiện tại mà không tìm hiểu
hay ít ra cũng không quan tâm một cách quá đáng
đến cái chết và những gì xảy ra phía sau cái
chết. Chủ đích của việc tu tập là phải tinh
khiết hóa "quá trình vi mô", không để cho một
dấu vết nào của nghiệp có thể làm ô nhiễm dòng
tri thức. Người tu tập phải luôn chú tâm, theo
dõi và chủ động từng tư duy, tác ý và xúc cảm
trong tâm thức, cũng như từng hành động, cử chỉ
và ngôn từ trên thân xác nhằm chận đứng không để
cho chúng tạo ra các vết hằn của nghiệp, đồng
thời phải phát huy một sự quán thấy sâu xa để
loại bỏ vô minh giúp mình tinh khiết hóa những
gì có sẵn và đang tồn lưu trên dòng tri thức của
mình. Con đường tu tập đó mang tính cách thăng
tiến tuần tự, biểu trưng bởi một sự luyện tập
kiên trì, nhẫn nại và can trường, nhằm chận đứng
sự thâm nhập của nghiệp mới và tẩy xóa các vết
hằn cũ trong từng đơn vị trên dòng tri thức. Nói
một cách cụ thể và ngắn gọn hơn là không để cho
giác cảm chi phối mình và tạo ra cho mình mọi
thứ thèm khát, đam mê hay dục vọng, khiến cho
quá trình vận hành của khổ đau phải dừng lại,
hoàn toàn chấm dứt và tắt nghỉ. Kinh sách gọi
đấy là sự "đình chỉ" (nirodha), là
niết-bàn, là thể dạng của một vị A-la-hán. Trong
thể dạng đó không còn bóng dáng nào của sự sinh
cũng như cái chết.
Trong
Kinh Pháp Cú có ghi lại một lời giảng của Đức
Phật như sau:
Tesam
sampannasilanam
appamadaviharinam
sammadanna vimuttanam
Maro maggam na vindati.
Những người đạo
hạnh
biết trau dồi sự
cảnh giác,
để mang lại [cho
mình] sự hiểu biết đúng đắn,
[thì] Ma Vương
(Mara) nào có còn tìm thấy được con đường [mà họ
đang bước đi]
(Kinh Pháp Cú, Dhammapada, phẩm IV, tiết
57)
Đạo
hạnh ở đây có nghĩa là: 1- ăn nói đúng, 2-
hành động đúng, 3- sinh sống đúng. Cảnh giác
có nghĩa là: 4- cố gắng đúng, 5- chú tâm đúng,
6- tập trung đúng. Hiểu biết đúng có
nghĩa là: 7- suy nghĩ đúng, 8- hiểu biết đúng (về
bản chất của chính mình và của mọi hiện tượng
trong thế giới). Đấy là Con Đường của Tám Điều
Đúng Đắn (Bát Chánh Đạo). Đối với những người đã
bước đi trên Con Đường ấy thì Ma Vương (Mara)
tức là Thần Chết sẽ không còn tìm thấy được vết
chân của họ nữa. Dù là họ đang bước thế nhưng
bên trong họ tất cả đã đình chỉ và dừng lại,
không còn một chút hận thù hay thèm khát nào, tư
duy luôn ngay thật và minh bạch, sự quán thấy
của họ về những gì hiển hiện trong tâm thức, xảy
ra trên thân xác và cả những gì đang biến động
chung quanh, lúc nào cũng sắc bén, chính xác và
đúng đắn. Dòng tri thức của họ trở nên tinh
khiết, trong sáng và yên lặng, không còn vướng
một vết hằn nào của nghiệp: đấy là cách giúp họ
trở thành một vị A-la-hán.
Trong
một tiết khác của Kinh Pháp Cú Đức Phật cũng có
giảng như sau:
Yatha pubbulakam
passe
yatha passe maracikam
evam lokam avekkhantam
maccuraja na passati.
Phải nhìn vào
thế giới [tương tự] như một bọt bong bóng,
như một ảo ảnh.
Nếu một người
biết nhìn [thế giới] như thế,
Thì Diêm Vương
cũng sẽ chẳng trông thấy họ ở đâu cả.
(Kinh Pháp Cú,
Dhammapada, phẩm XIII, tiết 170)
Bọt
bong bóng biểu trưng cho vô thường và tánh
không, ảo ảnh là những hình tướng không
thật của hiện thực đang biến động trong thế
giới. Thế giới thì nào có khác gì với năm thứ
cấu hợp (ngũ uẩn) tạo ra một cá thể con người.
Tất cả cũng chỉ là ảo ảnh hay là sự trống không.
Nếu nhìn năm thứ cấu hợp và cả thế giới chỉ là
trống không thì Diêm Vương cũng sẽ không còn tìm
thấy được một "cái tôi" nào cả để mà hỏi tội.
Trong
Đại Bát Niết Bàn Kinh (bằng tiếng Pa-li
trong Kinh Trường A Hàm - Digha Nikaya),
Đức Phật có nói như sau:
Anicca vata
sankhara,
uppadavaya-dhammino;
uppajjitva
nirujjhanti,
tesam vupasamo
sukho.
Tất cả những gì
phát sinh nhờ vào điều kiện đều phù du:
Bản chất của
những thứ ấy là được hình thành để mà bị hủy
hoại.
Khi đã hiện ra
thì chúng cũng sẽ phải tan biến đi.
Không hiện ra,
thì đấy mới thật là niềm phúc hạnh đích thật.
Câu trên
đây có nghĩa là tất cả những gì hiện hữu nhờ vào
nhiều điều kiện do các hiện tượng khác tạo ra
tất sẽ phải biến mất khi nào các điều kiện ấy
không còn hội đủ nữa. Không còn hiển hiện nữa
tức là đạt được sự giải thoát cuối cùng và vượt
thoát khỏi cái chết.
Một
trong các nhà sư đương thời lỗi lạc nhất của
Thái Lan là P.A. Payutto (pháp danh Phra
Bhramagunabhorn, sinh năm 1938) trong một quyển
sách nhỏ "Dependent Origination - The
Buddhist Law of Conditionality"
(Buddhadhamma Foundation, Thailand, 1995) và
trong chương III mang tựa đề là Con Người và
Thiên Nhiên (Man and Nature) có giải thích
về sự sống và cái chết của con người bằng cách
nêu lên một khái niệm khá mới mẻ và đặc thù về
sự hiện hữu của hai "cái tôi" khác nhau. Theo
ông không có một "chủ nhân ông" thuộc bên trong
hay bên ngoài nào để điều khiển tổng thể năm thứ
cấu hợp (ngũ uẩn) cả. Tổng thể ấy tự nó là một
cơ sở vận hành đầy đủ và trọn vẹn. Sự vận hành
của nó phù hợp và thích nghi với quy luật tạo
tác do nguyên nhân mà có (origine conditionnée /
dependent origination / lý duyên khởi), quy luật
này chi phối tổng thể năm thứ cấu hợp chuyển
động theo một dòng luân lưu (continuum) tự
nhiên, dưới sự chi phối của các yếu tố tương
liên và tương tác giữa các cấu hợp ấy với nhau.
Tổng thể các cấu hợp ấy biểu trưng cho "sự sống"
và mang ba đặc tính là: vô thường (aniccata),
vô ngã (anattata) và khổ đau (dukkhata).
Tổng thể
vận hành của năm thứ cấu hợp đó là một dòng luân
lưu tự nhiên giữa nguyên nhân và các yếu tố
tương liên (a natural continuum of interrelated
determinants), thế nhưng phần đông con người đều
tìm cách cưỡng lại dòng luân lưu tự nhiên ấy của
mọi sự vật và tự nhận diện mình thuộc vào một
trong hai khía cạnh của dòng luân lưu này và xem
đấy là "cái tôi" của mình. Nếu mọi sự trên dòng
luân lưu xảy ra ngược lại với những tham vọng và
thèm khát của họ thì chúng sẽ khiến cho họ bực
bội, sự căng thẳng đó là cách càng mang lại thêm
nhiều khổ đau hơn nữa cho họ. Hoặc nếu trên dòng
luân lưu đó họ cảm thấy những gì sắp phải xảy ra
cho "cái tôi" của mình - chẳng hạn như bệnh tật
và cái chết - thì họ sẽ cảm thấy tuyệt vọng và
lo âu, và sự sợ hãi sẽ phát sinh thật sâu trong
tâm thức của họ. Đấy là các thể dạng tâm thần
phát sinh từ vô minh (avijja).
Dòng
luân lưu đó gồm có hai quá trình đối chọi nhau:
1- Quá trình tự
nhiên của sự sống: tức là sự diễn tiến tự nhiên
của ba thể dạng là sự sinh (jati), già
nua (jara) và chết (marana).
2- Quá trình
"tạo dựng" (contrived process) phát sinh từ sự
nắm bắt và bám víu: quá trình này sở dĩ xảy ra
là do sự thiếu hiểu biết (vô minh) về bản chất
của sự sống. Sự thiếu hiểu biết hay vô minh ấy
là nguyên nhân làm phát sinh ra "cái tôi" và sự
bám víu vào nó. "Cái tôi tạo dựng" ấy sẽ ngăn
trở dòng luân lưu tự nhiên của mọi sự vật, đối
nghịch lại với các quy luật thiên nhiên, và mang
lại đầy lo âu và sợ hãi.
Xuyên
qua hai quá trình đó người ta có thể hình dung
ra hai cái tôi khác nhau:
- "Cái tôi quy
ước": là cái tôi thuộc vào dòng luân lưu tự
nhiên của sự sống, thuận với các quy luật thiên
nhiên (tương liên, vô thường...). Có thể hình
dung cái tôi này như là một dòng luân lưu
(continuum) cá biệt (của một cá thể) khác với
các dòng chảy khác (của các cá thể khác).
- "Cái tôi tạo
dựng": là sản phẩm của vô minh tức là sự u mê
tâm thần. Mỗi cá thể tự nhận diện mình xuyên qua
cái tôi đó và bám víu vào đấy.
"Cái tôi
quy ước" không tạo ra một sự khó khăn nào cả.
Thế nhưng "cái tôi tạo dựng" luôn nấp phía sau
"cái tôi quy ước" để mà bám víu vào nó, và chính
vì thế nó phải hứng chịu các thể dạng biến đổi
và vô thường của "cái tôi quy ước" - chẳng hạn
như già nua, ốm đau và cái chết - để mang lại
cho nó mọi thứ khổ đau. Nếu sự bám víu của "cái
tôi tạo dựng" ấy được tháo gỡ bằng cách loại bỏ
vô minh và sự hiểu biết, thì tất cả mọi khó khăn
sẽ không còn nữa.
Cái chết
chỉ là sự chấm dứt của tổng thể vận hành của năm
thứ cấu hợp do các quy luật tương liên và
nguyên-nhân-hậu-quả tạo ra và chi phối nó. Nếu
một người tu tập xóa bỏ được "cái tôi tạo dựng"
đó thì có nghĩa là người này đã đạt được thể
dạng A-la-hán, tức là niết-bàn. Thế nhưng
niết-bàn ấy vẫn chưa phải là niết-bàn tuyệt đối
và hoàn hảo và chỉ được gọi là "niết-bàn còn
vướng phần dư thừa" (saupadidesa nibbana /
hữu dư niết-bàn), bởi vì vị A-la-hán ấy vẫn
còn mang thân xác cấu hợp tạo ra bởi nghiệp lực
của mình từ trước. Khi nào vị A-la-hán này rời
bỏ phần thân xác "dư thừa" (residue, remains /
cặn bã, sự tồn dư) mà mình hiện đang có trong
kiếp nhân sinh cuối cùng này, thì khi đó vị ấy
mới thật sự hòa nhập vào "niết-bàn hoàn hảo" (parinibbana
/ bát niết-bàn) và không còn phải hiện hữu nữa,
"cảnh giới" niết-bàn đó còn được gọi là "niết-bàn
không còn phần dư thừa" (anupadisena nibbana
hoặc khandaparinibbana / vô dư niết -bàn).
Cũng xin
lưu ý là đạt được thể dạng A-la-hán có nghĩa là
đạt được sự giải thoát cho riêng mình. Do đó vị
A-la-hán không có khả năng nào giúp mình cứu độ
các chúng sinh khác. Tuy nhiên kinh sách Phật
Giáo Theravada cũng có nêu lên trường hợp nếu
một vị A-la-hán sau khi đã đạt được sự giải
thoát, thế nhưng vì lòng từ bi thúc đẩy, quyết
tâm không hòa nhập vào niết-bàn mà lưu lại thế
giới luân hồi hầu có thể giúp đỡ các chúng sinh
khác, thì vị A-la-hán ấy sẽ được gọi là một vị
Bồ-tát.

Cái chết và sự giải thoát theo Kim Cương Thừa
Nếu Phật
Giáo Theravada không chấp nhận sự hiện hữu của
một giai đoạn chuyển tiếp giữa hai sự sinh, thì
trái lại Kim Cương Thừa, còn gọi là Tan-tra Thừa
hay Phật Giáo Tây Tạng, lại đặc biệt quan tâm
đến giai đoạn trung gian này. Thật ra Kim Cương
Thừa chú trọng đến tất cả các giai đoạn tiếp nối
nhau trên dòng sinh diệt và gọi mỗi một giai
đoạn như thế là một bardo (tiếng Tây Tạng bardo
có nghĩa là một sự chuyển tiếp / tiếng Phạn
là antarabhâva). Bardo do đó không nhất
thiết chỉ có nghĩa là giai đoạn trung gian hay
chuyển tiếp xảy ra giữa hai sự sinh, mà còn được
dùng để chỉ định bất cứ một giai đoạn chuyển
tiếp nào xảy ra trong cuộc sống: chẳng hạn như
những lúc lắng vào giấc ngủ, bị hôn mê, hoặc khi
não bộ bị chấn thương và không còn hoạt động
được. Mỗi khi có một giai đoạn trung gian chấm
dứt thì lại có một giai đoạn trung gian khác
hiện ra sau đó, và cứ tiếp tục như thế. Tóm lại
có hai bardo chính yếu là: "bardo của sự sống"
tức là giai đoạn biểu trưng cho cuộc sống thường
nhật của một cá thể, và "bardo của cái chết" tức
là giai đoạn bắt đầu từ lúc các thành phần cấu
hợp khởi sự tan biến cho đến khi chấm dứt giai
đoạn hình thành đánh dấu bởi một sự sinh mới (lúc
tinh trùng kết hợp với noãn cầu). "Bardo của sự
sống" cũng như "bardo của cái chết" mỗi thứ lại
được phân chia thành ba bardo thứ yếu. Tóm lại
là có sáu bardo tất cả.
Ba
"bardo của sự sống" là:
- bardo
trong lúc tỉnh thức
- bardo
trong khi ngủ
- bardo
trong khi thiền định, tất nhiên là bardo này chỉ
có thể hiện ra với một người hành thiền trong
khi người này hòa nhập vào thể dạng trong sáng
của trí tuệ.
Ba "bardo của cái chết" là:
- bardo của quá trình cái chết, tức là giai đoạn
khởi sự xảy ra sự tan biến của năm thứ cấu hợp
cho đến khi cái chết thật sự xảy ra (xin lưu ý
là cái chết thật sự theo Kim Cương Thừa được
định nghĩa khác hơn với cái chết theo tiêu chuẩn
y khoa).
- bardo của thể dạng hiện thực, tức là giai đoạn
bắt đầu sau cái chết thật sự tức là khi các khả
năng của năm thứ cấu hợp (ngũ uẩn) đã tan biến
hết và dòng tri thức tinh tế tách rời khỏi thân
xác, và tiếp tục cho đến khi chấm dứt giai đoạn
này, có nghĩa là vào thời điểm trước khi tinh
trùng phối hợp với noãn cầu.
- bardo của sự hình thành là giai đoạn khởi sự
từ lúc bardo của thể dạng hiện thực chấm dứt đến
khi tinh trùng bắt đầu phối hợp với noãn cầu
đánh dấu một sự sinh mới.
Trong khuôn khổ và chủ đích của bài viết này
chúng ta chỉ đề cập đến quá trình bardo của cái
chết, tuy nhiên cũng xin lưu ý là bardo của giấc
ngủ cũng khá tương tự như bardo của cái chết.
Tuy bardo của giấc ngủ khá đơn giản và không đầy
đủ so với bardo của cái chết, thế nhưng bardo
này có thể đảo ngược được (reversible), tức có
nghĩa là có thể "tỉnh dậy" sau đó. Vì thế người
tu tập theo Kim Cương Thừa thường sử dụng phép
du-già thiền định để phân tích, tìm hiểu, theo
dõi quá trình bardo của giấc ngủ để tập cho quen
dần, hầu giúp mình ứng phó dễ dàng hơn khi cái
chết thật sự xảy ra. Cũng xin lưu ý là bardo của
giấc ngủ diễn tiến rất nhanh và do đó chỉ có
những người luyện tập du-già thành thạo mới có
thể theo dõi được.
Bardo trong lúc xảy ra cái chết gồm có hai giai
đoạn "tan biến" (dissolution): trước hết là sự
tan biến bên ngoài (người khác có thể quan sát
và theo dõi được), đấy là sự tan biến của các
khả năng cảm nhận của các cơ quan giác cảm trên
thân xác, và sau đó là sự tan biến bên trong của
dòng tri thức thuộc lãnh vực nội tâm (ngoại trừ
một số nhà sư cao thâm ra thì chỉ có người hấp
hối mới cảm nhận được sự tan biến rất tinh tế
này).
Giai đoạn tan biến thứ nhất liên quan đến quá
trình tan biến của năm thành phần của vũ trụ là:
đất, nước, lửa, khí và không gian (sinh khí).
Khi thành phần đất (chất cứng) tan biến (nên
hiểu tan biến ở đây có nghĩa là các thành phần
mất đi khả năng của chúng, thí dụ thành phần đất
tan biến thì đấy có nghĩa là thân xác không còn
cử động được, mặc dù thành phần cứng của thân
thể vẫn còn), người sắp chết sẽ cảm thấy thân
xác nặng nề, không cử động được, không xoay trở
được, dường như có một vật nặng đè lên người.
Khi thành phần nước tan biến, các chất nhờn trở
nên khô ráo (các hạch bài tiết ngưng hoạt động),
người hấp hối cảm thấy khát, tâm thần hoang mang
và cảm thấy nhẹ bỗng và bồng bềnh, tương tự như
bị một dòng nước cuốn trôi. Khi thành phần lửa
tan biến, thân xác mất nhiệt và trở nên lạnh,
người hấp hối khó thở, và sau đó sẽ mê man và
không còn suy nghĩ được nữa. Tiếp theo đó đủ mọi
thứ ảo ảnh sẽ hiện ra và các biến cố đủ loại
trong cuộc sống vừa qua sẽ hiện về trong tâm
thần người hấp hối, tương tự như một cuốn phim
chiếu nhanh. Tuy nhiên đôi khi người hấp hối
cũng có thể cảm thấy một thể dạng trong sáng lạ
thường, chẳng hạn như một bầu không gian rạng
ngời và an bình. Cũng bắt đầu từ giai đoạn này
tim sẽ ngưng đập và phổi hết thở, tiếp theo đó
não bộ bắt đầu suy thoái. Đây cũng là thời điểm
đánh dấu cái chết theo tiêu chuẩn y khoa. Tuy
nhiên chúng ta cũng thấy nhiều trường hợp một
người đã chết theo tiêu chuẩn y khoa thế nhưng
nhờ cứu cấp đôi khi cũng có thể hồi tỉnh được,
và điều này cho thấy là các tiêu chuẩn y khoa
không được chính xác và đầy đủ để xác định cái
chết thật sự. Trong giai đoạn này (tức là đã
chết theo tiêu chuẩn y khoa) "sinh khí" biểu
trưng bởi "không gian" trong cơ thể vẫn còn duy
trì thêm được một thời gian nữa trước khi tan
biến hết. Khi giai đoạn này chấm dứt thì dòng
tri thức tinh tế cũng sẽ tách rời khỏi thân xác
và sự kiện này sẽ đánh dấu cái chết thật sự theo
tiêu chuẩn của Kim Cương Thừa.
Giai
đoạn tan biến thứ hai là sự tan biến bên trong.
Trong giai đoạn này năm thành phần cấu hợp thô
thiển (ngũ uẩn tạo ra môt cá thể) đã hoàn toàn
mất hết khả năng, dòng tri thức tách rời khỏi
năm thành phần ấy và trải qua một loạt các thể
dạng khác nhau và sau cùng sẽ trở nên càng lúc
càng tinh tế hơn. Đấy là sự "tan biến tinh tế"
của tri thức: các thứ xúc cảm dần dần tan biến
hết, trong khi đó thì hai thành phần tinh túy
thừa hưởng của cha và của mẹ trước đây (khi cá
thể được thụ thai) sẽ hội nhập với nhau ở vị trí
tim và cùng tan biến sau đó. Thành phần tri thức
tinh tế, sau khi đã được giải thoát ra khỏi "lớp
vỏ cứng" tạo ra bởi những sự suy nghĩ quy ước và
quen thuộc trước đây, sẽ nhờ đó để thể hiện được
thể dạng nguyên sinh và tinh khiết nhất của nó,
tức là một thể dạng rạng ngời và trống không gọi
là "ánh sáng trong suốt" của cái chết.
Thời điểm phát hiện "ánh sáng trong suốt" là một
thời điểm chủ yếu nhất đối với người luyện tập
du-già, bởi vì người này có thể ý thức được bản
chất trống không và Giác Ngộ của thể dạng đó để
hòa nhập vĩnh viễn với nó. Đấy là cách giúp
người luyện tập thoát khỏi chuỗi dài tái sinh
bằng cách "dừng lại" ở thể dạng tinh khiết nhất
của "bardo hiện thực" tức là thể dạng "ánh sáng
trong suốt". Tuy nhiên họ cũng có thể không hòa
nhập với nó mà tự nguyện sẽ chuyển sang bardo
tiếp theo để tái sinh trở lại hầu có thể giúp đỡ
chúng sinh còn đang vướng mắc trong cõi luân
hồi. Đối với những người luyện tập du-già cao
thâm thì giai đoạn bardo của ánh sáng trong suốt
trên đây có thể kéo dài nhiều ngày hoặc hàng
tuần, đôi khi cũng có thể là hàng tháng. Trong
thời gian này xác chết của họ vẫn giữ nguyên
tình trạng tươi tốt không hư thối, chỉ sau khi
họ đã hoàn toàn hòa nhập với ánh sáng trong suốt
(tức là tánh không tuyệt đối) thì khi đó xác
chết của họ mới bắt đầu hư thối.
Những người bình dị tức không tu tập vẫn đạt
được thể dạng ánh sáng trong suốt trên đây thế
nhưng đối với họ thì thể dạng trung gian này xảy
ra rất ngắn và chỉ kéo dài trong khoảng vài giờ
đến ba ngày là cùng. Sau khi giai đoạn hiển hiện
của ánh sáng trong suốt trên đây chấm dứt thì họ
sẽ rơi vào một tình trạng hôn mê và cũng sẽ tỉnh
lại ngay sau đó trong một bardo khác, gọi là
bardo của sự hình thành. Trong bardo này tri
thức của người quá cố sẽ được hồi phục, thế
nhưng họ có cảm giác như mình đang sống trong
một giấc mơ. Thế nhưng thật ra họ đã hoàn toàn
rời khỏi xác chết trước đây của mình và đang
mang một "thân xác" mới thật tinh tế (có thể
hình dung như thân xác chiêm bao trong giấc
ngủ). Trong giai đoạn hình thành và mang một
thân xác tinh tế - tức chưa phải là thân xác
thật sự thuộc bardo của sự sinh sắp xảy ra - thì
đủ mọi thứ ảo giác khiếp đảm sẽ hiện lên với họ,
thí dụ như nhưng tiếng nổ long trời, những hố
sâu đen ngòm, những đàn thú dữ gầm thét...,
những ảo giác ấy là hậu quả phát sinh từ nghiệp
của họ. Nói chung họ phải chịu nhiều khổ đau và
gian truân trước khi tìm được một tử cung phù
hợp với nghiệp của mình để tái sinh. Dù sao thì
thời gian này cũng chỉ kéo dài tối đa bốn mươi
chín ngày, tuy nhiên cũng có giả thuyết cho rằng
bardo của sự hình thành có thể kéo dài lâu hay
mau là tùy thuộc vào nghiệp của mỗi cá thể, và
cũng có giả thuyết cho rằng "ngày" trong giai
đoạn bardo này không nhất thiết phải tương tự
như "ngày" trong "cảnh giới" của chúng ta.
Tóm lại Kim Cương Thừa đặc biệt quan tâm đến
"quá trình vĩ mô" của sự sống và cái chết bằng
cách phân chia quá trình này thành nhiều bardo
khác nhau. Riêng "bardo về cái chết" được đặc
biệt mô tả thật chi tiết nhờ vào kết quả mang
lại từ phép luyện tập gọi là du-già thiền định.
Đồng thời Kim Cương Thừa cũng mô tả "quá trình
vi mô" diễn tiến song hành với quá trình vĩ mô
như trên đây qua những sự tan biến và hình thành
trên dòng tri thức. Tính cách "lô-gic" trong
quan điểm về cái chết của Kim Cương Thừa được
căn cứ vào sự quan sát và các kinh nghiệm cảm
nhận trực tiếp nhờ vào thiền định. Người hành
thiền cao thâm có thể "hình dung" hay "tạo ra"
một cái chết giả tưởng để theo dõi và phân tích.
Nói chung là Kim Cương Thừa chú trọng đến cả hai
quá trình "vi mô" và "vĩ mô" và mô tả tỉ mỉ sự
vận hành chung của hai quá trình này.
Tóm lại đối với Kim Cương Thừa cái chết là một
dịp giúp người tu tập tự giải thoát khỏi vòng
xoay vần bất tận của luân hồi. Cũng xin lưu ý là
Kim Cương Thừa không phải chỉ hướng vào bardo
của cái chết để tìm sự giải thoát cuối cùng, mà
đúng hơn chủ đích tu tập của tông phái này là
phải thành Phật ngay trong kiếp sống hiện tại,
hoặc trong một hay hai kiếp sống sau đó. Nếu
không đủ khả năng để thành Phật ngay trong kiếp
nhân sinh này thì cũng có thể nhờ vào giai đoạn
bardo của ánh sáng trong suốt của cái chết để
hoà nhập với tánh không như vừa trình bày trên
đây.
Cái chết và sự giải thoát theo Thiền Học
"Tại nơi này và ở thời điểm này"
là một câu có thể biểu trưng cho toàn bộ cốt lõi
của tông phái Thiền Học. "Tại nơi này và ở
thời điểm này" là cách "cắt đứt" quá khứ và
"chận đứng" vị lai, nói cách khác là làm "dừng
lại" mọi sự vận hành nhị nguyên của tâm thức.
Đây là phương cách mà Thiền Học sử dụng để "hoá
giải" các quy luật tương liên (pratityasamutpada),
vô thường (anitya) và nhân quả (karma).
Nguyên tắc căn bản của Thiền Học là không có bất
cứ gì để nắm bắt, để tìm hiểu hay là để nhận
thức mà chỉ cần "sống" thật đơn giản với những
gì hiển hiện ra với mình, dù đấy là sự sinh tồn
hay cái chết, nói một cách khác là phải hòa nhập
với Thực Tại. Sở dĩ con người quá sợ hãi cái
chết chẳng qua là vì họ đã tự tạo ra cho mình đủ
mọi thứ tưởng tượng nhị nguyên và đối nghịch,
khiến họ bị rơi trệch ra bên ngoài Hiện Thực.
Tìm đủ mọi phương cách để trực tiếp đối đầu với
cái chết không phải là cách ứng phó hữu hiệu
nhất với nó mà đúng hơn phải làm tan biến mọi sự
tưởng tượng trong trí của chính mình.
Có một vị thiền sư và một người đệ tử
cùng tham dự một đám táng, người đệ tử trỏ xác
chết của người quá cố và hỏi vị thầy: "Thế hắn
đang sống hay đã chết?" Vị thầy trả lời: "Ta
không sao trả lời mi được, bởi vì chính ta cũng
không biết" (câu chuyện do thiền sư J.P. Faure
kể trong một buổi phát sóng hàng tuần về Phật
Giáo vào ngày 5 tháng 3, năm 2000 trên đài
truyền hình quốc gia Pháp, do đó cũng không rõ
vị thầy tên gì và nguồn gốc câu chuyện thuộc vào
tài liệu nào). Vị thầy không đứng vào vị trí của
quá khứ mà cũng chẳng đặt mình vào vị thế của
tương lai, ông không thắc mắc những gì đã xảy ra
trước đó với người quá cố và cũng không tưởng
tượng những gì sẽ xảy đến với hắn trong tương
lai. Nếu tự tách mình ra khỏi quá khứ và cũng
không hướng mình vào tương lai thì mình cũng sẽ
chẳng thấy sự sống hay cái chết của người khác
cũng như của mình ở đâu cả.
Tất cả mọi công án của Thiền Học đều
nhằm vào một mục đích duy nhất là tìm cách chận
đứng tất cả mọi tư duy mang xu hướng quay nhìn
về quá khứ hoặc hướng vào tương lai, cũng như
mọi sự suy luận và tính toán, nói một cách đơn
giản là không tưởng tượng gì cả. Đối với Phật
Giáo tất cả mọi hiện tượng trong thế giới đều
biến động và đổi thay, không ngoại trừ bất cứ
một thứ gì: từ một hạt bụi, một quả núi, một lục
địa cho đến một hành tinh, tất cả đều đang "hình
thành" hoặc "thoái hóa" trong từng giây phút
một. Trong tâm thức con người tư duy và xúc cảm
cũng biến đổi không ngừng. Sự sống và cái chết
cũng thế, cũng đều vô thường như nhau, không nên
tách rời sự sống với cái chết, không phải chỉ có
cái chết mới vô thường. Tất cả những gì hiện ra
đều biến đi, chính vì thế nên tất cả đều là
vô-thực-thể, kể cả cái chết. Nếu nhìn thấy chúng
là thật thì tức khắc chúng sẽ hóa thành nguồn
gốc mang lại khổ đau. Nếu ý thức được là chúng
không có một thực-thể nào cả thì đấy sẽ là cách
giúp mình quán thấy được Sự Thật Tối Hậu của mọi
sự vật, tức là tánh không, là niết-bàn.
Những gì vừa trình bày trên đây cho thấy
Thiền Học luôn chú tâm vào việc "ứng phó" với
thời gian mà không tìm cách "đối đầu" với cái
chết. Tách rời ra khỏi quá khứ cũng như tương
lai là một cách giải quyết tận cội rễ của mọi sự
vướng mắc. Thế nhưng thời gian là gì? Câu hỏi
này có thể được nêu lên một cách khá bất ngờ đối
với người đọc, bởi vì có ai mà chẳng biết thời
gian là gì: chẳng phải là ngày hôm nay khác với
ngày hôm qua hay sao? Thế nhưng trên thực tế cho
đến nay chưa có một khoa học gia, một triết gia,
một tư tưởng gia hay một nhà bác học nào có thể
giải thích được bản chất của thời gian là gì!
Chúng ta trông thấy mặt trời mọc buổi sáng và
lặn vào buổi chiều, thế nhưng thật ra mặt trời
không mọc mà cũng không lặn, đấy là vì địa cầu
quay chung quanh nó để tạo ra ngày và đêm. Trục
quay của địa cầu cũng làm thay đổi độ nghiêng để
tạo ra mùa màng. Chúng ta đồng hóa tất cả những
thứ ấy với thời gian. Trong toán học và vật lý
học có một hệ số hay yếu tố biểu trưng cho thời
gian, thế nhưng thực sự hệ số hay yếu tố ấy là
gì? Sở dĩ kim đồng hồ quay ấy là nhờ vào lò xo
hoặc vào sự "nhấp nháy" của một transitor, thời
gian không làm cho kim đồng hồ quay được. Cho
đến nay chưa có ai hiểu được thời gian là gì mà
chỉ biết đồng hóa thời gian với một sự chuyển
động mà thôi, và chỉ đơn giản có thế. Thân xác
và tâm thức một cá thể luôn chuyển động, do đó
thời gian cũng ẩn chứa một cách tự tại bên trong
thân xác và tâm thức của cá thể đó. Sự chuyển
động ấy của thời gian chính là "hệ số" quan
trọng nhất chi phối sự sống và cái chết của mỗi
cá thể. Cũng xin mượn dịp này để tóm lược ra đây
một vài lời giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma về quan
điểm của Phật Giáo đối với thời gian. Ngài cho
biết rằng một học phái xưa là Kinh Lượng Bộ
(Sautrantrika) quan niệm rằng mọi hiện
tượng và biến cố chỉ hiện hữu trong hiện tại.
Quá khứ và vị lai chỉ mang tính cách khái niệm,
đấy chỉ là những tạo dựng đơn thuần của tâm
thức. Đối với học phái Trung Quán Cụ Duyên Tông
(Madhyamika-prasangika / một chi phái của Trung
Quan Tông) thời gian chỉ mang tính cách tương
đối, và chỉ là một thực thể trừu tượng tạo dựng
bởi tâm thức dựa vào sự "xảy ra liên tục"
(continuity) của một biến cố hay một hiện tượng.
Do đó không thể nào xem thời gian như là một
thực thể tự chủ (entité autonome / autonomous
entity) độc lập với sự hiện hữu của một vật thể,
tức có nghĩa là thời gian không thể nằm bên
ngoài vật thể ấy được. Trên phương diện triết
học thời gian chỉ là một khái niệm lệ thuộc vào
sự liên tục (continuum) của các hiện tượng.
Thiền Học được hình thành từ thế kỷ thứ
VI và kể từ đó đã có không biết bao nhiêu vị
thầy lỗi lạc kế tiếp nhau xuất hiện để triển
khai học phái này, thế nhưng phải chờ đến thế kỷ
XIII mới thấy xuất hiện một vị thiền sư khác
thường và ngoại hạng là Đạo Nguyên (Dôgen,
1200-1253). Ông là một triết gia lớn của nước
Nhật và cũng là một trong số những nhà tư tưởng
lỗi lạc nhất trong lịch sử Phật Giáo. Thiết nghĩ
có thể xem ông ngang hàng với Long Thụ
(Nagarjuna) ở thế kỷ thứ II và Vô Trước ở thế kỷ
thứ IV. Đấy là ba cột trụ to lớn và vững chắc
nhất của triết học Phật Giáo. Tập Chánh Pháp
Nhãn Tạng (Sôboghenzô) của ông là tập luận giải
đồ sộ nhất và quan trọng nhất của Thiền Học. Có
thể nói là hầu như toàn bộ tập luận này đều trực
tiếp hay gián tiếp hướng vào chủ đích phân tích,
tìm hiểu và khắc phục thời gian. Theo ông người
ta có thể nhìn thấy được toàn thể vũ trụ trong
một hạt bụi, tất nhiên là với điều kiện phải
thấu triệt được bản chất của hạt bụi là gì. Thời
gian cũng thế, cũng chỉ có thể xác định được
dưới một hình thức "khẳng định" hay "quyết định"
(a determination) nào đó gọi là một "khoảnh
khắc" (an instant), có nghĩa là thời gian
không thể xác định được bên ngoài một khoảnh
khắc. Khái niệm về một sự tiếp nối liên tục giữa
quá khứ/hiện tại/tương lai là một sự lầm lẫn
hoàn toàn. Chỉ có "giây phút" xảy ra trong một
khoảnh khắc là thật mà thôi. Do đó, mỗi khoảnh
khắc dù ngắn cách mấy đi nữa cũng biểu trưng cho
toàn thể thời gian, không cần phải có một khoảnh
khắc khác tiếp nối với nó, tương tự như một hạt
bụi cũng có thể biểu trưng cho toàn thể thế giới
trong thí dụ trên đây. Cũng xin ghi chú thêm là
quan điểm của ông về thời gian mang nhiều khía
cạnh gần với ngành Vật Lý Lượng Tử ngày nay và
đã làm cho nhiều nhà vật lý phải thán phục. Trên
phương diện triết học thì quan điểm của ông cũng
rất gần với chủ thuyết hiện sinh
(existentialism) và tư tưởng của một số triết
gia cận đại của Tây Phương như: M. Heidegger
(1889-1976), J.P. Sartre (1905-1980), M.
Merleau-Ponty (1908-1961), v.v...
Khoảnh khắc xảy ra "tại nơi này và ở
thời điểm này" phát sinh từ quá khứ, bao hàm
và cất chứa toàn thể quá khứ kể từ lúc khởi thủy
của thời gian, thế nhưng đồng thời khoảnh khắc
xảy ra "tại nơi này và ở thời điểm này"
cũng lại là một nhân tố có thể làm biến đổi được
cả tương lai. Do đó dừng lại "tại nơi này và
ở thời điểm này" chính là cách tạo ra một
tiềm năng rất lớn có thể hóa giải được cái chết.
Nói một
cách cụ thể và đơn giản hơn là trong từng khoảnh
khắc chúng ta phải buông xả hay buông bỏ tất cả,
phải thật chú tâm vào những giây phút của hiện
tại. Một mặt phải xả bỏ những hối tiếc của quá
khứ, một mặt không tính toán hay cân nhắc gì cả
về tương lai. Đấy chính là phép luyện tập để ứng
phó với sự sống và cái chết theo học phái Thiền
Học. Phải chấp nhận rằng một khoảnh khắc dù là
mới xảy ra đi nữa thì nó cũng đã đi vào quá khứ
và sẽ chẳng bao giờ quay trở lại. Tất cả những
gì thuộc quá khứ sẽ mãi mãi là quá khứ, hiện
thực chính là "tại nơi này và ở thời điểm
này". Nếu muốn giúp mình có thể sống trong
khoảnh khắc của hiện tại thì phải loại bỏ tất cả
mọi thứ tưởng tượng ô nhiễm nhằm ngăn cách mình
với hiện thực và tách rời mình ra khỏi sự vận
hành của vũ trụ. Vậy thì những thứ tưởng tượng ô
nhiễm ấy là gì? Thật hết sức đơn giản, đấy là
những tư duy mang bản chất bám víu. Một mặt
chúng khiến cho ta cứ mãi mê hối tiếc quá khứ,
một mặt thì chúng lại thúc đẩy ta tìm đủ mọi
cách để nắm bắt tương lai! Tóm lại Thiền Học chủ
trương sự giác ngộ phải đạt được "tại nơi này
và ở thời điểm này" có nghĩa là trong kiếp
sống này, trong ngày hôm nay, ở thời điểm mà
người viết "đang" viết những dòng chữ này và
người đọc cũng "đang" đọc những dòng chữ này.
Mặc dù cách trình bày trên đây đã khá cụ
thể và đơn giản thế nhưng cũng vẫn còn khá lý
thuyết. Vậy phải làm thế nào để sống và để chết
"tại nơi này và ở thời điểm này"? Ngoài
phép "tọa thiền" (zazen) còn gọi là "ngồi thiền"
ra thì không còn có cách nào khác hơn. Tọa thiền
theo Thiền Học là ngồi yên để tập trung tâm thần
cực mạnh hướng vào thân xác và hơi thở, sự tập
trung đó sẽ giúp cho tâm thức lắng xuống, không
còn chạy theo để đuổi bắt các tư duy và xúc cảm
liên tiếp hiện lên trong đầu để quấy rối mình
nữa. Đấy là cách giúp mình dừng lại "tại nơi
này và ở thời điểm này". Cảm nhận và thực
hiện được thời gian vô biên trong từng khoảnh
khắc một là cách tiếp cận tốt nhất với sự sống
và cả cái chết, tức là cách không để cho khoảnh
khắc hiện tại đang xảy ra biến thành bất cứ một
sự phóng tưởng nào. Khoảnh khắc hiện tại tự nó
đã là một sự viên mãn, tràn đầy và tuyệt đối,
không cần phải ghép thêm vào đấy một sự tưởng
tượng nào nữa.
Dù sao cũng phải hiểu rằng tọa thiền
(zazen) không phải là cách nhằm tạo ra một thể
dạng "phẳng lặng" nào cả. Điều đó không thể thực
hiện được, bởi vì tư duy và xúc cảm luôn chuyển
động, tâm thức thường xuyên ở trong một tình
trạng chuyển đổi liên tục: có lúc ta cảm thấy
khổ đau, có lúc tham dục dấy lên, có lúc sợ hãi
xâm chiếm toàn bộ tâm thức mình, thế nhưng cũng
có lúc hiện lên sự thanh thoát và trong sáng.
Tọa thiền là cách giúp chúng ta quán thấy và ý
thức được quy luật vô thường đang chi phối bên
trong tâm thức của chính mình. Thế nhưng tọa
thiền đồng thời cũng là cách giúp chúng ta không
tự nhận diện mình với những thể dạng vô thường
ấy để có thể quay về với bản chất đích thật của
chính mình. Quán nhìn vào thân xác và từng hơi
thở là một cách giúp mình ý thức được bản chất
vô thường của chúng hầu mang lại cho mình một
thể dạng an bình hơn. Cứ mỗi lần quay trở lại
với thân xác và hơi thở là mỗi lần chúng ta tạo
ra cho mình một thể dạng tâm thức mới, tươi mát
và thanh thoát, vượt thoát khỏi sự chi phối của
tư duy và các xúc cảm bấn loạn, tức là các thứ
tưởng tượng rơi ra bên ngoài hiện thực. Thể dạng
mới mẻ và tươi mát đó của tâm thức hiện ra mỗi
khi chúng ta quay về với thân xác và hơi thở của
mình chính là thể dạng niết-bàn.
Nếu thể dạng ấy xảy ra càng thường xuyên
hơn thì niết-bàn cũng sẽ trở nên càng vững vàng
hơn. Xao động hay an bình thì cũng chỉ là hai
thể dạng tâm thần, cõi luân hồi hay niết-bàn thì
cũng chỉ là hai thể dạng của tâm thức, tương tự
như một tấm màn ảnh chiếu phim: một bên hiện lên
đủ mọi thứ hình ảnh linh động, một bên chẳng có
gì cả. Thế nhưng thông thường một số người tu
hành lại không hiểu như thế, bởi vì một mặt thì
họ kinh sợ thế giới luân hồi, một mặt thì ước
mong phải đạt cho bằng được cõi niết-bàn. Sự ước
mong đó tất sẽ tạo ra một sự ham muốn, và ham
muốn hay ước vọng (aspiration) đều sẽ chuyển
thành thèm khát (desire) thật dễ dàng. Thèm khát
chính là nguyên nhân sâu xa nhất đưa đến sự tái
sinh. Như thế có phải là ước vọng thực hiện được
niết-bàn lại trở thành cách hướng vào thể dạng
đối nghịch với nó hay không? Đấy chẳng khác gì
như đi tìm ngôi sao Bắc Đẩu bằng cách hướng nhìn
về phương Nam. Một khi đã quán thấy được bản
chất đích thật của cõi luân hồi không mang một
thực thể nào cả - có nghĩa là sự sống này và cả
sự biến mất của nó cũng chỉ là vô thường - thì
khi đó ta sẽ buông bỏ chúng một cách thật dễ
dàng. Thế nhưng buông bỏ chúng lại là cách mở ra
cho ta cánh cửa của niết-bàn.
Tóm lại sự chú tâm thật hết sức quan
trọng. Nếu chú tâm thật mạnh vào thân xác và hơi
thở thì chúng ta cũng sẽ buông xả cho tư duy và
mọi thứ xúc cảm trong đầu trôi đi dễ dàng hơn.
Nếu sức chú tâm càng mạnh thì nó lại càng khiến
cho mọi thứ tưởng tượng tan biến đi nhanh chóng
hơn và càng giúp cho sự buông xả được dễ dàng
hơn. Thế nhưng bản chất của sự buông xả thật sự
là gì? Đấy là trí tuệ! Buông xả là một thể dạng
quán thấy sâu xa giúp mình nhận biết được tất cả
những gì mà mình đang bám víu không mang một
thực thể nào cả: "cái tôi" và cái "của tôi" -
tức "cái ngã" - là vô thường, thân xác, tư duy
và xúc cảm là vô thường, sự sống và cái chết là
vô thường. Không có bất cứ thứ gì đáng để mình
bám víu vào đấy. Buông xả không phải là một sự
cố gắng, bởi vì càng cắn răng nhịn nhục và chịu
đựng để buông xả thì lại là cách càng gây ra
nhiều khổ đau cho mình hơn.
Buông xả phải là một thể dạng tự nhiên
phát sinh từ trí tuệ. Thế nhưng trí tuệ không
nhất thiết là thể dạng tâm thức chỉ có thể hiện
ra trong khi tọa thiền (zazen) mà phải làm cho
nó hiện ra bất cứ lúc nào trong cuộc sống thường
nhật để phát huy và duy trì nó. Điều ấy có nghĩa
là không được xao lãng và đánh mất một giây phút
nào trong cuộc sống. Khi nhìn vào một người tu
thiền chúng ta sẽ thấy ngay là họ lúc nào cũng
có vẻ thanh thoát, tĩnh lặng và nhàn nhã, thế
nhưng thật ra bên trong họ tàng ẩn một sức mạnh
khác thường phát sinh từ sự chú tâm cực mạnh của
họ, giúp họ xả bỏ được rất nhiều những gì mà
người khác bám víu. Nhờ không bám víu nên phong
thái của họ trở nên thật thanh thản. Nếu biết
chú tâm trong từng khoảnh khắc đang xảy ra
"tại nơi này và ở thời điểm này" cho đến
những khoảnh khắc cuối cùng khi cái chết xảy đến
với mình, thì cái chết cũng sẽ chẳng gây ra cho
mình một chút tai hại hay bấn loạn nào cả.
Tóm lại là Thiền Học không quan tâm đến
"quá trình vi mô" và cả "quá trình vĩ mô" của sự
sống và cái chết như đã được trình bày trên đây,
mà trái lại chỉ hướng vào việc tìm hiểu sự vận
hành của tâm thức nhằm giúp tâm thức quay về với
thể dạng nguyên sinh và tinh khiết nhất của nó
hầu giúp nó thích ứng và hoà nhập với hiện thực
và để trở thành hiện thực. Thế nhưng nếu suy xét
thật kỹ thì đấy cũng chính là cách dừng lại để
sống với từng đơn vị của dòng tri thức, tức là
không tiếp nhận những gì từ đơn vị trước đó
chuyển sang cho nó, cũng không chuyển sang cho
đơn vị xảy ra sau đó những gì mà nó hiện đang
có. Đó cũng là sự "đình chỉ" mô tả trong phép tu
tập của Phật Giáo Theravada và cũng là sự hòa
nhập vào ánh sáng trong suốt nêu lên bởi phép
thiền định du-già của Kim Cương Thừa.
Để chấm dứt phân đoạn này xin mạn phép
kể ra đây câu chuyện về cái chết của một thiền
sư Nhật Bản là Suzuki Shosan. Sinh năm 1579
trong một gia đình võ sĩ đạo (samurai), ông phục
vụ cho vị tướng quân Shogun Tokugawa Ieyasu,
lãnh đạo một bộ tộc hùng mạnh. Ông cũng đã từng
tham dự nhiều trận chiến thật khốc liệt. Thế
nhưng đến năm 1620 khi vừa bước vào tuổi 41, một
cái tuổi có thể xem là già dặn, thì ông chán
ngán việc binh bị và xuất gia tu thiền. Ông
không thích cuộc sống cố định và nhất là ông rất
ghét các tổ chức mang tính cách giáo phái nơi
chùa chiền cùng các lối sinh hoạt tập thể của
tăng đoàn. Do đó ông đã chọn một cuộc sống phiêu
bạt, ngao du hết chùa này sang chùa khác. Ông
thuyết giảng khắp nơi, thu nhận đồ đệ và cũng
viết lách khá nhiều. Theo quan điểm của ông thì
Phật Giáo không phải là một tín ngưỡng lý thuyết
mà chỉ là một phong cách sống: đối với người
chiến binh thì Phật Giáo là Con Đường của người
chiến binh, đối với người nông dân thì Phật Giáo
là Con Đường của người nông dân, đối với một
nghệ nhân thì Phật Giáo là Con Đường của người
nghệ nhân, đối với người buôn bán thì Phật Giáo
là Con Đường của người buôn bán..., đơn giản chỉ
có thế. Riêng đối với ông với tư cách là một
người chiến binh thì điều quan trọng hơn hết là
"phải nhìn thẳng vào cái chết, phải thấu hiểu
cái chết là gì". Đối với ông toàn bộ giáo lý
Phật Giáo cũng chỉ có thế.
Mùa xuân năm 1655, ông ngã bệnh và người
ta cho ông biết là bệnh tình của ông rất trầm
trọng. Ông đáp lại rằng điều ấy chẳng quan hệ
gì, bởi vì ông đã chết từ hơn ba mươi năm rồi -
tức là từ khi ông bắt đầu xuất gia. Khi tình
trạng bệnh tình trở nên nguy kịch, các đệ tử
thân tín quay quần chung quanh giường ông nằm.
Một người cất lời xin ông ban cho họ một "lời
cuối cùng", tức thời Shosan trợn mắt nhìn người
này và thét lên: "Mi nói gì đấy? Những gì mi vừa
thốt ra cho thấy rằng mi chẳng hiểu gì cả về
những lời giảng của ta từ ba mươi năm nay. Hãy
mở mắt ra mà nhìn, thật là đơn giản, ta đang
chết đây này, và chỉ có thế thôi". Soshan mất
ngày 25 tháng 6, năm 1665, thọ 76 tuổi.
Lời kết
Trong Trường Bộ Kinh Đức Phật có căn dặn
các đệ tử của mình như sau:
"Này các tỳ-kheo, cũng có thể là các
người tu hành không gia cư thuộc các giáo lý
khác với giáo lý của chúng ta sẽ hỏi các người
rằng: Một Đấng Như Lai (Tathagata) có còn hiện
hữu sau khi chết hay không? [...], thì khi đó
các người phải trả lời với họ như thế này: 'Này
các bạn, điều ấy vị Giác Ngộ không hề nêu lên
[...] bởi vì điều ấy không mang lại sự an vui,
không mang lại Đạo Pháp đích thật, không giúp
chấm dứt sự thèm khát, không mang lại sự an
bình, sự đình chỉ, trí tuệ, sự giác ngộ và
niết-bàn [...]. Những gì vị Giác Ngộ nêu lên chỉ
là Bốn Sự Thật liên quan đến khổ đau, sự chấm
dứt của khổ đau và con đường đưa đến sự chấm dứt
ấy' ". (Digha Nikaya, III, 135, dịch theo
bản tiếng Pháp của Liliane Silburn trong quyển
Aux Sources du Bouddhisme, Fayard, 1977,
trang 70).
Những lời dặn dò và chỉ bảo của Đức Phật
trên đây cho thấy hai khía cạnh nổi bật: thứ
nhất là khía cạnh thiết thực của Đạo Pháp, thứ
hai là còn thật nhiều điều không "thiết thực",
hay ít ra cũng không "cần thiết" để nói lên vào
thời đại của Ngài, chẳng hạn như những gì bên
trong và phía sau cái chết.
Đạo Pháp do Đức Phật nêu lên luôn luôn
mang tính cách thực dụng, minh bạch, hướng vào
chủ đích giúp con người hóa giải những nỗi thống
khổ mênh mông của họ trong kiếp nhân sinh này
của họ. Những lời giảng huấn của Ngài thật thâm
sâu nhưng luôn minh bạch và chính xác giúp cho
mọi người đều có thể hiểu được và thực hiện
được. Căn bản của Đạo Pháp là Bốn Sự Thật Cao
Quý, và phép tu tập là "Con Đường Gồm Tám Điều
Đúng Đắn". Suốt trong bốn mươi lăm năm thuyết
giảng Ngài cũng chỉ khai triển căn bản giáo lý
ấy. Tuy nhiên Ngài cũng có nêu lên một số khái
niệm siêu hình thật chủ yếu chẳng hạn như các
khái niệm: không có "cái tôi" và "cái của tôi"
(vô ngã), sự kiện tương liên và tương tạo giữa
các hiện tượng (lý duyên khởi), bản chất cấu hợp
của cá thể con người (ngũ uẩn), sự vận hành của
tâm thức, v.v. Thế nhưng Ngài cũng chỉ nêu lên
các khía cạnh thực dụng và thật cụ thể của các
khái niệm này, tức là những gì thật thiết yếu
giúp người tu tập thấu triệt được dễ dàng hơn
căn bản Đạo Pháp do Ngài đưa ra.
Thế nhưng sự dừng lại ấy của Đức Phật
với những gì thiết thực không hề là một sự bế
tắc mà đúng hơn là cách mở ra một cánh cửa giúp
cho các vị đại sư sau này diễn đạt thêm những gì
mà Ngài không giải thích hết. Những diễn đạt mới
cũng chỉ là một cách thích ứng của Đạo Pháp với
sự tiến hóa của xã hội và những đòi hỏi đa dạng
của con người vào những thời đại sau này. Đó
cũng là một trong những cách hiểu về sự da dạng
của Phật Giáo và các quan điểm khác nhau về sự
sống cũng như cái chết. Sự mở rộng đó có thể là
một trong những nguyên nhân giúp cho Đạo Pháp
không hề bị khô cằn và bế tắc. Tuy rằng có nhiều
tông phái và học phái khác nhau được phát sinh
và chủ trương nhiều quan điểm khác nhau, thế
nhưng tất cả cũng vẫn là Phật Giáo. Một người tu
tập theo Phật Giáo Đại Thừa viếng thăm một xứ
theo Phật Giáo Theravada sẽ không hề cảm thấy
mình xa lạ và lạc lõng.
Một số các tôn giáo độc thần tuy mang ít
nhiều bất đồng chính kiến với nhau thế nhưng lại
đồng loạt đưa ra một giải pháp giống nhau trước
cái chết. Trong khi đó Phật Giáo tuy chỉ là tôn
giáo duy nhất thế nhưng lại đưa ra rất nhiều
giải pháp khác nhau cho các tín đồ của mình.
Phật Giáo không xem sự sống và cái chết của một
cá thể là duy nhất, cái chết không phải là một
định mệnh, cũng không tùy thuộc vào ý chí của
một Đấng Tối Cao nào cả, và cũng không phải là
một sự bất lực của con người, bởi vì mỗi con
người có thể chủ động được sự sống và cái chết
của họ nhờ vào sự tu tập. Đối với những người
tuy "theo Phật Giáo" thế nhưng chưa hề biết tu
tập là gì, thì giáo lý nhà Phật cũng có thể giúp
họ hiểu rằng sự sống và cái chết nằm chung trong
sự vận hành của thế giới hiện tượng, và do đó
cũng là những hiện tượng tương tự như những hiện
tượng khác. Nếu đã là hiện tượng thì tất cả cũng
đều tương kết với nhau, thúc đẩy nhau để cùng
chuyển động phù hợp với những quy luật chung của
vũ trụ. Thiết nghĩ cách nhìn đó là một cách nhìn
hết sức linh động, tự nhiên và không bế tắc về
sự sống và cái chết. Bất cứ ai cũng đều có thể
tạo cho mình cách nhìn thanh thản và tự nhiên đó
hầu giúp mình ứng phó với sự sợ hãi có thể xảy
ra trước "định mệnh" của mình. Thiết nghĩ quan
điểm này có thể được tóm lược qua hai câu thơ
Đường sau đây của nhà thơ Vương Duy (701-761):
"Đi đến chốn tận cùng nơi con suối đã
cạn,
Ngồi xuống và chờ những áng mây bay
lên."
(trích
dẫn của François Cheng trong quyển: Entre
Source et Nuage, 1990, Spiritualtés
Vivantes, Albin Michel. Vì không tìm được bài
thơ gốc của Vương Duy nên tạm dịch hai câu thơ
này của ông trong quyển sách trên đây do
François Cheng đã dịch sang tiếng Pháp)
Thế nhưng một người biết tu tập sẽ vượt
xa hơn cách nhìn mở rộng trên đây, có nghĩa là
họ không tự an ủi trước "định mệnh", cũng không
xem cái chết là một sự "bất lực", mà luôn tìm
cách phát huy sức mạnh, lòng từ bi và trí tuệ
của mình hầu giúp mình không những vượt qua
những giây phút khó khăn nhất của đời mình một
cách thanh thản mà còn tìm cho mình một sự giải
thoát khỏi tất cả mọi vướng mắc và khổ đau một
cách thiết thực nhất, nói một cách khác là đạt
được sự giác ngộ ngay trong kiếp sống này. Và
đấy cũng là chủ trương của cả ba tông phái là
Phật Giáo Theravada, Kim Cương Thừa và Thiền Học
như đã được trình bày trên đây.
Nếu hình dung cái chết như là một bức
tường chận đứng sự sống, thì con người cũng chỉ
còn biết úp mặt vào đấy để tưởng tượng ra môt
thế giới khác ở phía bên kia bức tường, một thế
giới vĩnh hằng, bất diệt, tràn đầy hạnh phúc và
an vui, hoặc nói một cách bình dân hơn là một
thế giới đầy hoa thơm cỏ lạ, tất cả mọi thứ đều
làm bằng châu báu ngọc ngà. Đối với Phật Giáo sự
sống và cái chết nằm ở bên này bức tường, kể cả
thế giới luân hồi và niết-bàn. Nếu chúng ta sống
và chết theo cách của một vị A-la-hán có nghĩa
là sẽ bỏ lại phần thân xác dư thừa này lần cuối,
hay chết theo cách của một người luyện tập
du-già là hòa nhập vĩnh viễn với ánh sáng trong
suốt của cái chết, hay là chết một cách thật
giản dị và hồn nhiên như vị thiền sư Suzuki
Shosan "tại nơi này và ở thời điểm này"
thì tất cả cũng đều chết ở phía bên này của bức
tường.
Ngay cả đối với những người tu tập theo
Tịnh Độ thì Tây Phương Cực Lạc cũng ở bên này
của bức tường. Việc tu tập của họ không phải là
một sự chờ đợi, mà đúng hơn phải tích cực, có
nghĩa là phải thệ nguyện cứu độ chúng sinh sau
khi thành Phật, tương tự như trước đây đã từng
có một vị Bồ-tát thệ nguyện như thế và đã trở
thành Đức Phật A-di-đà. Việc tu tập còn gọi là
"bước vào Con Đường" hay "hoà nhập vào dòng
chảy" cần có một quyết tâm gồm hai mặt: một mặt
hướng lòng Từ Bi của mình ra bên ngoài nhằm mang
lại cho mình một sức mạnh cần thiết, một mặt
hướng vào bên trong để phát huy Trí Tuệ hầu giúp
mình biến cải lấy chính mình.
Tất cả những gì ở bên kia bức tường đều
là những thứ tưởng tượng mang lại sự sợ hãi, lo
âu
hoặc là
những
hy vọng hão huyền. Dù đấy là hy vọng hay sợ hãi
thì chúng cũng đều khuấy động tâm thức mình và
đày đọa mình mà thôi. Tu tập Phật Giáo là cách
xô sập bức tường ngăn cách đó để nhìn thấy phía
bên kia chỉ là một sự trống không mênh mông. Và
cũng thật lạ, nếu nhìn thật kỹ thì chúng ta cũng
lại sẽ nhận thấy sự trống không ấy đồng thời
cũng ở phía bên này bức tường, bởi vì nó đang
nằm bên trong tâm thức của mỗi con người chúng
ta. Bức tường chẳng qua cũng chỉ là một thứ ảo
giác, tạo ra bởi vô minh nhằm ngăn cách chúng ta
với hiện thực.
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà
sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình.
Mỗi hành động (karma) đều tạo ra một hậu
quả. Dù suy nghĩ bất cứ điều gì, làm bất cứ việc
gì hay thốt ra bất cứ một lời nào, thì các tư
duy, hành động và ngôn từ ấy sẽ đều lưu lại dấu
vết của chúng trong từng "đơn vị" của dòng tri
thức của chính mình. Mỗi "đơn vị" hiện ra và
mang theo những vết hằn của nghiệp đã có từ
trước, các vết hằn này sẽ tương tác với các vết
hằn khác của nghiệp đang xảy ra để tạo ra những
vết hằn mới. Những vết hằn mới lại sẽ trở thành
những nguyên nhân mới để làm phát sinh ra một
"đơn vị" mới. Do đó mỗi "đơn vị" cũng có thể xem
là một "khoảnh khắc" biểu trưng cho một sự sống
trọn vẹn, một sự sống hiện ra thật đầy đủ trong
"khoảnh khắc" ấy và cũng cùng biến mất đi với
cái chết của khoảnh khắc ấy. Nói một cách khác
là sự sống ấy tuy ngắn ngủi thế nhưng vẫn mang
một sự sinh và một cái chết, cũng nhận lãnh
nghiệp từ trước, cũng tạo ra nghiệp mới và cũng
chuyển tất cả cho một sự sống khác sinh ra trong
một "khoảnh khắc" khác.
Tóm lại nếu nhìn thật gần vào sự sống
của chính mình qua tâm thức của chính mình thì
chúng ta cũng sẽ nhận thấy rằng chúng ta đang
sống với từng "khoảnh khắc" thật ngắn của tư
duy. Mỗi tư duy sinh ra, sống và tan biến đi sau
đó. Khi ngồi yên để theo dõi dòng tư duy thì
chúng ta cũng sẽ nhận thấy dễ dàng là các tư duy
và xúc cảm của mình hiện ra và biến đi liên tục.
Mỗi tư duy khi hiển hiện sẽ luôn luôn tạo ra với
nó một "cái tôi" hay một "cái của tôi" (còn gọi
là "cái ngã"). Thật ra chỉ có những người tu tập
thành thạo mới chận đứng được sự tạo dựng ấy của
"cái tôi" hay cái "của tôi" trong từng khoảnh
khắc một mà thôi. Đối với những người bình dị
như chúng ta thì mỗi khi một "khoảnh khắc" hiện
ra thì "cái tôi" cũng theo đó mà hiện ra với nó,
khi khoảnh khắc ấy chấm dứt hay "chết đi" thì
khi đó "cái tôi" do nó tạo dựng ra cũng sẽ chết
theo với nó. Nói một cách khác là "cái tôi" của
chúng ta sống liên tục và cũng chết liên tục với
từng "khoảnh khắc" một. Đấy chính là sự vận hành
của quá trình vi mô mà chúng ta đôi khi không
nhận thấy hay không chú ý đến. Chúng ta chỉ quan
tâm đến sự sống của chúng ta xảy ra theo quá
trình vĩ mô xuyên qua "một tổng thể đa dạng và
phức tạp của cái tôi", tương tự như những hình
ảnh linh động của một cuốn phim trình chiếu trên
màn ảnh. Trong khi đó chúng ta không nhận thấy
được hình ảnh của những "cái tôi" dưới hình thức
các đơn vị thuộc quá trình vi mô luân phiên hiển
hiện và mất đi, tương tự như những tấm hình rời
rạc thay nhau xuất hiện phía sau ống kính của
máy chiếu phim.
Tất cả những cái tôi ấy dù dưới hình
thức một "tổng thể" thuộc quá trình vĩ mô hay
dưới hình thức những "đơn vị" thuộc quá trình vi
mô đều không mang một thực thể nào cả. Nếu hiểu
được như thế thì chúng ta cũng sẽ không còn
khiếp sợ cái chết nữa và sẵn sàng "buông bỏ thân
xác và tâm thức" mình không một chút hối tiếc để
quay trở về với bản chất đích thật của chính
mình. Cái bản chất đích thật ấy là gì? Chính là
dòng tri thức nguyên sinh sau khi đã loại bỏ
được tất cả các dấu vết của nghiệp. Mỗi đơn vị
hiểu biết trên dòng tri thức đó sẽ trở thành Trí
Tuệ của Phật. Đạo Nguyên có viết như sau:
Tìm về với Phật có nghĩa là tìm về
với mình,
Hầu giúp mình tìm hiểu chính mình và để
quên chính mình.
Quên chính mình là cách giúp cho ánh
sáng của vũ trụ tràn ngập tâm hồn mình,
Để cho tâm hồn tràn ngập bởi ánh sáng
của vũ trụ, chính là cách buông bỏ thân xác và tâm thức này của mình.
(Trích dẫn từ quyển Le Grand Livre de
la Sagesse, tác giả Evelyne Brière, Le
cherche Midi Éditeur, 2000, tr. 29)
Tìm về với mình có nghĩa là tìm
về với dòng tri thức nguyên sinh và tinh khiết
của mình. Tìm hiểu chính mình có nghĩa là
nhận thấy sự hiện hữu của mình không mang một
thực thể nào cả. Quên chính mình có nghĩa
là không thừa nhận sự chỉ huy của "cái tôi" đang
chi phối mình. Để cho tâm hồn tràn ngập bởi
ánh sáng của vũ trụ có nghĩa là để cho trí
tuệ xâm chiếm tâm hồn mình.
Thiết nghĩ những gì được trình bày cho
đến đây vẫn còn mang ít nhiều tính cách lý
thuyết. Vậy chúng ta cũng thử tìm hiểu xem các
tông phái và học phái khuyên chúng ta phải hành
xử như thế nào trong những khoảnh khắc cuối cùng
khi cái chết xảy đến với mình. Thật lạ là các
tông phái và học phái tuy chủ trương các phép tu
tập khác nhau thế nhưng tất cả lại đều khuyên
chúng ta phải giữ một thái giống nhau để ứng phó
với cái chết trong những giây phút cuối cùng.
Nguyên tắc chung của thái độ này là phải tạo ra
cho mình một thể dạng tâm thức gần nhất với sự
Giác Ngộ, đấy là một thể dạng tâm thức trong
sáng, an bình và ngập tràn từ bi. Thể dạng đó sẽ
in đậm dấu vết trên những đơn vị cuối cùng của
dòng tri thức thuộc sự sống hiện tại này. Những
dấu vết ấy sẽ hướng sự hình thành của sự sống kế
tiếp trong một bối cảnh thuận lợi và tốt đẹp
nhất. Có năm phương cách giúp khơi động thể dạng
tâm thức ấy trong lúc hấp hối:
1- phát lộ thật sâu xa sự tha thứ đối
với tất cả những ai đã từng gây ra đau buồn cho
mình. Tha thứ là một cách mang lại cho mình niềm
an vui. Hận thù, ác cảm, oán hờn là những hình
thức bám víu vào thế giới này, không nên chạy
theo chúng để tiếp tục phải bị vướng mắc trong
vòng luân hồi. Tha thứ là cách buông xả tốt nhất
giúp chúng ta hóa giải mọi oán hận đè nén trong
lòng mình.
2- phát lộ sự hối hận một cách thành
thật. Hối hận là một cách tinh khiết hóa tâm
thức nhằm hóa giải những hậu quả không tốt của
nghiệp mà mình đã tạo ra. Khoảnh khắc cuối cùng
cũng là điểm hội tụ và kết thúc của tất cả các
nghiệp do chính mình đã tạo ra trong suốt cuộc
sống này. Vì thế đấy cũng là thời điểm tốt nhất
để khơi động sự hối hận trong lòng mình về những
gì mà mình đã gây ra tổn thương cho người khác
và cho tất cả chúng sinh, dù là vô tình hay cố
ý. Hối hận là một cách tự tha thứ cho mình và
tinh khiết hóa dòng tri thức của mình.
3- phát lộ lòng từ bi vô biên đối với
tất cả chúng sinh thiếu may mắn hơn mình. Vì
không hiểu được Đạo Pháp là gì nên các chúng
sinh ấy phải chết trong lo âu và sợ hãi. Vậy hãy
mở rộng con tim của mình để đón nhận về phần
mình tất cả những đau thương có thể đang đày đọa
các chúng sinh ấy và cầu mong cho tất cả sẽ tìm
thấy một cái chết thật thanh thản và an bình như
chính cái chết của mình đang xảy ra trong lúc
này. Những xót thương đó sẽ chuyển thành một sức
mạnh vô biên in đậm trên dòng tri thức của mình
giúp mình tái sinh trong những bối cảnh thuận
lợi và tốt đẹp nhất trong tương lai.
4- phát lộ lòng yêu quý vô biên đối với
Đức Phật. Hãy nhìn vào Đức Phật như một tấm
gương để noi theo. Ngài chính là Vị Thầy đích
thật và cuối cùng của đời mình. Đức Phật thuyết
giảng suốt bốn mươi lăm năm cho đến ngày kiệt
lực và phải nằm xuống đất giữa hai gốc cây sa-la
trong một khu rừng. Sau khi dặn dò các đệ tử lần
cuối thì Ngài quay trở về với chính mình, với
tất cả sự trong sáng, đơn sơ và giản dị của tám
mươi năm trong kiếp nhân sinh cuối cùng của
chính Ngài. Đấy là những gì mà chúng ta phải bắt
chước Vị Thầy của mình. Chúng ta nên nghĩ rằng
trong kiếp sống vừa qua mình cũng đã làm những
gì cần phải làm, cho mình và cho cả người khác,
và trong khoảnh khắc cuối cùng này trước khi tâm
thức tan biến, chúng ta không còn gì để phải ra
sức nữa, không còn gì để hối tiếc hay yêu thương
nữa, không còn gì để chờ đợi hay để phải quay
nhìn trở lại cả.
5- phát lộ ước vọng đạt được sự giải
thoát tối thượng. Hãy hướng tâm thức mình vào
một bầu không gian vô biên, vắng lặng và trống
không biểu trưng cho một thể dạng Giác Ngộ.
Trong bầu không gian mênh mông đó chẳng còn lại
gì cả: của cải chỉ là phù du và thật ra thì cũng
chẳng phải là của mình, hình ảnh của những người
thân yêu chung quanh cũng mờ nhạt đi và mất hút
trong bầu không gian đang tỏa rộng đó. Những
biến cố dồn dập của một kiếp người dù có hiện
lên trở lại với mình thì đấy cũng chẳng khác gì
như những ảo giác chập chờn trong một giấc mơ
vào đêm hôm qua. "Cái tôi" sẽ trở nên thật nhỏ
bé và vô nghĩa, nó sẽ mờ dần và tan biến đi
trong bầu không gian trống không và vô tận đó.
Sau hết cũng xin mạn phép lập lại dưới
đây câu phát biểu của Đức Phật đã được trích dẫn
dưới tựa đề của bài viết:
"Bên trong thân xác bằng một sải tay mang đầy
giác cảm này, Như Lai xem đấy cũng chẳng khác
gì như toàn thế giới, sự hình thành của thế
giới và cả con đường đưa đến sự chấm dứt của thế
giới". (Kinh Tăng Nhất A Hàm,
Anguttara Nikaya, ấn bản Colombo, 1929, tr.
218).
Walpola Rahula trong một quyển sách nhỏ
nhưng rất nổi tiếng của ông là
"L'Enseignement du Bouddha d'après les textes
les plus anciens" (Giáo huấn của Đức Phật
dựa theo các kinh sách xưa nhất, Ed. du
Seuil, 1978, tr. 66-67) cũng có trích dẫn câu
này và theo ông thì có nghĩa là Bốn Sự Thật Cao
Quý đều nằm bên trong năm thành phần cấu hợp (ngũ
uẩn) tạo ra thân xác chúng ta. Nếu thay các chữ
thế giới (loka) bằng chữ khổ
đau (dukkha) thì sẽ hiểu được ngay ý
của câu này. Thật thế thân xác cấu hợp của chúng
ta cũng chỉ là khổ đau, nguyên nhân sinh ra khổ
đau và [may mắn thay] cũng chính là một phương
tiện giúp chúng ta loại bỏ khổ đau.
Thế nhưng chúng ta cũng có thể thay chữ
loka bằng chữ samsara và câu trên
đây sẽ trở thành như sau: "Bên trong
thân xác bằng một sải tay mang đầy giác cảm này,
Như Lai xem đấy cũng chẳng khác gì như cả một
thế giới luân hồi, sự hình thành của thế giới
luân hồi và con đường đưa đến sự chấm dứt của thế
giới ấy"
Thân xác gồm năm thứ cấu hợp của chúng
ta là cả một thế giới cất chứa toàn là khổ đau,
một thế giới khổ đau đang xoay vần bất tận, thế
nhưng thân xác lại cũng là một phương tiện giúp
chúng ta thoát ra khỏi thế giới ấy.
Vậy chúng ta
hãy hân hoan trả lại thân xác này cho thế giới
ấy.
Hoang Phong


|