Thầy Ngô Văn Giảng vừa tạ thế tại Úc,
hưởng thọ 89 tuổi. Tin buồn loan ra, tôi bâng
khuâng nhớ về 54 năm trước, năm 1959, Thầy là
giáo sư âm nhạc của chúng tôi tại trường Hàm
Nghi - Huế. Thuở ấy, Thầy mới ngoài 30, dáng
điệu phương cường, đi chiếc xe gắn máy hiệu
Zunndapp của Đức nổ bịch bịch nổi bật cả sân
trường.
cố nhạc sĩ Văn Giảng - Thông Đạt
Tôi còn nhớ ngày đầu tiên khi Thầy
bước vào lớp đệ Thất B1 của chúng tôi, trò
Trương Phước Ni bắt tay làm loa đứng dậy chào
Thầy bằng câu: “Đường trường xa muôn vó câu bay
dập dồn…” Thầy cười rất tươi cho cả lớp, nhưng
cũng lâp nghiêm nhìn chú học trò rắn mắt ở dãy
bàn cuối lớp. Đây là câu mở đầu của hùng ca Lục
Quân Việt Nam, một trong những bài ca mang tiết
điệu hành khúc, hùng tráng nổi tiếng nhất của
Thầy – nhạc sĩ Văn Giảng – như Thúc Quân, Đêm Mê
Linh, Qua Đèo, Nhảy Lửa…
Thầy đã là một nhạc sĩ thành danh,
nổi tiếng trong cả nước, trước khi trở thành
giáo sư âm nhạc của trường Hàm Nghi. Nhưng nhiều
người chỉ biết Văn Giảng qua những bản hùng ca.
Bởi thế, vào mấy năm đầu thập niên 1950, khi bản
nhạc để đời của Thầy, Ai Về Sông Tương, trở
thành một bản tình ca thời danh với tên tác giả
là Thông Đạt thì ít ai để ý rằng, trong góc
khuất của những tâm hồn nghệ sĩ thì bên cạnh
nhịp đời hào hùng vươn tới vẫn có tiếng thở dài
chan chứa điệu buồn.
Hai niên khóa học với nhạc sĩ Văn
Giảng, tôi thích học nhạc thì ít mà mê Thầy kể
chuyện thì nhiều. Cứ mỗi cuối giờ, Thầy có một
câu chuyện kể về các giai thoại âm nhạc. Thích
nhất là những chuyện thâm cung bí sử của những
nghệ sĩ âm nhạc tài hoa. Chẳng hạn như bản nhạc Ngày
Về của Hoàng Giác, Thầy xướng âm lên và phân
tích cho chúng tôi nghe rằng, tiết điệu của bài
ca có một nhịp điệu trãi dài xa vắng và âm hưởng
thương nhớ quặn lòng “rất Tây Phương” vì đây là
bản nhạc do một người lính Đức trong đội quân
viễn chinh của Pháp viết lên giai điệu. Nhạc sĩ
Hoàng Giác chỉ soạn ca từ… Hoặc như bản nhạcTrầm
Hương Đốt của Bửu Bác, xuất xứ là bài Hải Triều
Âm. Đây là một trong những bản nhạc nghi lễ đầu
tiên dùng trong sinh hoạt chùa viện đã bứt phá
từ giai điệu ngũ âm “Đăng Đàn Cung” để tiến lên
bát cung của phương Tây. Bởi vậy mà ảnh hưởng âm
điệu “thánh ca nhà thờ” thể hiện rất rõ trong
giai điệu của bản nhạc.
Nhưng thú vị hơn cả là lịch sử bản
nhạc Ai Về Sông Tương. Thầy kể rằng, thời trai
trẻ, Thầy ở Thành Nội và yêu một cô gái ở Kim
Long – Kim Long có gái mỹ miều; trẫm thương,
trẫm nhớ, trẫm liều trẫm đi… mà – nhưng duyên
không thành vì gia đình nho phong của cô bé
không có cái nhìn thiện cảm với đời nghệ sĩ,
nhất là nghệ sĩ trong ngành âm nhạc, xướng ca…
Thế là chia tay và cô bé đi lấy chồng…
Rồi một hôm, Thầy vào rạp Xi-nê Tân
Tân, gần cầu Trường Tiền bên bờ Bắc sông Hương
để coi phim “Bé Nhà Trời” (Les
enfants du paradis). Ngay trước mắt
Thầy, ờ hàng ghế trước có một cô Bé tóc dài. Tuy
nhìn không rõ mặt nhưng từ dáng dấp đến hương
tóc thoang thoảng mùi hoa Ngâu của người thiếu
nữ đã làm sống lại hình ảnh người tình Kim Long.
Thầy bị xúc động đến nỗi không thể còn ngồi lại
lâu hơn trong rạp chiếu bóng để xem phim, nên
vội vàng ra khỏi rạp. Thầy cỡi chiếc xe đạp Dura
Mercier của Thầy và đạp xe dọc theo bờ sông
Hương để vô cửa Thượng Tứ vào nhà ở Thành Nội.
Thoáng chốc dòng sông Hương hiện ra như là dòng
sông Tương chia biệt trong truyện tình cổ thư
Trung Quốc. Thầy vừa đến nhà là dựng ngay chiếc
xe đạp ngoài hiên, đi nhanh vào nhà và vội vã
sáng tác bản nhạc bằng tất cả sự hoài niệm và
háo hức nghệ thuật với sự chấn động dị thường
như phép lạ hóa thân. Bản nhạc Ai Về Sông Tương được
viết ra trong vòng mười lăm phút!
Sau đó, Thầy bí mật ký tên là Thông
Đạt và chép một bản gởi ra đài phát thanh toàn
quốc là đài Pháp Á ở Hà Nội. Ngay sau đó, Mạnh
Phát vừa là nhạc sĩ vừa là ca sĩ đã hát bản Ai
Về Sông Tương lần đầu trên đài Pháp Á Hà Nội.
Bản nhạc sáng tác năm 1949 đã nhanh chóng nổi
tiếng trong toàn cả nước. Đã trải qua hơn 60
năm, những mối tình đã cũ, những hẹn hò thuở
răng trắng tóc xanh đã thành “răng long đầu bạc”.
Nhưng Ai Về Sông Tương vẫn mới như thời gian là
nước chảy qua cầu, vẫn còn là tiếng lòng tình tự
của những đôi tình nhân ước hẹn không thành. Bản
nhạc với một giai điệu thướt tha lãng mạn, lời
lẽ đậm nét hoài niệm trữ tình làm dậy lên nguồn
tình cảm sướt mướt, mượt mà mà rất “sang” ấy như
một dòng suối tươi tắn, mát dịu trong một hoàn
cảnh tạm hồi sinh sau cuộc chiến:
Ai có
về bên bến sông Tương
Nhắn
người duyên dáng tôi thương
Bao
ngày ôm mối tơ vương
Tháng
với ngày mơ nhuốm đau thương
Tâm
hồn mơ bóng em luôn
Mong
vài lời em ngập hương...
Cũng
theo lời Thầy vui vui kể chuyện rằng, Mạnh Phát,
là bạn thân của Văn Giảng, đã nhờ Văn Giảng đến
nhà ấn hành tân nhạc gần như độc nhất thời bấy
giờ là nhà xuất bản Tinh Hoa ở Huế do ông Tăng
Duyệt làm giám Đốc để hỏi cho ra Thông Đạt là ai
ngay sau khi bản nhạc phát trên đài Pháp Á.
Nhưng mãi đến ba tháng sau thì tông tích của
Thông Đạt mới được tiết lộ. “Mạnh Phát vô Huế
chơi khi biết tui là Thông Đạt, hắn đấm lưng tui
thùi thụi như rứa thì thôi!” Thầy Văn Giảng nói.
Một
lần trong giờ học nhạc, trò Nguyễn Xuân Huế là
tay đọc tiểu thuyết đệ nhất trong lớp hỏi Thầy:
“Thưa Thầy, tại sao mình có sông Hương, mình
cũng có Hương giang đầu, Hương giang vỹ mà Thầy
lại phải vay mượn sông Tương của Tàu như rứa
ạ?”. Thầy trả lời, đại khái là tại sông Hương
chưa có chuyện tình nào nổi tiếng trong tình sử
như sông Tương. Tương Giang là một con sông ở Trung
Hoa, bắt nguồn từ núi Duyên Hải, chảy qua Hồ Nam dài
hơn hai ngàn dặm. Còn ý “ai về sông Tương” của
Thầy trong bản nhạc là bắt nguồn từ cảm hứng của
bốn câu thơ tình sử trích từ khúc Trường Tương
Tư của nàngLương Ý, đời Hậu Chu. Nàng và Lý Sinh
yêu nhau say đắm nhưng phải chia tay. Nàng làm
thơ mong gửi gấm nguồn tâm sự đau khổ khi phải
xa cách người yêu:
Quân
tại Tương Giang đầu
Thiếp
tại Tương Giang vĩ
Tương
tư bất tương kiến
Đồng ẩm
Tương Giang thủy
**
(Chàng ở đầu
sông Tương
Thiếp ở cuối
sông Tương
Nhớ nhau
không thấy mặt
Cùng
uống nước sông Tương)
Trong
những ngày phong trào đấu tranh Phật giáo xẩy ra
tại Huế năm 1963, có lần tôi gặp Thầy trên con
đò Thừa Phủ, Thầy nói là lên chùa Từ Đàm nhưng
đường sá trở ngại phải đi đò sang sông rồi đi bộ
lên chùa. Khi đò ra giữa sông tôi nghịch ngợm
hỏi Thầy: “Thưa Thầy, đã có ai về sông Tương
chưa ạ?” Thầy cũng cười đáp lại: “Đối với tôi
thì sông Tương là sông Hương. Tôi chỉ mong cuối
đời về lại con sông này…” Ngày đó và bây giờ,
tôi tự hiểu khái niệm “cuối đời về lại” của Thầy
là linh khí của con người luân lưu sống giữa hồn
thiêng sông núi. Nếu vậy, thì hôm nay Thầy đã về
sông Tương.
Đó là
lần cuối tôi gặp Thầy Văn Giảng. Nhưng sau đó
không lâu, tôi lại được “gặp” Thầy qua một tác
phẩm mang tính chất đạo ca của khách hành hương
mà tôi đã gặp trên chuyến đò Thừa Phủ: Nhạc phẩm Từ
Đàm Quê Hương Tôi. Lần nầy Thầy để tên tác giả
là Nguyên Thông. Bản nhạc tuy được liệt vào thể
loại nhạc tôn giáo nhưng cả giai điệu lẫn ca từ
đã vượt ra ngoài khuôn khổ giới hạn của văn hóa
chùa viện. Cảm quan nghệ thuật sáng tạo của
người nhạc sĩ tài hoa đã dung hóa được tính chất
tráng liệt của hùng ca như Thúc Quân, Lục Quân
Việt Nam, làn điệu mượt mà lãng mạn của tình ca
như Ai Về Sông Tương, Ai Đưa Con Sáo Sang Sông và
biểu tượng thiêng liêng, siêu thoát của đạo ca
như Mừng Đản Sanh, Ca Tỳ La Vệ, Từ Đàm Quê Hương
Tôi:
Quê
hương tôi miền Trung
Sớm
hôm chuông chùa nhẹ rung
Tiếng
muôn đời hồn tổ tiên kiêu hùng
Ôi uy
nghiêm bóng chùa Từ Đàm
Nơi
yêu thương phát nguồn đạo vàng
Qua
bao giông tố chùa Từ Đàm tôi vẫn còn…
Những
nhạc sĩ tài hoa của nền tân cổ nhạc Việt Nam
thuộc thế hệ Chiến Tranh Việt Nam lần lượt ra đi.
Nghệ thuật và người nghệ sĩ đến với đời và ra đi
không bằng tấm vé một chiều. Tác phẩm để lại cho
thế hệ kế thừa sẽ làm cho con đường sáng tạo
nghệ thuật rộn ràng và phong quang hơn. Với hơn
50 tác phẩm âm nhạc phong phú giá trị nghệ thuật
để lại cho đời, nhạc sĩ Văn Giảng đã cống hiến
phần tinh hoa lớn nhất của đời mình vì lợi lạc
của tha nhân mà các nhà tu Phật giáo thường gọi
là “công hạnh viên thành”. Thế hệ đàn em, học
trò như chúng tôi có điểm tựa tinh thần đáng tự
hào và trân trọng trong giờ phút tưởng niệm và
bái biệt Thầy.