Tiểu sử
Cố Hòa Thượng
THÍCH TỊNH NHÃN
Môn Đồ Pháp Quyến


Cố Hòa Thượng THÍCH TỊNH NHÃN (1948 -
2013)
I. THÂN THẾ:
Hòa thượng thế danh là Trương Minh Sơn, pháp
danh Đồng Thanh, tự Tịnh Nhãn, hiệu Trí Đức,
thuộc dòng phái Thiền Lâm Tế đời thứ 43. Hòa
thượng sinh ngày 05 tháng 12 năm 1948, trong gia
đình thuần tín Tam Bảo tại thôn Nhơn Nghĩa Đông,
xã Nhơn Phúc, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định.
Thân phụ là cụ ông Trương Tri pháp danh Như Ngộ,
thân mẫu là cụ bà Võ Thị Nữ pháp danh Như Hiền,
thọ Bồ tát giới pháp tự Diệu Tướng. Ông bà là
người phúc đức nhân hậu, tín ngưỡng Phật giáo.
Gia đình Hòa thượng có ba anh em, Hòa thượng là
con trai thứ 2.
II. XUẤT GIA HỌC
ĐẠO:
Vốn có túc duyên với Phật pháp, nên năm lên 9
tuổi, Hòa thượng được phép song thân, xuất gia
đầu sư với Hòa thượng Bửu Tịnh, Viện chủ chùa
Giác Hoàng, Bình Định.
Với bẩm chất
thông minh mẫn tuệ, được Hòa thượng Bổn sư
thương mến cho theo học trường Trung học Bồ Đề
Nguyên Thiều, Tuy Phước và sau đó theo học tại
trường Trung học Bán công An Nhơn. Hòa thượng đã
tốt nghiệp văn bằng Tú Tài I.
Năm 1968, lúc
tròn 20 tuổi, Ngài được Hòa thượng Bổn sư cho
phép thọ Tam Đàn Cụ Túc tại Đại Giới Đàn do Ban
Đại Diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
thời bấy giờ tổ chức tại Tổ đình Long Khánh,
Tp.Quy Nhơn. Trưởng lão Hòa thượng Thích Phúc hộ
làm đường đầu. Hòa thượng Tâm Tịnh – Huệ Chiếu
trưởng môn phái Tổ đình Long Khánh làm hóa chủ,
Ngài được Hòa thượng Bổn sư ban Pháp hiệu là Trí
Đức.
Sau khi hoàn
thành Bán Phần Tú Tài, Hòa thượng xin phép Bổn
sư vào Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh) để
tiếp tục hoàn tất học vị Tú Tài. Những năm kế
tiếp sau đó, tại chùa Giác Hoàng, Tăng chúng
cũng thưa thớt, không đủ người lo công việc của
chùa, lại thêm Hòa thượng Bổn sư hay đau bệnh,
nên Bổn sư đã gọi Ngài về để thay thế lo Phật sự
tại Bổn tự.
III. HOẰNG PHÁP
ĐỘ SANH:
Từ năm 1969 đến
1974, Hòa thượng đặt nặng vấn đề giáo dục, tham
gia giảng dạy giáo lý Phật Đà và văn hóa tại
trường Trung Tiểu Học Bồ Đề Nguyên Thiều, Diêu
Trì, Tuy Phước. Đồng thời làm Tổng Giám thị tại
bản trường.
Ngày
mồng 3 tháng Giêng nhăm Nhâm Tý (1972), Hòa
thượng Bổn sư suy cử ngôi vị trú trì chùa Giác
Hoàng, tiếp nối Tổ nghiệp từ Bổn sư truyền lại,
chức vụ trú trì là một trọng trách to lớn, nhưng
vâng lời Hòa thượng Bổn sư, Ngài đã tiếp nhận và
cũng chu toàn các Phật sự tại Bổn tự mà Hòa
thượng Bổn sư giao phó.
Năm 1992,
Ban Trị Sự Phật giáo tỉnh Bình Định, thành lập
trường Cơ bản Phật học Bình Định (tiền thân
trường Trung cấp Phật học Bình Định), Ngài được
Giáo hội mời đảm trách Chánh Thư ký kiêm Chánh
văn phòng, đồng thời là Giáo thọ sư của bản
trường từ khóa I đến khóa VI.
Nhiệm
kỳ 1992 – 1997, Ngài được Đại hội Phật giáo tỉnh
Bình Định suy cử chức vụ Trưởng Ban hướng dẫn
Phật tử của Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Bình Định.
Năm
1994, Ngài được cung thỉnh Đệ Tứ Tôn Chứng A Xà
Lê Đại Giới Đàn Phước Huệ, do Ban Trị Sự Phật
giáo tỉnh Bình Định tổ chức tại Tổ đình Long
Khánh, Tp. Quy Nhơn.
Nhiệm
kỳ 1997 – 2002, Ngài được Đại Hội Đại Biểu Phật
giáo toàn quốc tấn phong lên ngôi vị Thượng tọa.
Đồng thời được Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Bình Định
suy cử vào Ban Thường Trực BTS với chức vụ
Trưởng Ban Hoằng Pháp.
Năm
2000 và 2004, Ngài được thỉnh cử vào Ban Kiến
Đàn tại Đại Giới Đàn Chánh Nhơn và Huệ Chiếu đều
được tổ chức tại Tổ đình Long Khánh, Tp. Quy
nhơn.
Nhiệm
kỳ 2002 – 2007, Ngài được suy cử Chánh thư ký và
Trưởng Ban Hoằng Pháp Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh
Bình Định và tiếp theo là Nhiệm kỳ 2007 – 2012,
Ngài được Đại Hội Đại Biểu Phật giáo tỉnh Bình
Định tín nhiệm giữ chức Trưởng Ban Hoằng Pháp
của Ban Trị Sự tỉnh nhà. Trong trách nhiệm
Trưởng Ban Hoằng Pháp, năm 2008, Ngài đã cùng
Chư tôn Đức Tăng Ni của Ban Hoằng Pháp tiến hành
mở các lớp giáo lý cơ bản cho Thiện tín Phật tử
tỉnh nhà tại các địa điểm:
- Tổ đình Long
Khánh , Tp.Quy Nhơn, số lượng gần cả ngàn người.
- Chùa Giác Hoàng,
thị trấn Bình Định, số lượng hàng trăm người.
- Chùa Hoằng Hóa,
thị trấn Tam Quan, số lượng hàng trăm người.
Năm
2009, tại Đại Giới Đàn Giác Tánh do Ban Trị Sự
tổ chức tại Tổ đình Long Khánh, Tp.Quy Nhơn. Ban
Kiến Đàn cung thỉnh Ngài làm Chánh chủ khảo của
Giới Đàn nầy.
Năm
2007 – 2010, Ngài được Ban Trị Sự tỉnh nhà cung
thỉnh giữ chức vụ Hiệu trưởng trường TCPH Bình
Định.
Tại Đại
Hội Đại Biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ VII
Nhiệm kỳ 2012 – 2017, Ngài được tấn phong lên
hàng giáo phẩm Hòa thượng. Và tại Đại hội Phật
giáo tỉnh Bình Định lần thứ V Nhiệm kỳ 2012 –
2017 Ngài được suy cử làm Trưởng Ban Giáo Dục
Tăng Ni Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Bình Định.
Suốt
thời gian dài, Ngài tham gia công tác Phật sự và
cọng hành cùng Chư tôn Thiền đức trong Ban Trị
Sự, Ngài luôn thể hiện tinh thần trách nhiệm và
vô úy, đồng thời luôn hoàn thành trách nhiệm mà
Giáo hội tỉnh nhà giao phó, tuy trong quá trình
thực hiện không tránh khỏi các chướng duyên,
nghịch cảnh nhưng đều vượt qua tất cả trong ý
niệm trưởng dưỡng đạo tâm, trang nghiêm giáo hội,
lợi lạc quần sanh.
IV. CÔNG CUỘC
TRÙNG TU:
Đối với Ngôi Phạm
vũ Giác Hoàng, từ khi Ngài nhận trách nhiệm trú
trì, tiếp nối Tổ nghiệp, truyền trì mạng mạch
Phật pháp, Ngài luôn canh cánh bên lòng, nuôi
dưỡng hoài bão kiến thiết xây dựng các hạng mục
của chùa Giác Hoàng. Hoài bão ấy Ngài đã thực
hiện như:
- Năm 2005, xây
dựng Tăng xá làm nơi cư trú cho Chư Tăng Bổn tự.
- Năm 2008 –
2010, Ngài xây dựng mới toàn bộ Tổ đường khang
trang, làm nơi phụng thờ Lịch Đại Tổ Sư, và Chư
hương Linh quá cố của Bổn tự. Xây dựng một Trai
Đường rộng thoáng có nơi sử dụng cho Chư Tăng và
Phật tử vào các ngày kỵ giỗ của chùa.
- Năm 2011, xây
dựng đông đường để có nơi mở khóa tu Bát Quan
Trai và Chánh niệm cho Phật tử hàng tháng.
- Từ năm 2012 -
2015, Ngài dự kiến hoàn thành các hạng mục còn
dang dở: Nới rộng thêm Đông Đường, xây dựng nhà
Trù, tháp Chuông. Đồng thời, dự kiến tương lai
sẽ xây dựng một Đại Giảng Đường làm nơi tu tập
và sinh hoạt cho Chư Tăng và Thiện tín Phật tử
tại địa phương.
- Năm 2015,
ngôi chùa Giác Hoàng được tròn 100 năm tuổi,
Ngài định tổ chức Lễ Kỷ Niệm Long trọng để ghi
dấu vào trang lịch sử Phật giáo các tự viện tỉnh
nhà.
- Năm 2016, Ngài
dự kiến Đại Trùng Tu công trình cuối cùng đó là
ngôi Đại Hùng Bảo Điện cho thật nghiêm trang.
Sở dĩ, Ngài chưa
vội trùng tu ngôi Đại Hùng Bảo Điện là để Kỷ
niệm cho ngày Tưởng niệm trăm năm tuổi ngôi cổ
Giác Hoàng.
V. NHỮNG NGÀY
CUỐI CÙNG:
Mặc dù công tác
xây dựng các công trình của Bổn tự còn bề bộn,
nhưng Ngài phát nguyện châu du thuyết pháp, đem
giáo lý chứng ngộ của Đức Thế Tôn trao truyền
cho mọi người được thấm nhuần nguồn tuệ giác
thậm thâm ấy, mục đích làm cho tất cả mọi người
hiểu và thực hành tu tập giáo lý vô thượng để
chuyển hóa thân và tâm được an lạc, hạnh phúc.
Ngài không những chỉ thuyết pháp cho Phật tử
trong nước mà Ngài còn chia sẻ giáo lý cho các
Phật tử tại các nước Mỹ, Đức, Úc châu…
Sáng ngày 29
tháng 4 năm 2013, Ngài và Chư tôn đức Ban Trị Sự
Phật giáo tỉnh nhà tham dự Lễ tưởng niệm và Cung
tống Kim quan trưởng lão Hòa thượng Thích Từ
Nhơn, Thành viên Hội Đồng Chứng Minh, Phó chủ
tịch Thường Trực Hội Đồng Trị Sự GHPGVN trà tỳ
tại lò thiêu Bình Hưng Hòa. Chiều cùng ngày,
Ngài và Chư tôn đức Phật giáo tỉnh nhà về lại
Bình Định trên chuyến bay Vietnam Airline, Ngài
vẫn khỏe mạnh, minh mẫn, cười nói vui vẻ, không
có chút biểu hiện đau ốm.
Than ôi! Vô
thường sanh già bệnh chết không hẹn một ai cả,
bóng quang âm thấp thoáng, thân ảo mộng sanh
sanh diệt diệt, trải qua trên 60 năm sống giữa
cuộc đời, hòa đồng nhân thế. Nhân duyên quả mãn,
Hòa thượng đã an nhiên thâu thần thị tịch vào
lúc 23h30 ngày 20 tháng 3 năm quý tỵ (tức ngày
29/4/2013) tại chùa Giác Hoàng, phường Bình
Định, thị xã An Nhơn, thọ thế 66 năm, Hạ Lạp 46
năm.
Cả cuộc đời của
Hòa thượng thể hiện nếp sống tam thường bất túc,
giản dị, khiêm tốn và nhã nhặn với tha nhân. Hòa
thượng luôn thương yêu đồ chúng và hết lòng
phụng sự Tam Bảo, báo Phật ân đức, tiếp dẫn hậu
lai, không từ nan một Phật sự nào và luôn hoan
hỷ trong mọi hoàn cảnh. Hòa thượng thường sách
tấn đồ chúng tu tập, mang nặng ưu tư về tiền đồ
của Phật pháp, cho nên Hòa thượng đã đem pháp âm
nhiệm mầu truyền bá khắp nơi nơi, từ thành thị
đến nông thôn, từ Cao nguyên đến Đồng bằng,
không những trong nước mà ra tận nước ngoài. Hòa
thượng luôn luôn khuyến hóa mọi người nên tinh
tấn dõng mãnh trên con đường tu tập để thoát ly
sanh tử luân hồi. Hòa thượng xứng đáng là bậc
Cao Tăng xuất trần, thượng cầu Phật đạo, hạ hóa
chúng sanh, Tòng Lâm mô phạm. cuộc đời của Ngài
đã cống hiến cho đạo pháp, sơn môn đồ chúng,
pháp hữu tình gần nưã thế kỷ”
“Đạo nghiệp Tôn
sư in góc biển.
Bóng vang Hoàng
hạc khuất chân mây”.
Đạo phong của
Ngài, pháp âm của Ngài vẫn lưu mãi với thời gian.
Sự ra đi của Ngài vào cõi Niết Bàn Vô Dư đã để
lại bao nỗi niềm tiếc thương vô hạn đối với Tử
đệ, Sơn môn Pháp phái, Chư tôn Đức Tăng Ni và
Thiện tín Phật tử gần xa.
NAM MÔ LÂM TẾ
CHÁNH TÔN TỨ THẬP TAM THẾ Giác Hoàng ĐƯỜNG
THƯỢNG Húy Thượng ĐỒNG Hạ THANH, Tự TỊNH NHÃN,
Hiệu TRÍ ĐỨC HÒA THƯỢNG GIÁC LINH TÂN VIÊN TỊCH
thùy từ chứng giám


|