QUAN ÂM HUYỀN NGHĨA
(quyển thượng)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 34 (Bản
nầy được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch (Trung
Quốc) và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa
Jojoji (Tăng Thượngtự) Tokyo, Nhật Bản).
Thứ tự kinh văn số 1726
Đời Tùy, Thiên Thai Trí Giả Đại Sư giảng và
môn nhơn Quán Đảnh ghi lại (bằng chữ Hán)
Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng Chùa Viên
Giác Hannover Đức Quốc dịch từ chữ Hán sáng
tiếng Việt nhân mùa An Cư Kiết Hạ năm 2013; Phật
lịch 2557 tại thư phòng chùa Viên Giác. Bắt đầu
dịch ngày 20 tháng 6 năm 2013.
Phàm là pháp giới thì viên dung; tượng chẳng
phải là tượng; chơn như thanh tịnh; hóa không
chỗ hóa. Tuy rằng (hình)tượng chẳng phải chỗ
tựơng; không có chỗ thì cũng chẳng có tượng.
Hóa(thay đổi)chẳng phải chỗ hóa; tuy không chỗ,
mà lại chẳng hóa. Cho nên chẳng tại; chẳng phải
chẳng tại; hóa thân ứng hiện vào 9 đường. Nơi đó
chẳng hòan tòan yên; chỉ nhập vào bất nhị. Đây
là dùng ba nghiệp để cầu thỉnh, rộng thóat bến
bờ khổ sở. Tứ Hoằng Thệ Nguyện làm cho ân triêm
lợi lạc. Cho nên thế giới Ta Bà nhận tên là Vô
Úy. Đức Phật Bảo Tạng y nơi mắt thần của Đức
Quan Âm, là chủng tánh giác ngộ để
thành(tựu)hiệu là Chánh Pháp Minh. Kế tiếp sẽ
được bổ xứ, xưng là Phổ Quang Công Đức. Bổn Tích
nầy, nếu là như vậy thì cũng có thể thử xem để
rõ. Phương tiện tùy duyên, cứ tuyển ra một tên
như vậy. Nay nói về Đức Quan Thế Âm. Theo âm
chính thức của Tây Thổ(Ấn Độ) là A Già Bà Sô
Kiết Đệ Luân(Avalokitesvara). Đọc ra âm là Quan
Thế Âm. Hay tròn đầy, có không đầy khắp; chiếu
cùng chánh tánh; cho đến chỗ tận cùng; cho nên
gọi là Quán. Thế Âm ấy là chỗ thấy cảnh, mọi vật
đều lưu động, cách biệt chẳng đồng. Âm thanh
xướng lên vi diệu, đều làm cho thóat khỏi khổ.
Bồ Tát dùng lòng từ, một lúc đều cứu khắp. Tất
cả làm cho giải thóat; cho nên gọi là Quán Thế
Âm. Điều nầy tức là cảnh, trí cả hai đưa ra, có
thể gặp nhau ở một điểm. Kinh ấy do nghĩa nầy.
Câu văn, lý giải biểu hiện dệt nên cái tâm của
hành giả. Cho nên gọi là Kinh.
Còn Phổ Môn- Phổ nghĩa là biến ra, cửa ấy có thể
thông qua. Dùng một thật tướng khai mở 10 Phổ
Môn. Chẳng có chướng ngại; cho nên gọi là Phổ
Môn. Còn Phẩm có nghĩa là lọai. Từ tứơng của
lọai ấy; cho nên nói là Phẩm. Đại Bộ gồm có 5
chương, làm sáng tỏ nghĩa. Nay lấy phẩm ấy làm
thí dụ để giải thích điều nầy. Năm ý đó là: một
là giải thích tên; hai là xuất thể; ba là làm rõ
tông chỉ; bốn là biện bạch cách dùng; năm là
giáo tướng.
Giải thích về tên lại có hai. Một là giải thích
về Thông và hai là giải thích về Biệt. Thông ấy
là người, pháp hợp lại rõ ràng. Biệt ấy là người,
pháp mỗi mỗi đều biện giải. Vì sao lại như vậy? Nương
vào nơi lợi, độn, để nói có rộng, lược. Nay tựu
chung giải thích về Thông lại có 4. Một là nhiều
tên; hai là lần lượt; ba là giải thích; bốn là
liệu giản. Một là nhiều tên ấy có 10 nghĩa; dùng
đây để giải thích về Thông. Vì sao như vậy? Cho
đến cái lý thanh tịnh, không tên chẳng tướng,
chẳng pháp, chẳng người. Qua khỏi số lượng;
chẳng phải một, hai, ba. Mà diệu lý hư, Thông ấy
không danh tướng, ở giữa giả danh tướng để nói.
Cho nên lập nên tên mà không tên, giả xưng người,
pháp. Tuy không số lượng, lại nói về số lượng.
Cho nên Đại Luận nói: Bát Nhã là một pháp, Phật
nói đủ lọai tên. Tùy theo chúng sanh mà vì đó
lập nên chữ khác. Nay nói ở trong nầy, lược dùng
10 nghĩa để giải thích ý nghĩa theo Thông.
Mười nghĩa ấy là: một - người, pháp; hai- từ bi;
ba- phước đức; bốn- chơn ứng; năm- lạc thù; sáu-
minh hiển; bảy- quyền thật; tám- bổn tích; chín-
duyên liễu; mười- trí đọan.
Phần thứ hai lần lượt ấy là có hai ý. Một là đại
khái lần lượt nói rõ về Quán. Hai là đại khái
lần lượt nói rõ về Giáo. Đại khái về Quán tức là
tổng nói về đầu tiên, giữa và tâm sau cùng của
đại viên quả mãn. Đại khái về Giáo tức là khái
quát về tiệm, đốn, lớn, nhỏ của các kinh. Đại
khái về Quán dùng người, pháp lấy làm đầu tiên.
Muốn làm rõ việc làm của Quán thì tất nhiên có
người; người tất nhiên có pháp. Giống như người
ấy thọ một kỳ quả báo, thành người cõi âm. Tuy
đầy đủ vô lượng đức hạnh; tất nhiên trứơc tiên
mục tiêu là về tên gọi. Cho nên dùng người, pháp
ở đầu. Ý ấy lại như ví dụ nầy. Nhơn, Pháp nằm
đầu ở chín nghĩa kia, có thể được; nhưng cái ý
dùng người, pháp theo thứ lớp là như thế nào?
Điều nầy căn cứ vào kinh và kinh nói rằng: Do
nhơn duyên nầy nên gọi là Quan Thế Âm; tức là
phía trước nói về người. Sau đó mới nói về lực
phương tiện của Phổ Môn Thị Hiện; tức là luận
nói về pháp, người ấy có thể nắm pháp; cho nên
nói người, pháp vậy.
Hai là từ bi. Do khi Đức Quan Âm xem thấy nơi
con người , pháp thật tướng Phổ Môn, đạt đựơc
ở cái lý của phi nhơn, phi pháp thật tướng. Tất
cả chúng sanh lại cũng đều như thế. Cho nên Hoa
Nghiêm nói rằng: Tâm Phật và chúng sanh đều là
tâm vô sai biệt. Lý nầy đầy đủ, không có khuyết
giảm. Vì sao chúng sanh, lý ấy đầy đủ, mà tình
mê, điên đảo, khổ não. Khi quán xét như vậy rồi,
liền khởi từ tâm , thệ nguyện đánh bạt những khổ
não ấy để được vui. Cho nên làm rõ từ bi vậy.
Lại nữa nếu nói chung là vì tiện lợi. Đầu là
lòng từ và sau là lòng bi. Lại cũng là bổn hòai
của Bồ Tát muốn đại từ cùng với niềm vui. Tức
khi chẳng được vui thì dùng đại bi để đánh bạt
đi những sự khổ não. Cho nên Từ ban đầu và sau
là Bi. Nếu dùng đó theo thứ lớp có nghĩa là đầu
tiên dùng đại bi để bạt đi sự khổ, sau đó mới
dùng đại từ để được vui. Lại nữa nói chung thì
hành giả trước thóat khổ, sau lợi lạc. Cho nên
nói trước Bi sau Từ. Nay từ nghĩa phía trước mà
lần theo .
Ba là phước huệ. Đầu tiên tức là người, pháp;
tướng ấy thành và ở đây căn cứ để tin điều nầy.
Tiếp theo tức là từ bi cùng với sự đánh bạt ấy;
chính là làm rõ nguyện nầy. Muốn tròn đầy nguyện
nầy tất nhiên phải tu hành. Tu hành không ra
khỏi phước huệ; huệ tức là Bát Nhã; phước ấy tức
là ngũ độ. Hỗ tương dẫn dắt để thực hành thuận
theo lời nguyện, sự lý đầy đủ. Nếu trí huệ tăng
trưởng sáng tỏ; tức là đại bi thệ đầy đủ, ý
nghĩa bạt khổ thành tựu. Nếu phước huệ thâm hậu;
tức là đại từ thệ đầy đủ, cùng với ý nghĩa của
niềm vui thành tựu. Cho nên phước huệ ở phần ba
vậy. Lại nữa cũng nói là tiện; trước phước, sau
huệ. Nếu bổn ý hóa tha, trứơc muốn thật huệ lợi
ích thì như đây chẳng phải để chỉ cho phước đức.
Lại nữa từ ấy dùng phước trước và đạo ấy dùng
huệ trước.
Bốn là chơn ứng. Nếu trí tuệ chuyển sáng; tức là
khế hợp với pháp tánh. Pháp tánh ấy gọi là thật
tướng, vì pháp thân. Pháp thân ấy liền hiển, có
thể từ chơn khởi ứng. Chơn hiển, ứng khởi chỉ do
phước huệ khai phát. Cho nên thuộc phần thứ tư
vậy. Lại cũng là phương tiện hóa vật. Trứơc dùng
ứng, sau dùng chơn. Nay từ nghĩa trước mà lần
lượt vậy.
Năm là làm sáng tỏ hai thân Dược Châu. Trước làm
rõ chơn ứng ; thẳng nói chứng được; nhưng chưa
qua được việc lợi người. Nay làm sáng tỏ cả hai
thân, đều có thể ích vật. Chơn thân phá chấp
tướng giống như Dược(thuốc). Ứng thân đối lại
với vạn lọai căn cơ ở Châu(đồ quý giá). Cả hai
chữ đều lần lượt làm sáng tỏ. Cùng với từ bi
tương tợ như vậy.
Sáu là hiển chỗ tối. Trước làm sáng tỏ hai thân
đạo lý; tức là có thể hiển ích. Nay biện giải
cho bị duyên kia được man mác lợi ích; hoặc được
hiển ích. Cho nên hai thân sau nầy sáng tỏ.
Bảy là làm sáng tỏ quyền thật. Trước duyên được
ích thì ý gì là chẳng đồng?. Do vì quyền xảo, vô
phương tiếp theo đầy đủ. Chẳng mất điều nầy,
tuyên nói về lực của hai trí. Cho nên dùng điều
nầy để làm theo thứ lớp vậy. Trước quyền, sau
thật. Điều nầy tựu chung là sâu cạn làm thứ lớp.
Nếu nương vào câu văn thì trước dùng thật ích,
sau đó dùng quyền để độ. Điều nầy là theo vật
làm lần lượt. Tựu chung là bổn ý của Phật. Trước
chỉ vì một đại sự nhân duyên; đầu tiên hiển thật
ích; chúng sanh chưa sâu sắc, sau dùng quyền để
độ.
Tám là làm sáng tỏ Bổn Tích. Tuy là việc xảo
diệu của ích vật quyền thật, mà xảo ấy lại có ưu
điểm; tất nhiên là ở thượng, trung, hạ rõ biết
đặc thù của Bổn Tích. Quyền thật lược bớt , mà
bỏ chiều ngang. Nay muốn rõ biết tinh tế cao
thấp; nên dùng sự soi rõ thứ vị. Nếu căn bản nầy
cao, thì chỗ tạo quyền thật của Tích ấy tức diệu
dụng. Do vậy lần lượt phía sau tổng lược biện
giải tinh tế về điều có thể nầy. Không có Bổn
thì không thể dùng Thùy Tích; cho nên trước làm
rõ Bổn nầy. Chẳng phải Tích thì không dùng hiển
Bổn; nên trứơc là Tích.
Chín là làm sáng tỏ liễu nhơn và liễu duyên. Như
bên trên hành nhơn phát tâm tu hành, từ nhơn đến
quả; hóa tha lợi vật, sâu cạn chẳng giống nhau.
Từ người, pháp cho đến chơn ứng là tự thực hành
lần lượt. Dược Châu cho đến Bổn Tích là lần lượt
hóa tha. Điều nầy thuận cho việc luận, mà chưa
phải là việc thảo luận căn bản. Nay nguyên là
hạt giống tánh đức nầy; nếu con người quán trí
và tâm bi thệ nguyện, thì trí tuệ trang nghiêm
ra khỏi chơn thân. Tất cả những điều nầy là
chủng tử của liễu nhơn vậy. Nếu là pháp của Phổ
Môn thì tâm từ làm thệ nguyện. Phước đức trang
nghiêm hiển xuất ứng thân. Tất cả đều là chủng
tử của nhơn duyên. Cho nên lần lượt ở phần thứ
chín vậy.
Mười là làm sáng tỏ trí đọan. Phía trước làm
sáng tỏ duyên rồi; tức là thảo luận về cái nhơn
ban đầu. Nay làm rõ trí đọan tức là thuận theo
việc thảo luận rốt ráo. Bắt đầu là khởi lên
chính liễu nhơn và cuối cùng tức là Bồ Đề đại
trí. Đầu tiên khởi lên chính việc duyên vào nhơn;
chung cuộc là Niết Bàn đọan đức. Nếu vào Niết
Bàn thì các hạnh dừng nghỉ. Cho nên ở nơi Thập
Địa.
Thứ hai tính đến những lời dạy, lần lượt làm
sáng tỏ. Lại nữa vì Thông, Biệt. Thông, nghĩa có
thể giải. Biệt, nay có thể nói. Như Hoa Nghiêm
Đốn Giáo chỉ bày trong Đại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm thì đầu tiên nương vào ban đầu để làm rõ
người và pháp. Người nầy giữ pháp, tất cả đầy đủ
từ bi. Bồ Tát tu nhơn, ở nơi phước huệ, liền vào
địa vị, tất chứng chơn ứng. Liền có thể lợi vật;
tức là biện giải Dược Châu. Vật được (lợi) ích
nầy, có minh(man mác), có hiển, mà chưa được
biệt luận về quyền thật bổn tích, duyên vào liễu
trí đọan. Thông, nghĩa tức có; biệt ý , tức
không. Vì sao như vậy? Phật đã có thời kỳ hóa
vật, làm sáng tỏ nơi đốn, tiệm. Đốn giáo tuy nói
Tiệm giáo vị chướng; nhưng vẫn chưa rõ 4 ý. Vì
sao lại bất minh? Kinh kia làm sáng tỏ chỗ ngăn
cách nhỏ nơi lớn như điếc, như câm. Che đậy ấy
đối với quyền nầy chưa hiển được sự thật nầy.
Cho nên nói rằng xa lâu yên lặng, do chỗ chính
yếu chưa cần để nói nhanh. Cho nên nói là không
quyền, thật.
Nói là chẳng có Bổn, Tích là kinh kia chưa phát
hiện Tích của việc thân ấy sinh nơi Vương Cung.
Tích của pháp thân tịch diệt ở Đạo Tràng. Chưa
khảy móng tay cười vui, phát ra lâu dài xa xôi,
là Bổn của hai thân được sanh pháp. Cho nên nói
là không Bổn, Tích.
Nói vô duyên liễu trí đọan là chẳng rõ căn tánh
của Tiểu Thừa và kẻ có tâm. Bổn ấy tự có ở nơi
nhơn thường trụ. Sẽ khắc sâu trí đọan Bồ Đề Bổn
Quả. Cho nên nói là không vậy.
Kế đến đại khái nói về ba tạng giáo. Thường hay
làm rõ người, pháp, từ bi, phước huệ ba nghĩa.
Vô chơn ứng cùng với 7 lọai. Vì sao lại như vậy?
Trong Nhị Thừa dạy rằng làm rõ thân tro, trí
diệt. Ở nơi kia được từ chơn khởi ứng. Liền
chẳng chơn ứng, thì sẽ là ích vật gì? Riêng
thật là khó. Thông luận gồm 10 cách nói riêng
nơi 3. Ba nầy nếu là đại khái chơn đế; tức là
tùy theo nghĩa của thông và đầy đủ 10 ý. Sao lại
dừng ở ba? Nếu nói là biệt thì biệt ấy ứng với
Trung Đạo. Liền được có Trung Đạo, người, pháp
ba lọai. Ý gì không có 7? Riêng đáp rằng: Thông
luận về 10 ý; đại khái điều nầy ở Tam Thừa. Cách
nói riêng là 3 lọai, nói rộng về Bồ Tát. Tam
Tạng Bồ Tát có từ bi, phứơc huệ và nghĩa phục
hoặc. Phục ấy lại chẳng đọan; cho nên không chơn
ứng 7 pháp. Sư bảo rằng: Lời dạy chỉnh tề dừng ở
ba. Nếu là Phương Đẳng dạy cách đối lại với Tiểu
và làm sáng tỏ Đại. Được Trung Đạo Đại Thừa,
người, pháp cho đến man mác hiển hai việc ích
lợi cùng với 6 ý. Rồi dụ cho phương khác. Sau đó
điều phục chúng sanh. Cho nên chẳng được nói là
quyền, thật với 4 ý. Lời dạy rõ ràng của Bát Nhã,
tuy chưa gặp người Tiểu Thừa, đã gặp pháp Tiểu;
tất cả đều là Ma Ha Diễn(Đại Thừa), mà làm rõ
người, pháp cùng với 6 ý. Lại mang phương tiện
chưa rõ ràng quyền, thật v.v… nếu nói đại khái
như lời dạy bên Pháp Hoa thì liền gặp người của
Tiểu Thừa. Người thật là con ta, ta thật là cha
của ngươi. Các ngươi hành Bồ Tát đạo nầy, khai
quyền hiển thật, phát Bổn hiển Tích. Rõ nghĩa
quyết định, chẳng tướng nghi nan. Cho nên rõ
biết Pháp Hoa được rõ ràng nơi Trung Đạo, người,
pháp cho đến Bổn Tích 8 ý.
Những lời dạy ở phía trước, có chỗ không rõ,
Pháp Hoa mới nói. Cho nên nói rằng: chưa hề
hướng đến người để nói việc như thế nầy. Nay chỗ
nói ấy tức là điều nầy nay sẽ vì ngươi mà nói
việc thật nhất. Ba đời chư Phật điều thục chúng
sanh, đại sự nhơn duyên cứu cánh viên mãn, nhờ ở
Pháp Hoa cho nên hai vạn ngọn đèn tỏa sáng mà
diễn nói Pháp Hoa, liền hóa nhập diệt. Ca Diếp
Như Lai lại cũng như vậy. Nếu nói về Niết Bàn
thì có hai lọai; đó là lợi và độn. Như dòng
giống của Thân Tử(Xá Lợi Phất) tất cả đều ở nơi
Pháp Hoa mà ngộ nhập. Tám nghĩa đầy đủ; chẳng
chờ Niết Bàn. Kẻ độn căn đệ tử ở nơi Pháp Hoa
chưa ngộ, lại vì người nầy kiểm điểm nguyên do,
rộng nói duyên liễu, rõ ba Phật tánh. Nếu luận
về tánh đức liễu nhơn chủng tử, thì tu đức; tức
thành Bát Nhã. Cứu cánh tức thành trí đức bồ đề.
Tánh đức duyên nơi nhơn chủng tử. Tu đức thành
giải thóat đọan đức Niết Bàn. Nếu tánh đức chẳng
phải duyên, chẳng phải liễu thì đây là chánh
nhơn. Nếu tu đức thành tựu; tức là điều nầy
chẳng ngang, chẳng dọc của ba điểm pháp thân.
Cho nên rõ Niết Bàn là sở dụng; tức là nói đầu
đuôi 8 pháp thành trí đọan. Mười nghĩa đầy đủ.
Điều nầy trải qua 5 vị, luận lần lượt 10 pháp.
Đại khái 4 việc dạy dỗ tức có thể rõ được. Do
vậy rõ biết 10 pháp thu lại để xem thì lời dạy
ấy kết cuộc có đầu đuôi. Chỉ lược đại ý. Có quán
nào mà chẳng nhiếp, có lời dạy nào mà chẳng thu
nạp? Ý khí rộng xa, nghĩa lý sâu tột. Trước sau
lần lượt thô tế chẳng sai khác. Dùng sự giải
thích để sanh khởi ý.
Hỏi rằng: Pháp Hoa trước dạy giống nhau, có 6 ý,
sao lại có sai biệt?
Đáp rằng: Hoa Nghiêm 6 ý. Đối với người
lợi(căn)thành đề hồ. Đối với người độn(căn)thành
sữa. Trong tam tạng, có 3 ý ấy. Đối với người
lợi(căn) thì là mật; đến với người độn căn thành
lạc. Phương Đẳng 6 ý. Đối với kẻ lợi căn, thành
đề hồ; đối với kẻ độn căn thành tô. Bát Nhã có 6
ý. Đối với kẻ lợi căn, thành đề hồ; đối với
người độn căn thành thục tô. Nếu là Pháp Hoa thì
có 8 ý. Đối vơi kẻ độn căn, thành đề hồ.
Cách giải thích thứ ba là người ấy tức là giả
danh, chỗ để thành người. Pháp ấy tức là năm ấm,
có thể thành pháp. Việc nầy, người, pháp thông
nơi cả phàm, thánh. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức
đều là phàm của pháp kia. Nói rộng ra pháp nầy
có thể thành sanh tử của con người. Giới, định,
huệ, giải thóat, giải thóat tri kiến. Đây là
pháp xuất thế. Rộng hơn việc nầy thành xuất thế
thánh nhơn. Cho nên Đại Luận nói rằng: Chúng
sanh vô thượng; ấy là Phật. Pháp vô thượng; ấy
là Niết Bàn. Tuy dùng thông phàm thánh; nhưng
chẳng sai biệt. Những việc ác của thượng, trung,
hạ sẽ thành người, pháp của ba cõi. Những việc
thiện của thượng, trung, hạ tức sẽ thành ba con
đường lành của người, pháp. Cho nên sáu cõi đều
khác nhau. Nếu nói rõ ràng chi tiết thì luận cả
trăm, ngàn, vạn phẩm. Thánh nhơn, nhơn, pháp lại
chẳng giống nhau. Nếu ba tạng có cửa thì xem
chúng sanh, ta, người giống như lông rùa, sừng
thỏ; rốt cuộc chẳng thể được. Có ngũ ấm làm
pháp; tức là điều nầy người không, pháp cũng
không. Quán pháp nầy vô thường sanh diệt, chẳng
trụ lại, phát sanh nõan đảnh đẳng vị. Tức là
điều nầy nói rộng phương tiện của pháp, thành
tựu giống như người hiền giữ đạo. Nếu phát chơn,
thành thánh, sẽ sanh về Phương Tiện Hữu Dư Độ.
Pháp tánh rộng bày sắc thức cùng với nơi kia của
hành nhơn.Nếu không môn rõ biết thể của thật
pháp, nắm lấy thật pháp nầy, được có cái giả
danh của con người. Quán sát ba điều giả phù hư,
vào nơi không bình(đẳng). Nõan Đảnh tức là nắm
lấy pháp phương tiện, thành giống như người hiền
trong đạo. Nếu phát chơn, thành Vô Học, sanh nơi
cõi phương tiện. Nắm lấy pháp tánh ngũ ấm, thành
hành nhơn ở cõi kia. Trừ cả hai cửa của người,
pháp thí dụ như đây, có thể rõ.
Trong Ma Ha Diễn (Đại Thừa) làm rõ chỗ người,
pháp. Cũng chẳng nói người không, pháp chẳng
không. Lại chẳng nói thể ấy có giả tướng, mà
quán giả danh, ấm nhập cùng với bổn tánh tự
không. Cho nên Đại Phẩm nói rằng: Sắc tánh như
ngã tánh; ngã tánh như sắc tánh. Bắt đầu từ sơ
tâm; kết cuộc nơi hậu tâm. Thường quán người,
pháp đều không. Cho nên Đại Luận nói rằng: Bồ
Tát thường quán Niết Bàn hành đạo. Dùng việc
quán người không; tức là Liễu Nhơn chủng tử.
Luận rằng: Chúng sanh vô thượng cũng như Phật
vậy. Phật tức là giác. Giác ấy là trí tuệ. Đầu
tiên rõ biết người không, sau đó rõ biết pháp
không. Cho nên rõ biết quán người không, là hạt
giống của Liễu Nhơn vậy. Quán pháp không là
duyên vào hạt giống của nhơn vậy. Đại Luận nói
rằng: Pháp Vô Thượng ấy là Niết Bàn. Dùng sanh
tử ấm, đọan Niết Bàn ấm cùng đồng nhau. Đại Kinh
nói rằng: Nhơn diệt thì sắc cũng được thường
sắc. Cho đến thức cũng lại như vậy. Đại Phẩn nói
rằng: Lúc Bồ Tát thực hành Bát Nhã thì được Vô
Đẳng Đẳng Sắc, Vô Đẳng Đẳng Thọ Tưởng Hành Thức.
Thường rõ Niết Bàn là pháp Vô Thượng. Pháp nầy
nói rộng ra thành pháp vô thượng của chúng sanh.
Hiệu ấy là Phật. Cho nên rõ biết quán pháp không
tức là duyên vào chủng tử của nhơn. Dùng quán
người, pháp không tức là rõ biết ba lọai Phật
tánh. Cho nên Đại Kinh nói rằng: Chúng sanh Phật
tánh không tức là 6 pháp chẳng lìa sáu pháp.
Chẳng ấy tức là điều nầy làm rõ chánh nhơn phật
tánh, phi ấm phi ngã. Phi ấm cho nên phi pháp.
Phi ngã cho nên phi nhơn. Phi nhơn cho nên phi
liễu. Phi ấm cho nên phi duyên. Cho nên nói
chẳng ấy tức là 6 pháp vậy.
Chẳng lìa sáu pháp nghĩa là chẳng lìa chúng sanh
không, mà có liễu nhơn chẳng. Lìa ấm không mà có
duyên nhơn. Cho nên nói chẳng lìa sáu pháp vậy.
Phật từ khi mới phát tâm quán nhơn pháp đều
không. Tức là Phật tánh. Trải qua 6; tức là ngôi
vị thành 6; ấy tức là người, pháp. Nay Quan Thế
Âm chưa phải là cứu cánh của người, pháp; tức là
chứng từng phần của người, pháp. Trứơc đây đã
một lần hỏi đáp; tức là giải thích từng phần vô
thượng của người xưng là Quan Thế Âm. Sau đó nột
lần hỏi đáp giải thích từng phần rộng về vô
thượng pháp; cho nên gọi là Phổ Môn. Nên biết
rằng: đó là người, pháp, nhơn duyên vậy. Do đó
gọi là Quan Thế Âm Phổ Môn.
Hai là giải thích về Từ Bi. Bi ấy là mẫn
thương; từ ấy là ái niệm. Mẫn cho nên bạt khổ;
niệm cho nên dữ lạc. Bồ Tát nếu thường khởi tâm
từ bi thì chẳng tịch cố. Do đó hay phát thệ lớn,
gia trì làm cho kiên cố. Giống như thợ mộc làm
nhà cho quan ở, lại phải tương ưng. Nếu chẳng
đóng chặt, lại liền rơi đổ xuống. Lời thệ nguyện
cũng giống như keo, dính chắc như vậy. Tâm bi
thương cảm, đánh bạt đi những khổ tập nhơn quả
của thế gian, cùng vơi hai lời thệ nguyện. Cho
nên chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền não
vô lượng thệ nguyện đọan. Cả hai lời thệ nguyện
nầy từ tâm đại bi khởi lên, dùng lòng từ ái vậy.
Muốn cùng với đạo diệt ra khỏi niềm vui nhơn quả
xuất thế cùng với hai lời thệ nguyện. Cho nên
nói là: pháp môn vô biên thệ nguyện tri, vô
thượng Phật đạo thệ nguyện thành. Hai lời nguyện
nầy từ tâm đại bi khởi lên, mà phía trứơc làm rõ
người, pháp, phàm, thánh chẳng giống nhau. Nay
biện giải về từ bi lớn nhỏ lại cũng chẳng khác.
Nếu người thực hành tam tạng, quán từng phần
sanh lão bịnh tử 8 khổ; tức liền khởi lên thệ
nguyện. Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Nếu
quán từng phần điên đảo kết nghiệp mà khởi lên
thệ nguyện thì: Phiền não vô lượng thệ nguyện
đọan. Muốn làm cho chúng sanh quán nhơn quả nầy
vô thường sanh diệt, niệm niệm lưu động. Tu nơi
đạo phẩm, liền khởi thệ nguyện. Pháp môn vô
lượng thệ nguyện tri.Nếu quán chơn đế vô vi làm
lý, liền khởi lên thệ nguyện. Vô thượng Phật đạo
thệ nguyện thành. Như từ bi nầy duyên hữu, tạo
nên bốn đế để khởi. Lại nữa Thông Giáo quán lão
bệnh 8 khổ như huyển, như hóa. Chúng sanh điên
đảo nghĩa là vì chơn thật, liền khởi thệ nguyện.
Tham sân si cũng như huyển như hóa. Chúng sanh
điên đảo vì thọ não, liền khởi lên thệ nguyện.
Quán sắc tức là không và thức cũng là không. Cho
nên tham, sân , si cũng không. Phi sắc diệc
không sắc tánh tự không(chẳng phải sắc mất,
không sắc tánh, tự không). Không ấy lại chẳng
thể được, mà chúng sanh chẳng thể; tức là sắc ấy
là không; liền khởi lên thệ nguyện.
Lại nữa quán Niết Bàn, nếu có một pháp qua, thì
Niết Bàn âý ta lại cũng nói như huyễn hóa, mà
chúng sanh lại có Phật đạo. Có thể cầu, liền
khởi lên lời thệ nguyện. Đây đại khái là vô sanh
tứ đế, khởi lòng từ bi thệ nguyện. Biệt Giáo
quán pháp giả danh, sum la vạn tượng. Nên đủ
phân biệt hướng dẫn làm lợi ích chúng sanh. Nơi
ấy được lắng vào không để chứng. Quán cái quả
khổ nầy chẳng dừng lại ở một lọai, liền khởi lời
thệ nguyện. Vô lượng khổ là do vô lượng tập. Tập
ấy lại vô lượng; cho nên cách trị cũng vô lượng.
Diệt lại cũng vô lượng. Như đây là lời thệ
nguyện thì duyên vào giới nội ngọai, khổ tập làm
nhơn quả. Vô lượng Tứ Đế mà khởi lên lời thệ
nguyện. Viên Giáo thì quán pháp giới viên dung.
Bổn ấy chẳng sai, chẳng thuận, chẳng rõ, chẳng
mờ, chẳng sáng mờ; cho nên liền trái lại. Sự
trái lại ấy có khổ tập nhơn quả. Trí huệ sáng;
cho nên lại thuận. Thuận ấy tức là có đạo diệt
nhơn quả. Duyên nầy nghịch, thuận là nhơn quả,
mà khởi lên từ bi, giống như đá nam châm chẳng
có tâm tưởng chuyển động hấp thụ sắt. Nay lòng
từ bi nầy chẳng làm cho chúng sanh lấy đó để làm
pháp tưởng, để làm công việc bạt khổ cùng lạc.
Cho nên gọi là vô duyên từ bi vậy. Bồ Tát từ sơ
phát tâm tu vô duyên từ bi trải qua 6 tức vị.
Nay Đức Quan Âm nầy là phần chứng của từ bi.
Trước đó đã một lần hỏi đáp, làm rõ về đại bi vô
duyên bạt khổ nầy. Một lòng xưng danh, liền được
giải thóat. Sau đó qua một lần hỏi đáp, từ vô
duyên đại từ Phổ Môn cùng với lạc. Tất cả đều
làm cho được độ. Cho nên biết rằng dùng đại từ
đại bi nhơn duyên; nên gọi là Quan Âm Phổ Môn.
Ba là giải thích về phước huệ, lại cũng có tên
là định huệ. Định ấy gọi là tỉnh ái; huệ ấy gọi
là quán sách. Đại Luận nói rằng: Định ái, huệ
sách. Trí ấy chiếu sáng tịch tĩnh, chẳng tối,
chẳng sáng, như tấm kiếng sáng soi ở nhà cao.
Phước đức thiền định thuần hậu riêng phát, như
đèn sáng, dầu sạch. Lại cũng nói là mắt, chân
đầy đủ, được vào nơi ao trong mát. Ao ấy chính
là Niết Bàn. Niết Bàn gọi là hai lọai trang
nghiêm, trang nghiêm pháp thân. Giải thích về
định huệ nầy, tự có nhiều lọai. Tam Tạng dùng
quán vô thường, lý ấy làm huệ. Dùng các việc
trong Thiền định làm phước. Dùng Định Tư Huệ
phát chơn vô lậu cái lý của thiên nhiên. Gọi đấy
là pháp thân. Nếu là Thông Giáo thì hay dùng thể
pháp khác biệt, đối với pháp tách riêng ra như
vậy. Nếu là Biệt Giáo thì dùng duyên tu trí huệ
cùng với các thiền định. Trợ giúp cho Trung Đạo
Pháp Thân. Viên Giáo dùng thật tứớng quán để làm
huệ. Thật tướng tịch định làm phước. Lý ấy là
cùng hiển, chẳng định, chẳng huệ. Gọi là thật
tướng pháp thân. Nay Viên Giáo Bồ Tát từ mới
phát tâm, tu điều nầy chẳng hai định huệ, trải
qua nơi sáu tức. Cho nên Quan Âm dùng trí sáng
soi rõ chỗ khổ. Khổ ấy là điên đảo mê hoặc nơi
ấy. Trí huệ là pháp phá hoặc. Cho nên trí huệ
hay bạt khổ. Hoa Nghiêm nói rằng: Lại phóng
quang minh, gọi đây là trí tuệ. Lại phóng quang
minh gọi đây là không não. Tư Ích(tên của Phạm
Thiên) lại cũng như vậy. Thỉnh Quan Âm nói,
phóng quang sáng soi, diệt trừ nghi ám. Cho nên
đã rõ biết chỗ hỏi đáp trước mà ứng cơ bạt khổ.
Đây là do từ huệ trang nghiêm mà có tên. Từ hỏi
đáp trụ ở nơi Thủ Lăng Nghiêm mà phổ hiện sắc
thân. Chẳng khởi diệt định, hiện uy nghi nầy. An
Thiền một ngàn bài kệ tán thán pháp vương. Cho
nên rõ biết Phổ Môn Thị Hiện từ phước đức mà có
tên gọi. Tốt ấy là phứơc, huệ ấy là nhơn duyên;
cho nên gọi là Quán Thế Âm Phổ Môn vậy.
Bốn là giải thích về chơn ứng. Chơn ấy gọi là
chẳng ngụy, chẳng động. Ứng ấy gọi là ưa căn
duyên. Tập tạng gọi là thân. Dùng thật tứơng
trong sạch chẳng ngụy, chẳng động làm lý. Tức là
có thể gọi theo cơ mà ứng. Giống như kính rộng
đối với hình tượng. Điều nầy là chơn ứng, chẳng
được lìa tướng. Khổ của ngọai đạo tác ý tu
thông; tuy có thể biến hóa. Giống như gạch sỏi
ánh sáng chẳng hiện. Há có thể dùng điều nầy để
làm ứng, mà chưa phá 4 trụ để hiển biến chơn lý.
Điều sao lãng kia có nơi trung đạo chơn ứng. Nếu
là Nhị Thừa biến hóa, tu thông sỡ đắc, thì đây
cũng lại là phi ứng. Giống như hình họa tác ý mà
thành, chẳng giống thật. Đại Thừa chẳng phải
vậy. Được chơn thật tướng dụ cho được tấm kính
sáng. Chẳng nên tác ý pháp giới sắc tượng; tức
là đối; tức là ứng. Như kiếng ấy vẻ nên hình
tượng cùng với chơn chẳng riêng biệt. Đây là lúc
gọi là chơn tịch thân ứng. Bồ Tát từ lúc mới
phát tâm trải qua nơi 6 tức. Nay kinh nói như
trứơc việc hỏi đáp đã rõ nơi chơn tịch mà chẳng
động pháp giới, lợi ích lớn. Quan Âm từ chơn
thân nên được tên. Phía sau hỏi đáp đã làm sáng
tỏ tùy theo căn cơ rộng lợi ích, ra khỏi nhiều
đa đoan. Phổ Môn là từ ứng thân mà được tên. Do
dùng chơn ứng nhơn duyên vậy; nên tên là Quan
Thế Âm Phổ Môn.
Năm là giải thích về Dược Thụ Vương thân, như Ý
Châu Vương thân. Dược Vương trị liệu khổ họan.
Trong Xuất Nại Nữ Kinh cho rằng: Châu ấy là Như
Ý Bảo. Nói rộng ra theo các phái là làm rõ việc
trị liệu được qúy hóa. Nay Ước(Giáo)Viên Giáo
đều làm sáng tỏ. Như kinh Hoa Nghiêm nói rằng:
Trên ấy có cây thuốc cùng với gốc nầy thâm nhập
vào cành lá 4 bên . Gốc rễ cành lá tất cả đều bị
bịnh cả. Nở hoa, chạm người chẳng phải là chẳng
ích gì. Bồ Tát lại cũng như vậy. Dùng Đại Bi để
xông thân hình, nghe lợi vật, gọi là Đại Dược
Vương. Thân lại như Như Ý. Châu ấy có thể mưa
lớn , ngàn trân bảo tùy ý, mà chẳng cùng, chẳng
hết. Bồ Tát dùng đại bi để xông thân, tận cùng
với chúng sanh. Niềm vui ấy gọi là Như Ý Châu
Vương. Thân nầy lại ước lục tức bán vị. Tựu
chung như việc hỏi đáp là biến hóa cứu khổ những
u ách khổ nạn. Đây là từ thân của Dược Vương
dùng để gọi. Từ sau hỏi đáp nói là hợp với sở
cầu. Mưa thật tướng mưa, được Niết Bàn lạc. Từ
đây thân Như Ý Châu Vương lấy làm tên. Cho nên
rõ biết hai thân nhơn duyên gọi là Quan Thế Âm
Phổ Môn.
Sáu là ngầm hiển hai sự lợi ích. Ngầm ấy là ngầm
mật hiển, là chướng lộ. Đại Thánh hằng dùng hai
sự lợi ích để an tất cả, mà chúng sanh cùng với
những gì ở dưới mặt trời chẳng rõ. Cũng giống
như mặt trời chiếu trên thế gian, người mù tuy
chẳng thấy; nhưng thật thì có cái gì đó có thâm
ân. Cho nên trong Dược Thảo Dụ nói rằng: Cây cỏ
không biết, không rõ, tuy cùng giống nhau trên
mặt đất. Bên dưới chẳng rõ, bên trên ngầm hiển
hai sự lợi ích. Như Văn Thù chẳng rõ chỗ tạo ra
diệu âm thần lực. Do chỗ không rõ ấy nên gọi là
ngầm lợi ích. Điều nầy như Ước(Giáo)có 6 tức bán
vị. Như phía trước hỏi đáp. Chẳng thấy hình thù,
tiếng tăm, mật hiện cái gì đó thâm hậu. Gọi đây
là ngầm lợi ích. Thánh nhơn chỉ tạo ra việc lợi
lạc; tuy chẳng thể hiểu rõ. Thánh(nhơn)muốn
khiến cho rõ, côn trùng cũng có thể biết. Như
sau đó những câu hỏi đáp rõ ràng thấy sắc thân,
được nghe thuyết pháp. Thấy, nghe, chướng, sáng
pháp lợi hiển nhiên. Cho nên biết rằng Quan Âm
từ việc ngầm lợi ích mà được gọi như vậy. Phổ
Môn là từ hiển ích; nên được gọi như thế. Dùng
sự ngầm hiển nhơn duyên; cho nên tên là Quan Thế
Âm Phổ Môn.
Bảy là giải thích về quyền và thật. Quyền ấy là
tạm dùng; thật ấy là chẳng phải tạm. Lựơc nói
quyền, thật; tức có ba lọai. Một là tự hành luận
quyền thật. Tự quán trung đạo làm thật; hai quán
là quyền. Hai là tựu chung hóa tha luận về quyền
thật. Căn tánh kia chẳng giống nhau. Hoặc nói
quyền là thật; nói thật làm quyền. Chẳng thể
phán định được, mà đại khái ý kia dùng để làm rõ
quyền, thật. Ba là tự hành hóa tha hợp lại làm
sáng tỏ quyền thật. Nếu tự quán tam đế có quyền,
có thật. Tất cả gọi là thật. Hóa tha tùy duyên
lại có quyền có thật. Tất cả tên là quyền. Dùng
ba nghĩa nầy trải qua 4 giáo. Lại nữa tự hành,
quyền thật làm sáng tỏ 6 tức phán vị. Tìm ý của
phẩm nầy là làm rõ tự hành hóa tha, luận về
quyền thật trước. Hỏi đáp từ tự hành hóa tha là
thật trí ích vật phía sau. Hỏi đáp từ tự hành
hóa tha của quyền dùng làm ích vật. Cho nên rõ
biết quyền, thật nhơn duyên. Gọi là Quan Thế Âm
Phổ Môn.
Tám là giải thích về Bổn Tích. Bổn gọi là thật
được và Tích gọi là ứng hiện. Nếu ở giữa đường
tạo nên Bổn Tích thì thế trí phàm phu, ý chính
khó lường. Cho đến Biệt Giáo Bổn Tích. Nếu Viên
Giáo không có phát tâm ban đầu. Đầu tiên phá vô
minh, liền được pháp thân; nên gọi là Bổn. Hình
dáng cao thấp trăm ức không chừng, gọi đây là
Tích. Nếu một qua, bảo là chơn ứng. Nhiều dùng
trên mặt đất là chơn, là Bổn. Dưới đất là Ứng là
Tích. Đất đất truyền tạo lời phán nầy. Chơn Bổn
tuy căn cứ ở nơi cao ứng. Tích duy chỉ nơi thấp.
Nghĩa nầy chẳng thể. Nay làm sáng tỏ chỗ Bổn
Tích tức là cùng với ứng chơn khác nhau. Bổn ấy
là thật được. Đầu tiên ngồi nơi Đạo Tràng và sơ
trụ nơi được pháp thân; tức chính là Bổn nầy.
Tích ấy là Phật ở trên đất và làm thượng địa Bồ
Tát, tất đều có tên là Tích. Không thể ở bên
trên. Đất cao cho nên gọi là Bổn. Khởi đầu được
sơ trụ mục, lấy làm Tích. Vì sao vậy ?Thật ấy
chẳng được nơi địa thượng, địa thượng không phải
Bổn. Thật ấy được nơi hạ địa, hạ địa chẳng phải
Tích. Cho nên Thọ Lượng nói rằng: Tùy theo tự ý,
tùy theo ý kia, là ý Bổn Tích vậy. Tựu chung Bổn
Tích làm rõ 6 tức. Nói chung những câu hỏi đáp ở
trước chẳng thể nói rõ, mà ngầm bổ sung cho
người trước. Từ bổn địa mà được tên. Những câu
hỏi đáp phía sau hình thù khác biệt, theo tình
huống ứng hiện để độ. Từ Tích địa mà có tên. Cho
nên rõ biết nhơn duyên Bổn Tích; tên là Quan Thế
Âm Phổ Môn.
Chín là giải thích về Liễu Nhơn Duyên Nhơn. Liễu
là hiển phát, duyên là tư trợ. Tư trợ nơi
Liễu,Hiển phát pháp thân. Liễu ấy tức là Bát Nhã
Quán Trí. Lại có tên là Huệ Hạnh Chánh Đạo Trí
Huệ Trang Nghiêm. Duyên nghĩa là giải thóat.
Thực hành hạnh trợ đạo phước đức trang nghiêm.
Đại Luận nói rằng: Một người có thể cày, một
người có thể trồng. Việc trồng ấy dụ cho duyên;
việc cày ấy dụ cho liễu. Thông luận giáo giáo,
tất cả đều đầy đủ duyên liễu nghĩa. Nay chính
thức làm rõ Viên Giáo hai lọai trang nghiêm
nguyên nhơn. Phật đầy đủ hai lọai trang nghiêm
quả. Nguyên nhơn quả nầy căn bản ấy là tánh đức
duyên liễu. Tánh đức nầy bổn tự có; chẳng thích
hợp với nay vậy. Đại Kinh nói rằng: Tất cả chư
pháp, bổn tánh tự không, lại dùng Bồ Tát tu tập
không; cho nên thấy các pháp đều không. Tức là
liễu nhơn chủng tử, bổn ấy tự có. Lại nói rằng:
Tất cả chúng sanh đều có sơ địa vị Thiền. Tư
Ích(tên của Phạm Thiên) nói rằng: Tất cả chúng
sanh tức diệt tận định. Điều nầy tức là duyên
nhơn chủng tử, bổn tự có. Dùng hai lọai phương
tiện nầy tu tập dần dần tăng trưởng. Khởi dậy
nơi cuối lông trắng, đắc thành, tu đắc, hợp lại
bao quát nơi đại thọ. Ma Ha Bát Nhã Thủ Lăng
Nghiêm Định. Đây là một lọai chẳng luận về 6
tức, mà tựu chung là nghĩa của căn bổn tánh đức
vậy. Phía trước hỏi đáp từ Liễu Chủng thọ làm
tên. Phía sau hỏi đáp,từ duyên chủng thọ tên.
Cho nên rõ Liễu Nhơn, Duyên Nhơn. Do đó gọi là
Quan Thế Âm Phổ Môn.
Mười là giải thích về trí đọan. Thông đồ ý. Trí
ấy tức là hữu vi công đức mãn. Lại gọi là Viên
Tịnh Niết Bàn. Nói hữu vi công đức tức là nhơn
thời trí tuệ. Nghĩa là có chiếu sáng dùng vào
chỗ tu hành; cho nên gọi là hữu vi. Nhơn tuy
là vô thường mà quả lại thường. Sắp tới nhơn ấy
đến gọi là quả; cho nên nói là hữu vi công đức
mãn vậy. Đọan tức là vô vi công đức mãn; lại có
tên là giải thóat. Lại cũng gọi là Phương Tiện
Tịnh Niết Bàn. Nói vô vi là Tiểu Thừa mà chấp
vào phiền não diệt, vô vi đọan. Lại lìa hư vọng;
nên gọi là giải thóat. Đây thật chưa được tất cả
giải thóat. Điều nầy lại là đọan đức vô thể. Đại
Thừa thì có hữu thể đọan; chẳng chấp diệt, vô vi
đọan, mà chấp vào tùy chỗ điều phục chúng sanh
vậy. Ác chẳng thể nhiễm. Từ việc tự tại, chẳng
có trói buộc; gọi đây là đọan đức. Chỉ cho điều
nầy; gọi là vô vi công đức. Cho nên gọi là tịnh.
Chẳng đọan si, ái khởi lên những điều sáng suốt
giải thóat. Lại nói rằng: Đối với những việc
thấy bất động mà tu 37 phẩm. Ái kiến là gần. Lại
có tên là Như Lai chủng. Cho đến Ngũ Vô Gián,
tất cả đều giải thóat. Không chỗ nhiễm ngại; gọi
là tất cả giải thóat. Tức là đọan đức vô vi vậy.
Tịch mà thường chiếu tỏa; tức là trí đức vậy.
Tiểu Thừa thân hôi, trí diệt; tức là không có
thân nầy thì cái gì sẽ vào sanh tử? Trong khi đó
thì luận điều phục vô ngại vô nhiễm. Trí diệt
thì cái gì chiếu sáng tịch tĩnh, như trí nầy
đọan hòan tòan; cho nên pháp thân hiển trước.
Tức là ba lọai Phật tánh, ý nghĩa tròn đầy. Pháp
thân đầy đủ; tức là phi nhơn phi quả, chánh nhơn
đầy đủ. Cho nên nói ẩn; gọi là Như Lai Tạng
hiển; gọi là pháp thân. Tuy chẳng phải là
nhơn; nhưng mà gọi là chánh nhơn. Tuy chẳng
phải là quả, mà gọi là pháp thân.
Đại Kinh nói rằng: Phi nhơn phi quả; gọi là Phật
tánh. Tức là chánh nhơn chánh quả Phật tánh. Lại
nói rằng: Nhơn nầy phi quả; gọi là Phật tánh.
Căn cứ vào tánh đức nầy duyên liễu, tất cả gọi
là nhơn. Lại nói rằng: Quả nầy phi nhơn nên gọi
là Phật tánh. Căn cứ vào điều tu đức nầy, duyên
liễu, tất cả đầy đủ. Liễu ấy chuyển; gọi là Bát
Nhã duyên chuyển; gọi là giải thóat. Lại gọi là
bồ đề quả. Cũng gọi là Niết Bàn quả. Quả ấy tất
cả đều là quả. Phật tánh thông nơi nhơn quả;
chẳng ngang chẳng dọc. Tánh đức có ba; nhơn ấy
chẳng dọc, chẳng ngang, lúc quả đầy đủ; gọi đây
là ba đức. Cho nên Phổ Hiền Quán nói rằng: Nhơn
Đại Thừa là các pháp thật tướng. Đại Thừa quả
lại là các pháp thật tướng. Trí đức đầy đủ, thản
nhiên hay chiếu. Tùy cơ tức là ứng nhứt thời
giải thóat; đọan đức xứ xứ điều phục. Tất cả làm
cho được độ. Trước hỏi đáp, từ trí đức phân ra
đầy đủ nhận tên. Những hỏi đáp sau từ đọan đức
phân ra đầy đủ nhận tên. Cho nên rõ biết dùng
trí đọan nhơn duyên; gọi là Quan Thế Âm Phổ Môn.
Hỏi rằng: Mười nghĩa tên gọi thấy ngòai kinh,
thì cái nào dùng để giải thích phẩm nầy?
Đáp rằng: nghĩa của Đại Thừa thông qua các kinh
cùng công dụng. Nếu chẳng được như điều nầy thì
Phật tánh ra khỏi Niết Bàn. Ngũ Trụ Nhị Tử ra
khỏi Thắng Man. Các Sư nào được lãnh dụng, thông
qua các kinh kia. Phẩm nầy ở câu văn tuy không
đủ 10 tên gọi. Tổng cộng sẽ là hai việc vấn đáp
chiếm hết 10 ý nghĩa. Cố nhiên có thể giải. Nay
điều nầy như trước, làm cho riêng biệt câu và
câu ấy chứng cho 10 nghĩa kia. Như câu văn nói:
Dĩ hà nhơn duyên danh Quan Thế Âm. Lại nói: Dĩ
thị nhơn duyên danh Quan Thế Âm; tức là căn cứ
vào tên người.
Câu văn sau nói: Phổ Môn Thị Hiện; tức là làm
sáng tỏ pháp.
Hữu như thị đẳng đại uy thần lực đa sở nhiêu
ích; tức là từ vậy.
Mẫn chư tứ chúng ; tức là bi vậy.
Muốn rõ biết trí nơi câu nói thì 19 cách thuyết
pháp ấy tức là trí huệ.
Nhứt thời lễ bái đắc vô lượng vô biên phước đức
chi lợi; tức là phước đức vậy.
Tự tại chi nghiệp; tức là pháp thân.
Vì sao vậy? Pháp thân đối với tất cả được tự
tại. Trí huệ riêng điều nầy; cho nên tên là
nghiệp.
Thọ Lượng nói:Huệ quang chiếu vô lượng, cửu tu
nghiệp sở đắc. Uy thần chi lực nguy nguy như
thị. Như thị mãn túc chi danh; tức là chơn thân
vậy.
Phổ Môn thị hiện thần thông lực; tức là ứng
thân.
Du chư quốc độ, độ thóat chúng sanh; tức là thân
của Dược Thụ Vương.
Ư bố úy cấp nạn chi trung năng thí vô úy; tức là
thân của Như Ý Châu Vương.
Phước bất đường quyên; tức là ngầm lợi ích.
Tam thập tam thân; tức là hiển lợi ích. Phật
thân tức là thật trí. Hiện dư thân ; tức là
quyền trí.
Quan Âm thân tức là Bản dư thân; tức là Tích.
Lại nữa đại uy thần lực là bổn phương tiện lực,
là Tích. Nghe Quan Âm nầy. Bồ Tát gọi người ấy
nếu có nghe được phẩm nầy; tức là chứng liễu
nhơn.
Công đức bất thiểu; tức là duyên nhơn. Chẳng
chịu thọ, thường xả hạnh và tức thời quán âm
thanh nầy. Quán đây tức là trí.
Giai đắc giải thóat, chủng chủng điều phục chúng
sanh, bát vạn tứ thiên phát tâm đẳng, là sự lợi
ích; tức là đọan vậy. Đệ tứ liệu giản.
Hỏi rằng: Người đối với Quan Âm, pháp đối với
Phổ Môn. Phương Đẳng có pháp Phổ Môn Vương Tử;
ngọn ở nơi người gọi. Nghĩa nầy như thế nào, có
giống không?
Đáp rằng: Đây là cách làm của tứ cú phân biệt.
người chẳng phải pháp, pháp chẳng phải người.
Người tức là pháp, pháp tức là người. Nếu dựa
theo Hoa Nghiêm là thứ đệ ý địa. Trước việc sanh
tử hành nhơn chưa là pháp của thật tướng. Pháp
nầy cũng chẳng phải là người kia. Nếu làm chẳng
theo thứ đệ ý thì người ấy chính là thật tướng
và thật tướng ấy chính là người. Người và pháp
chẳng phải hai vậy. Nếu ba tạng có cửa ngõ làm
rõ chỗ vô, giả, người thì thật pháp của pháp nầy
chẳng phải là người. Nếu không môn nắm trọn cả
thật pháp, thì thành ra người giả. Người và pháp
cả hai đều khác nhau. Nếu điều nầy chẳng lìa
người để luận pháp thì cũng chẳng lìa pháp để
luận người. Đây chính là ý của nhị đế; chẳng
phải là người, pháp của Trung Đạo vậy. Nếu là
Phương Đẳng thì đối với Tiểu(Thừa) làm sáng tỏ
cái Đại(Thừa) để luận về người và pháp. Làm rõ
chỗ Tiểu giống như tam tạng, làm rõ chỗ lớn
giống như Hoa Nghiêm. Bát Nhã Niết Bàn đều thí
dụ như thế. Nay trong Phương Đẳng làm rõ Phổ
Môn; tức là ý của Đại Thừa. Nay làm rõ Phổ Môn
pháp ấy thì làm sao có pháp mà không người. Kẻ
kia làm rõ Phổ Môn là người thì cái gì được pháp
mà lại không có người. Đây chính là người, pháp
hỗ tương tuyên xưng với nhau. Kinh kia là tiêu
điểm của người và nơi nầy là tiêu điểm của pháp
vậy. Giống như Tiểu Thừa làm rõ Thân Tử(Xá Lợi
Phất) trí huệ đệ nhất. Ngòai ra những đệ tử khác
mỗi mỗi đều thành tựu các pháp môn luận đệ nhất.
Bổn dùng trí huệ để đọan hoặc, phát chơn vô lậu.
Ngòai ra người không huệ thì cái gì được vào
đạo. Lúc được đạo quả, quả ấy rõ biết có huệ.
Nên mỗi mỗi đều tuyên xưng điều nầy ở ngõ ban
đầu, riêng gọi là đệ nhất. Ví dụ như mũi nhọn
của con dao cắt đồ thì tất nhiên mượn nơi phía
sau để lợi dụng. Số lượng ấy giống như con dao
và huệ ấy giống như lưỡi dao. Nay nghĩa của Phổ
Môn cũng lại như vậy. Do pháp nhơn duyên ấy mà
có tên là Phổ Môn. Làm sao mà con người được chỗ
vô liễu nhơn. Nay cũng đồng là tên Quan Âm. Điều
nầy được rõ ràng muốn làm cho thế đế chẳng sai,
mà còn hỗ tương đưa ra tên khác. Như thân đầy đủ
6 căn; nên xưng là tịnh nhãn, tịnh ý. Há được vô
dư căn sao? Đó là đơn giản về Từ Bi.
Hỏi rằng: Nếu Đại Bi đánh bạt khổ thì khổ tiêu
trừ, liền được an lạc. Đại Bi cùng với lạc lạc;
tức là đánh bạt đi sự khổ. Vậy thì ý gì ở hai
phần nầy?
Đáp rằng: Thông thường luận như thế nầy. Đây là
biệt; tức là chẳng phải vậy. Giống như đánh bạt
tội nơi ngục. Chưa bỏ được ngũ trần, thân tuy
không đau đớn; nhưng căn tình chưa hoan hỷ. Điều
nầy chỉ bạt khổ chứ chưa được cùng lạc. Lại nữa
như thí ngũ trần nơi ngục, nhĩ căn tuy vui cũng
chưa gọi là bạt khổ. Vì từ nghĩa riêng biệt, mỗi
mỗi hiển một bên. Cho nên riêng nói như vậy.
Hỏi rằng: Trong nầy có ý gì mà chẳng nói về hỷ
xả?
Đáp rằng: Tứ vô lượng tâm tên tuy có 4; nhưng mà
có 3 nghĩa. Đại Kinh nói rằng: Ưu tất xoa thì
Tất Xoa gọi là xả. Xả ấy là cả hai xả; tức là
chẳng phải từ, chẳng phải bi, chẳng phải hai ý
ấy. Không hai mà là hai; tức là từ bi vậy. Còn
hỷ nghĩa là từ lạc sanh hỷ; đầu tiên muốn cùng
lạc. Chúng sanh khổ chồng chất; chẳng thể được
vui; tức là chẳng có chỗ vui. Nếu đánh bạt khổ
rồi; tức là có thể được lạc. Trở lại bổn hòai;
cho nên lạc sau đó thêm hỷ. Nếu sau đó chẳng có
điều nầy; tức là chẳng khai mở sự hoan hỷ như
vua A Du Gia( A Dục) trong bảy ngày sắp mất. Tuy
có niềm vui ngũ dục; nhưng ưu khổ cột tâm. Lại
như một thân, ít bịnh não, có thể chiếm trọn một
thân an vui. Cho nên rõ biết khổ chồng chất, thì
chẳng được lạc vậy.
Hỏi rằng: Thiền Chi làm sáng tỏ niềm hỷ ở trứơc
và lạc chi ở sau. Lại còn nói gì nữa?
Đáp rằng: Thiền Chi kết cuộc là từ thô nhập vào
tế; trong đây hoan hỷ kia được vui; cho nên tâm
hỷ tại hậu. Lại nữa ngọai đạo tu bốn vô lượng tự
thể thiền định, tạo ra tưởng hư ảo là kia không
thật ích; chẳng thể làm cho kia bạt khổ được
lạc. Chỉ tự họach định hư vọng thế pháp. Báo hết
lại đọa; chẳng miễn trừ sự khổ. Chính kia đều
chẳng lợi ích. Nếu Nhị Thừa tu bốn vô lượng mà
hay tự bạt khổ thì nơi kia chẳng ích, tự bạt
từng phần, chưa lọai trừ sự biến đổi dễ dàng.
Thân tro nầy mất, rõ biết chẳng phải cứu cánh
vui. Nay Bồ Tát chẳng phải như vậy. Chẳng phải
hạnh của phàm phu, mà cũng chẳng phải hạnh của
hiền thánh. Chẳng phải phàm phu nghĩa là chẳng
giống với tự thọ thiền vui. Chẳng phải hiền
thánh nghĩa là chẳng cùng với tự bạt nơi khổ.
Chẳng cùng với tự thọ lạc; cho nên tức là cùng
với kia vui. Chẳng cùng với tự bạt khổ; cho nên
liền bạt khổ kia. Lại nghĩa là bạt khổ, lại là
cùng vui. Tức là cùng với lạc, lại cùng với bạt
khổ nầy. Cho nên phân biệt nói thệ nguyện tương
đối. Phía trước làm rõ chỗ bạt khổ và sau cùng
với lạc vậy. Nói đơn giản về Phước Huệ.
Hỏi rằng:Quan Âm đối với trí, gọi là bạt khổ.
Phổ Môn đối với phước thấy được lạc gì?
Đáp rằng: Trí là ánh sáng quang minh chánh đáng
trị được các ám hoặc. Hoặc ấy là sanh tử khổ
não. Nếu trị được ám hoặc khổ, há chẳng dùng trí
để giải thích về ánh sáng. Cho nên gọi người trí
huệ ấy là bạt khổ. Pháp ấy là pháp môn; gọi cửa
ấy là năng thông. Thông đến Niết Bàn an lạc. Đầu
tiên thực tập pháp nầy là được cái nhơn an lạc.
Sau đó chứng pháp nầy là được cái quả an lạc.
Cho nên đối với Phổ Môn nầy làm sáng tỏ điều nầy
cùng với lạc vậy.
Hỏi rằng: Phước huệ cùng nhau, gốc ấy chẳng lìa
xa. Nếu định mà không có huệ, thì định nầy gọi
là si định. Giống như đứa bé mù cởi ngựa; chắc
chắn rơi xuống hầm hố, điều nầy chẳng nghi ngờ
gì cả. Nếu huệ mà không định thì huệ nầy gọi là
cuồng huệ. Giống như gió lộng mà đèn bị tắt. Đèn
tắt thì không thể soi sáng vật được. Cho nên
phải rõ Phước và Huệ tương hợp nhau như hai bánh
xe đều nhau, mới có thể chạy được. Nếu như vậy
thì ý gì dùng trí huệ để bạt khổ, phước đức
cùng với lạc?
Đáp rằng: Chính tự phước đức là trí huệ, trí huệ
là phước đức. Chính là có phước đức không trí
huệ thì trí huệ ấy chẳng phải phước đức. Đại
Tiểu Thừa đều bổ sung trong 4 câu. Như lục độ Bồ
Tát tu Bát Nhã. Phân Diêm Phù Đề làm 7 phần. Đây
là thế trí chẳng thể đọan hoặc. Đây dụ cho được
phước đức nhiếp; liền gọi phước nầy là trí. Trí
nầy là phước chẳng đọan hoặc. Nếu kẻ Thanh Văn
rõ biết huệ có thể đọan thì gọi là trí huệ phi
phước đức như La Hán đói vậy. Nếu phước đức
chẳng phải thế trí lại cũng chẳng phải xuất thế
trí thì giống như voi trắng vậy. Nếu là Đại Thừa
tứ cú thì Biệt Giáo địa tiền 30 tâm hạnh, hạnh
ấy gọi là phước đức huệ hạnh, gọi là trí huệ.
Huệ nầy chẳng thể phá vô minh. Huệ nầy trở lại
bị phước đức nhiếp. Chẳng phá vô minh nên phước
nầy là trí huệ phương tiện, trị tướng chấp. Nếu
là địa tiền, tất cả gọi là phước đức. Địa thượng
tất cả gọi là trí huệ. Trí huệ nầy chẳng phải
phước đức, phước đức chẳng phải trí tuệ. Phương
Đẳng Bát Nhã hướng về 4 câu. Nay Phổ Môn nầy gọi
là phước huệ. Phước ấy tức là huệ. Huệ ấy tức
là phứớc. Phước huệ chẳng hai; cho nên Đại Luận
nói rằng: như thế tôn, diệu, nhơn; tức có thể
thấy Bát Nhã. Huệ nầy cái nào được vô định, được
Thủ Lăng Nghiêm Định, cái gì gặp vô huệ. Luận
nói rằng Kiến tướng tam muội có thể phá cường
địch. Đại kinh nói rằng: Phật tánh có 5 lọai để
gọi. Lại gọi Bát Nhã, lại gọi là Sư Tử Hống. Lại
gọi Thủ Lăng Nghiêm; lại gọi Kim Cang Phật tánh
v.v… tức là định huệ đầy đủ cách gọi vậy. Phi
thiền chẳng huệ; phi huệ chẳng thiền. Thiền huệ
chẳng hai. Chẳng hai mà hai. Phân môn biệt
thuyết, tạo ra hai cách giải thích về định huệ.
Cho nên Thích Luận giải Bát Nhã làm rõ 18 tướng
không. Giải Thiền Định làm rõ 108 Tam Muội. Đây
là hai nói hai; tức là chẳng phải hai. Nói đơn
giản như vậy.
Lại có 4 câu đặc thù, phi chơn phi ứng. Ứng mà
phi chơn; chơn mà phi ứng. Lại chơn lại ứng. Nếu
phi chơn phi ứng thì điều nầy tựu chung lý ấy có
thể giải được. Lại là phàm phu; chẳng thấy lý;
cho nên phi chơn vô dụng; nên phi ứng. Điều nầy
có thể giải ứng mà phi chơn. Ngọai đạo lại được
ngũ thông, cùng với kia thí hóa. Thông(Giáo)luận
lại được là ứng ấy mà được gọi là chơn. Chơn mà
phi ứng. Người Nhị Thừa nhập vào chơn, đọan
kết(sử). Thân tro mất, rõ biết chẳng thể khởi
ứng. Điều nầy lại là Thông, luận về chơn nầy
vậy. Lại chơn lại ứng. Đây tức là biệt hiển
trung đạo vì chơn; tức chơn ấy mà luận, dùng làm
ứng chơn, ứng bất nhị. Bất nhị mà nhị; cho nên
nói chơn ứng vậy.Nay nương vào câu văn cùng đưa
ra một lời về chơn ứng nầy. Trước đã lần lượt
hỏi đáp làm rõ chơn thân thường lợi ích. Sau đó
cũng đã làm rõ việc hỏi đáp về ứng thân lợi ích
nầy. Thường thì thời gian chẳng thể tương ly,
như hai con chim đều tản mát. Hai vãng làm luận
chơn thân lại hằng hữu, lại cũng chẳng hằng hữu.
Ứng thân lại cũng gián tiếp mà cũng chẳng gián
tiếp. Nếu Tiểu Thừa làm rõ nghĩa; thí dụ như sự
tốt đẹp của đá trong hang động, quán không, thấy
pháp thân Phật. (Tỳ Kheo)Ni Liên Hoa lại chẳng
thấy. Điều nầy há chẳng phải trong Tiểu Thừa
chơn thân hằng có nghĩa ích lợi mà cũng chẳng
hằng ích lợi. Đo 6 phép ứng lại thấy, lại chẳng
thấy. Điều nầy há chẳng phải ứng thân có nghĩa
gián đọan và không gián đọan. Đại Thừa Pháp Thân
lại cũng như vậy. Đối với lý là hằng hữu ích.
Đối với tình thì chẳng hằng hữu ích lợi. Ứng
thân lại cũng như vậy. Cái duyên diệt nầy cùng
với duyên hưng khởi kia chẳng có đọan tuyệt; đây
cũng chẳng phải nghĩa gián đọan. Cùng tính chất,
khác chỗ thấy trong vấn đề ý nghĩa của thời gian
nầy. Nay mới phân biệt. Như một lần hỏi đáp phía
trước thuộc hằng hữu ích lợi, lần hỏi đáp sau
thuộc chẳng hằng hữu ích lợi vậy. Nói đơn giản
về Dược Châu hai thân. Thuốc có công dụng làm
cho bịnh bớt khổ. Lại làm cho tòan thân mệnh
được tăng trưởng, có công dụng tốt đẹp. Cho nên
Kinh nói rằng: Nếu tòan thân mệnh được như điều
nầy thì đều tốt đẹp. Vua Như Ý Châu chẳng hằng
làm mưa quay, lại cũng có thể trừ bịnh. Cho Thái
Tử vào trong biển lớn lấy được châu báu, trở lại
trị bệnh đau mắt của cha mẹ. Đại Phẩm nói rằng:
Nếu mắt người bịnh đắp ngọc châu lên trên thân
bịnh, liền tiêu trừ bệnh tật; cho nên rõ biết
đều thông qua hai nghĩa ấy. Nếu đưa ra riêng
biệt một bên thì ước chừng trừ họan, dùng dụ về
thuốc để chứng được niềm vui, huống gì là châu
báu nữa. Đại khái là làm rõ cho cả hai. Phàm có
36 câu. Đại khái quyền thật nhị trí. Trước hỏi
đáp về thật trí chiếu chơn, mà chúng sanh được
giải thóat. Quyền trí chiếu giả, mà chúng sanh
được độ. Độ ấy là độ quyền; lại độ ấy đối với
thật. Thóat ấy là thóat chơn; lại thóat ấy đối
với giả. Giải đáp nầy lại đầy đủ 4 câu. Hoặc
nhơn chơn trí giải thóat nơi quyền . Bảy nạn
tiêu trừ, hai cầu nguyện mãn là vậy. Hoặc nhơn
chơn trí giải thóat nơi thật. Ba độc đều lìa
khỏi điều nầy. Hoặc nhơn quyền trí được đọ nơi
thật. Ba mươi ba thân được độ là đây vậy. Hoặc
nhơn quyền trí được độ nơi quyền. Đối với sự sợ
hãi liền cứu hộ, được chẳng sợ. Hoặc cả hai đều
được độ thóat. Nay nương vào nửa câu văn đều ra
khỏi một bên. Văn trước ra khỏi quyền, văn sau
đến chỗ thật.
Nói đơn giản về Bổn Tích. Thông thường luận về
Bổn Tích đều có thể bạt khổ cùng với niềm vui.
Cho nên Thọ Lượng nói: Nghe Phật Thọ vô lượng,
được thanh tịnh vô lậu, vô lượng quả báo; liền
từ Bổn mà được vui. Thỉnh Quan Âm rằng: . Hoặc
du hí nơi địa ngục lấy tâm đại bi thay việc thọ
khổ. Điều nầy là từ Tích bạt khổ. Chúng sanh
chẳng đến được Bản ban đầu, sau đó lưu chuyển
khổ não. Nếu rõ biết cái lý của Bản; tức là đối
với sự khổ ấy mà được giải thóat. Chúng sanh
nếu chẳng thấy trong Bản thí hóa. Chẳng có thể
ba lọai phước của ba nghiệp, liền chẳng phải là
nhơn của công đức. Sao đến được quả vui. Phi Bản
không dùng Thùy Tích; phi Tích thì không dùng
hiển Bản. Phía trước hỏi đáp để làm rõ Bản Tích
nầy.Hỏi đáp phía sau cũng làm rõ Bản Tích nầy.
Hỏi rằng: Bản Tích cùng chơn ứng nói khác nhau
những gì?
Đáp rằng: Chơn Ứng cuối cùng biện giải chuyện
qua trong đời, như các Kinh đã nói rõ. Còn Bản
Tích tựu chung luận về ba đời như Thọ Lượng đã
nói. Đơn giản là do duyên vậy.
Hỏi rằng: Duyên Liễu ấy tức có tánh đức thiện
lương lại có tánh đức ác chăng?
Đáp rằng: đều đầy đủ cả.
Hỏi rằng: Xiển Đề và Phật đọan những gì về thiện
ác?
Đáp rằng: Xiển đề đọan những việc lành mà hằng
có tánh thiện. Phật đọan các việc ác hằng có
tánh ác.
Hỏi rằng: Tánh đức thiện ác những gì chẳng thể
đọan?
Đáp rằng: Tánh thiện ác thường là những pháp môn
của thiện ác. Tánh ấy chẳng thể sửa đổi trải qua
ba đời, chẳng ai có thể đầy đủ. Lại chẳng thể
đọan họai. Ví dụ như ma tuy thiêu đốt kinh sách
thì làm sao mà tánh lành của pháp môn hết được.
Khác hơn , khiến Phật thiêu hủy ác lại chẳng thể
làm cho pháp môn ác hết sạch. Như nhà Tần đốt
kinh điển để chống Nho, há có thể làm cho thiện
ác đọan hết sao?
Hỏi rằng: Xiển đề nếu chẳng đọan mất giống lành
thì trở lại có thể làm cho tánh thiện khởi
chăng. Phật chẳng đọan tánh ác thì có thể làm
cho ác khởi chăng?
Đáp rằng: Xiển đề chẳng thể đạt được tánh thiện.
Dùng sự chẳng đạt ấy; cho nên trở lại làm thiện
bị nhiễm ô. Tu thiện làm khởi lên rộng rãi việc
trị lại việc ác. Phật tuy chẳng đọan tánh ác mà
có thể đạt được ở nơi sự ác. Dùng việc đạt sự
ác ấy; cho nên đối với ác thật tự tại. Do chỗ
chẳng làm ác; nên chỗ nhiễm tu ác chẳng khởi.
Cho nên Phật vĩnh viễn chẳng trở lại việc ác. Do
sự tự tại ấy ; cho nên rộng dùng các pháp môn ác
để hóa độ chúng sanh. Cuối cùng việc dùng ấy
cuối đời chẳng nhiễm. Chẳng nhiễm cho nên chẳng
khởi. Cái gì được dùng như ví dụ của Xiển đề.
Nếu là xiển đề mà có thể đạt được điều thiện ác
nầy, thì chẳng thể gọi là nhứt xiển đề nữa. Nếu
nương vào người khác làm rõ nhứt xiển đề đọan
việc thiện hết, làm A Lê Da(Thánh Giả) rõ biết
chỗ huân tập, lại có thể khởi thiện. Lê Da tức
là vô ký, vô minh. Thiện ác nương vào giữ làm
tất cả chủng tử. Xiển đề chẳng dứt vô minh, vô
ký; cho nên trở lại sanh thiện. Phật đọan trừ vô
ký vô minh, hết không thể huân tập; cho nên ác
ấy chẳng sanh trở lại nữa. Nếu muốn dùng ác để
độ vật, hằng tạo thần thông biến hóa, hiện độ
chúng sanh vậy.
Hỏi rằng: Nếu Phật Địa đọan ác tận, tạo ra thần
thông, dùng ác hóa vật; điều nầy tác ý mới có
thể khởi lên việc ác; giống như người ban đêm
đối với màu sắc chẳng thể nhận rõ; giống như
kính sáng chẳng thể ảnh hưởng màu sắc của chính
hình hài. Có thể điều nầy chẳng thể nghĩ bàn, lý
ấy có thể ứng với ác. Nếu tác ý thì kẻ ấy cùng
với ngọai đạo khác gì nhau?
Đáp rằng: Nay làm rõ xiển đề chẳng đọan tánh đức
thiện, gặp duyên lành liền phát. Phật lại chẳng
đọan tánh ác , cơ duyên chỗ lực từ mạnh chỗ huân
tập; nên vào A Tỳ cùng với tất cả các việc ác để
hóa độ chúng sanh. Do có tánh ác; cho nên gọi là
chẳng đọan. Lại chẳng tu ác; nên gọi là chẳng
thường. Nếu tánh tu đều tận; tức là đọan chẳng
được, mà chẳng đọan chẳng thường. Xiển đề lại
cũng như vậy. Tánh thiện chẳng đọan lại sanh
thiện căn. Như Lai tánh ác chẳng đọan, lại có
thể khởi ác. Tuy khởi nơi ác mà là tâm ấy vô
nhiễm. Qua khỏi chỗ ác rồi; tức là thật tế. Có
thể dùng tướng ngũ nghịch mà được giải thóat.
Lại chẳng trói buộc, chẳng thóat khỏi việc làm
nơi phi đạo, thông đạt Phật đạo. Xiển đề nhiễm
mà chẳng đạt cùng với điều nầy lại khác vậy. Đơn
giản rõ biết sự đọan trừ. Điều nầy là một pháp
khác; gọi là chẳng được tương ly. Như người một
thể, vì saotừ trí bạt khổ; từ đọan cùng lạc.
Nhưng mà tâm huệ giải xưng trí. Không có chướng
ngại trói buộc thân thì gọi là đọan. Dụ như
người bị cột chặt, dùng lực thuộc trí cùng với
ngọai lực phụ vào thuộc đọan và vận lực thuộc
tâm. Cho nên nói rằng trí huệ trang nghiêm. Phụ
đọan thể tán thuộc về sắc thân; gọi là phước đức
trang nghiêm. Nay kinh văn nói chẳng được trong
một lúc. Do vậy cùng nhau đưa ra trí đọan. Nếu
thấu rõ được 10 ý nghĩa nầy thì giải được cả
ngàn điều, rộng nói nghĩa của Quan Thế Âm Phổ
Môn; tức là chẳng thể cùng tận.
Phần thứ hai riêng giải thích về tên gọi làm
hai. Đầu tiên làm rõ Quan Thế Âm; kế đến làm rõ
Phổ Môn. Vì nhân duyên gì mà gọi là Quan Thế Âm?
Thông Giáo giải thích như phía trước. Biệt giáo
thì dùng cảnh trí nhơn duyên cho nên gọi là Quan
Thế Âm. Sao gọi là cảnh trí? Cảnh trí đây lại có
hai. Một là tư nghì cảnh trí. Hai là bất tư nghì
cảnh trí. Tư nghì cảnh trí lại có hai. Một là
theo lý bên ngòai;; hai là theo lý bên trong. Lý
bên ngòai lại có 4. Một là thiên nhiên cảnh trí.
Chỉ hỏi cảnh nầy vì sẽ do cảnh; cho nên cảnh do
trí, do cảnh.Trí nầy sẽ do trí; cho nên trí do
cảnh, do trí. Nếu do cảnh; cho nên cảnh, cảnh
nầy là cảnh. Cảnh ấy tức là tự sanh cảnh. Nếu
trí do trí thì trí ấy lại là tự sanh trí. Tự
sanh gọi là tánh tự như thế. Chẳng phải Phật,
Trời, người làm được. Chiếu sáng cùng
chẳng chiếu sáng hằng là cảnh trí. Cho nên gọi
là thiên nhiên cảnh trí.
Hai là làm rõ tướng chờ đợi. Nếu cảnh chẳng tự
là cảnh; nhơn trí cho nên cảnh. Trí ấy chẳng tự
là trí; nhơn cảnh cho nên trí nầy tức là sanh ra
nghĩa kia. Vì sao như vậy? Cảnh tự sanh cảnh;
liền xưng là tự. Do cảnh vọng trí. Trí tức là
kia. Nay cảnh từ trí sanh há chẳng phải cảnh
kia? Trí lại như thế ; cho nên gọi là tương đãi.
Kế đến làm rõ cái nhơn, duyên cảnh trí. Nếu cảnh
mà chẳng do trí, mà cảnh lại chẳng do cảnh; cho
nên cảnh. Trí cảnh nhơn duyên cho nên cảnh. Trí
lại như thế. Đây tức là cảnh trí nhơn duyên cùng
sanh ra nghĩa nầy. Cùng sanh ấy có hai, quá đọa
tự tha tánh trung. Kế đến là tuyệt đãi làm sáng
tỏ cảnh trí. Chẳng phải cảnh chẳng phải trí mà
nói cảnh trí. Điều nầy tức là lìa cảnh lìa trí,
chẳng nhơn duyên mà biện tài ra cảnh trí. Đây là
vô nhơn duyên sắc đãi. Từ nhơn duyên trên chẳng
thể được, hà huống là vô nhơn duyên. Một vãng
nghĩa là tuyệt lý mà cuối cùng chẳng thành tuyệt
đãi. Gồm cả lý ngọai hành tâm nầy, vọng tưởng
tính tóan. Cho nên Trung Luận nói rằng: Các pháp
chẳng tự sanh; lại chẳng từ kia sanh; chẳng
cùng, chẳng không nhơn. Cho nên nói vô sanh. Sao
được như trước 4 lọai. Kế chấp là thật dư vọng
ngữ. Tánh thật của chấp về thấy, ái sanh chấp 98
sử. Khổ tập hóat nhiên lưu chuyển chẳng dừng. Vì
sao chấp nầy mà sanh khổ tập? Đọa chấp một lọai
cảnh trí; nghĩa là dùng lấy đây. Đọa thuận tán
thân tâm tức là ái trước mà sanh hoan hỷ. Tức là
tham sử. Nếu người sai nghịch trách tâm vui; tức
là do phẩn nộ mà sanh sân nhuế; tức là sân sử.
Tham nhuế liền khởi há chẳng phải si sử. Ta giải
cảnh trí nầy, chỗ kia chẳng giải như chỗ sở chấp
đây xấc láo nơi người, há chẳng là mạn sử. Liền
chấp điều nầy là như vậy. Nay tuy chẳng nghi,
sau sẽ nghi lớn, há chẳng nghi sử là gì. Ta rõ
biết giải pháp nầy. Trong pháp ấy tính tóan, ta
há chẳng là thân kiến. 62 kiến theo đó rơi vào
một bên; há chẳng là biên kiến. Như đây vọng
chấp; chẳng gặp đạo lý; há chẳng là tà kiến.
Chấp điều nầy là thật; cho là Niết Bàn; há chẳng
phải kiến thủ quả dật. Nghĩa là lấy đạo nầy
nương vào để tiến hành; há chẳng phải giới thủ
nhơn dật. Mười sử ấy tất cả đều nằm trong sở
chấp cảnh trí bên trên khởi. Sẽ trải qua ba cõi
bốn đế; tức là có 88 sử. Tựu chung suy nghĩ
trải qua ba cõi; tức là có 98 sử. Đây là tập đế
kết nghiệp, điên đảo hóat nhiên. Sau đó mới đến
quả khổ sanh tử chẳng gián đọan. Nơi cảnh trí
nầy chẳng rõ biết khổ tập. Nơi nào có đạo diệt.
Tức chẳng rõ tứ đế; liền phá thế gian, xuất thế
gian nhơn quả. Vô thế xuất thế pháp; cho nên
chẳng pháp nào thật. Chẳng rõ biết quả xuất thế,
chẳng Phật thật. Chẳng rõ xuất thế nhơn; nghĩa
là chẳng có hiền thánh tăng bảo. Tất cả đều mất
đi. Nếu tạo chấp như thế nầy thì tự sanh cảnh
trí. Chỉ có kết cấu sinh tử. Tăng trưởng kết
nghiệp, sai trái thật nhiều. Nếu chẳng phải lý
ngọai cảnh trí, liền sẽ làm lý bên ngòai như thế
nào? Cho nên Đại Luận nói rằng: Phàm phu nói ba
lọai. Kiến mạn là chữ. Thánh nhơn chỉ nói một
lọai. Gọi là chữ. Nay phàm phu kiến mạn chấp
trước ngoa nói lời Phật. Dùng ca ngợi chấp trước
về lý, thành ra tranh luận. Tuy phỉ báng kinh
luận lại dẫn chứng văn tự. Như trùng khóet thân
cây, ngẫu nhiên thành chữ. Thật tâm mà tìm thì
chẳng thể giải thích chữ hay chẳng phải chữ.
Miệng nói cảnh trí; nhưng chẳng rõ cảnh trí. Lấy
sự chẳng giải thích được ấy như phục cam lồ. Tức
là dùng cảnh trí để khởi lên việc thấy thân mệnh
bị thương sớm yểu. Cho nên Long Thọ phá chỗ ấy.
Nay chẳng thủ lấy điều nầy vì cảnh trí dùng giải
thích Quan Thế Âm.
Tự sanh cảnh trí liền như thế, trừ ba câu lại
như vậy. Hai là làm sáng tỏ cái lý tư nghì nội
cảnh trí. Lại tạo ra bên trên 4 cửa. Danh tự tuy
đồng quán trí thuần thục, chẳng sanh chấp kiến.
Đầy đủ cho nên chẳng tạo cái mới, thành phương
tiện đạo. Phát sanh nõan đảnh cho đến 16 tâm
nhãn trí minh giác. Thông suốt rồi được ngộ, phá
những kiến hoặc cùng lý tương ưng. Giống như
người mù lấy kim chích vào võng mô rõ ràng là
chẳng nói bậy bạ. Đây chính là chơn quán; gọi là
trí. Cái lý chỗ chiếu ấy gọi là cảnh. Dùng phát
vô lậu; cho nên xưng là lý nội cảnh trí. Tuy
thấy lý nầy; chung cuộc là tạo ý nhập chơn. Cho
nên gọi là tư nghì cảnh trí vậy. Nay làm rõ Quan
Thế Âm lại chẳng từ cảnh trí nhơn duyên nầy mà
được gọi tên.
Thứ đến làm rõ bất tư nghì cảnh trí. Nếu
tự, tha cùng với vô nhơn, sánh với bốn câu, đều
chẳng phải cảnh trí. Nay các kinh luận làm sáng
tỏ hoặc từ tự sanh, tha sanh, cộng sanh, vô nhơn
v.v. Nếu chẳng phải vậy thì vì sao biện giải
cảnh trí được?
Đáp rằng: Trong kinh đã rõ ràng rằng tất cả Tứ
Tất Đàn(thành tựu) giúp duyên giả danh tự để
nói; không có 4 tánh chấp. Nếu người vui nghe tự
tại cảnh trí; tức là nói cảnh ấy là tự cảnh trí,
là tự trí. Dùng chỗ đã đến nầy, tâm mong mỏi vui
mừng. Hoặc lúc tuyên nghe, tự giác, tự tri; nghe
tất sanh thiện. Hoặc có lúc đối trị , nói tự
sanh cảnh trí. Nói ấy tất phá hoặc. Có lúc nói
nầy làm cho liền ngộ đạo. Nếu không có Tứ Tất
Đàn ích(4 sự thành tựu lớn) thì chư Phật Như Lai
chẳng phải chẳng thuyết pháp. Tuy tạo ra 4 cách
phá hoặc vào đạo; cho nên gọi là vì trí. Trí
nầy chiếu sáng; nên gọi là cảnh. Như thế thông
đạt, liền rõ biết khổ tập đạo diệt. Tam Bảo Tứ
Đế đương nhiên đầy đủ. Nếu dùng trí chiếu cảnh,
nhập không thủ chứng, trở thành chơn đế, lý nội
tư nghì cảnh trí, như trứơc đã nói. Nếu chẳng
dùng quả để chứng. Rõ biết cảnh trí nầy thường
có tên chữ gọi là cảnh trí. Chữ nầy chẳng ở
trong, ngòai, giữa. Chữ nầy chẳng ở yên, lại
chẳng phải chẳng ở. Chữ nầy không sở hữu. Tuy
tạo 4 câu làm sáng tỏ cảnh trí thật, chẳng phân
biệt 4 câu cảnh trí. Tuy tạo 4 câu văn cảnh trí,
thật chẳng được 4 câu cảnh trí. Tuy thể đạt 4
câu cảnh trí, thật chẳng tạo 4 câu tư nghì cảnh
trí. Ngôn ngữ đạo dứt, tâm hành xứ mất. Chẳng
thể 4 câu tư duy mong qua; cho nên gọi là bất tư
nghì cảnh trí. Kim Quang Minh nói rằng: Bất tư
nghì trí chiếu bất tư nghì cảnh trí nầy đầy đủ
như trong Đại Bản Huyền Nghĩa Cảnh Trí Diệu nói
rộng. Long Thọ đầu tiên phá một khác thời gian,
tuy nhiên sau lại giải thích nghĩa của NHƯ THỊ
NGÃ VĂN; nay lọai nầy trước phá lý ngọai cảnh
trí, sau làm sáng tỏ bất tư nghì Tứ Tất Đàn( bốn
thành tựu). Nghĩa của Tất Đàn như nghĩa của Đại
Bổn Huyền. Phàm nương vào tên để làm phương
tiện. Nên trước tiên làm rõ cách quán trí; thứ
đến biện giải âm thanh của cảnh đời. Nếu giải
nghĩa làm phương tiện thì trước làm rõ thế cảnh;
kế đó biện giải quán trí. Như trứơc đây có cảnh
có thể được luận quán. Nếu chưa có cảnh thì lấy
chỗ nào có thể quán; giống như cảnh của cái
trống, phía sau là đánh trống. Nay từ nghĩa
phương tiện; trước làm rõ âm thanh thế gian, sau
luận về quán trí. Thế ấy lại chia làm ba. Một là
ngũ âm thế gian; hai là chúng sanh thế gian; ba
là quốc độ thế gian; liền có thật pháp; tức có
người giả. Giả thật hình thành; liền có chỗ
nương tựa. Ấy gọi là ba lọai thế gian. Thế nầy
cách biệt; tức là thế của 10 pháp giới; lại là
10 lọai ngũ ấm; 10 lọai giả danh; 10 lọai y báo.
Cách biệt chẳng đồng; cho nên gọi là thế vậy.
Thời gian là thời gian sai biệt. Ba mươi lọai
thế gian sai biệt, không tướng hổn lọan; cho nên
gọi là gian. Mỗi mỗi đều có nhơn; mỗi mỗi đều có
qủa; cho nên gọi là pháp; mỗi mỗi có cương giới
phân biệt rõ ràng. Nay thành một pháp giới; lại
có 10 pháp. Cho nên như vậy tướng tánh cứu cánh.
Mười giới tức là 100 pháp. Mười giới tướng hỗ
tương liền thành 1.000 pháp. Như vậy các pháp
tất cả đều là nhơn duyên sanh pháp. Lục đạo là
hoặc nhơn duyên pháp ; Tứ Thánh là giải nhơn
duyên pháp. Đại Kinh nói rằng: Vô lậu lại có
nhơn duyên. Nhơn ấy mất vô minh; tức là chứng
Tam Bồ Đề. Là những nhơn duyên pháp; tức là Tam
Đế. Nhơn duyên sở sanh pháp ta nói; tức là
không. Lại gọi là giả danh; lại gọi nghĩa là
Trung Đạo. Cho nên làm rõ 10 lọai pháp giới; 30
lọai thế gian; tức là chỗ quán cảnh vậy. Cảnh
nầy lại có hai. Đó là tự, tha. Tha ấy nghĩa là
chúng sanh Phật. Tự ấy là tâm đầy đủ; như kinh
Hoa Nghiêm nói: Tâm như người họa khéo, tạo đủ
lọai ngũ ấm. Tất cả trong thế gian; không gì là
không do tâm tạo.
Hỏi rằng: Tự tha kia được mỗi mỗi đầy đủ 10 pháp
giới chăng?
Đáp rằng: Quán thật tướng của thân, quán Phật
lại cũng như thế. Hoa Nghiêm nói rằng: Tâm như
vậy, Phật cũng như vậy. Tâm Phật và chúng sanh
là ba vô sai biệt. Há chẳng phải mỗi mỗi đều đầy
đủ ba đế cảnh sao. Âm ấy tức là 10 pháp giới, cơ
hội của khẩu nghiệp vậy. Giới ấy tức chẳng đồng
với âm, lại có sai biệt.
Hỏi rằng: Chúng sanh mỗi mỗi có ba nghiệp và với
ý gì mà thường Quán Âm?
Đáp rằng: Như Thông(Giáo)luận rằng tất cả đều
được. Thường niệm cung kính, được lìa ba độc;
tức là Quán Thế Âm. Lễ bái cúng dường sở cầu
nguyện mãn; tức là thân Quán Thế , mà nay gọi là
Quan Thế Âm. Cựu dịch nghĩa nầy chia làm 6.
Một là thú lập. Tất cả những tên chẳng thể phiền
đưa ra một hướng để làm tiêu điểm cho tên gọi.
Nếu xưng là thân Quán Thế thì trở lại thắc mắc
lời nói nầy. Ý gì chẳng gọi là Quán Thế Âm; tức
điều nầy chẳng phải hỏi.
Hai là tùy tục. Đức Thích Ca đã nói dùng âm
thanh để làm Phật sự; cho nên gọi là Quán Thế Âm.
Nếu đi đến những nơi khác thì tùy theo kia mà
tuyên dương.
Ba là Hỗ Cử; có thể quán chỗ quán. Chỗ quán tức
là sắc tâm của chúng sanh vậy. Nay từ đó có thể
quán; cho nên thường nói là quán. Có thể nghe
chỗ nghe. Có thể nghe tức là lỗ tai rõ biết của
Thánh Nhơn. Chỗ nghe ấy là âm thânh của
chúng sanh, làm cho chỗ chấp nghe âm thânh ấy.
Đưa ra chỗ nghe được, có thể nghe. Đưa ra có thể
quán được chỗ quán. Từ đấy cho nên gọi là Quán
Thế Âm.
==================
QUAN ÂM HUYỀN NGHĨA
(quyển hạ)
Đời nhà Tùy, Thiên Thai Trí Giả Đại Sư giảng
Môn nhơn Quán Đảnh ghi lại (bằng chữ Hán)
Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng Chùa Viên
Giác Hannover Đức Quốc dịch từ chữ Hán sáng
tiếng Việt tại thư phòng chùa Viên Giác ngày 18
tháng 7 năm 2013.
Phần thứ hai là làm sáng tỏ chữ Quán. Lại chia
ra làm hai. Một là kết thúc cảnh của Thế Âm. Hai
là làm sáng tỏ trí tuệ của năng quán. Kết cảnh
ấy có 6. Một là kết 10 pháp giới là nhơn duyên
cảnh. Hai là Tứ Đế cảnh. Ba là ba đế cảnh. Bốn
là nhị đế cảnh. Năm là nhứt thật đế cảnh. Sáu là
vô đế cảnh. Những điều nầy hiện ra đầy đủ nơi
Đại Bổn Huyền Nghĩa. Thứ hai là làm làm sáng tỏ
việc quán trí. Bàng cảnh làm sáng tỏ trí, tạo 5
lượt, soi tỏ quán trí. Chung nhơn duyên; tức là
4 chỗ nhơn duyên luận quán. Tứ Đế lại có 4 lọai
luận quán. Tam Đế có hai lọai luận quán. Nhị đế
có 7 lọai luận quán. Một thật đế tức là một
luận quán. Không đế tức là vô quán. Như vậy
những nghĩa nầy đầy đủ ở Đại Bổn.
Nay Ước (Giáo) tam đế làm sáng tỏ chỗ quán. Nếu
Thông (Giáo) luận về 10 pháp giới tất cả đều là
nhơn duyên sở sanh pháp thì nhơn duyên nầy tức
là không; tức là giả tức là trung. Tức không
nghĩa là chơn đế; tức giả là tục đế; tức trung
nghĩa là Trung Đạo đệ nhất nghĩa đế. Nếu Biệt
(Giáo) thì luận về lục đạo giới, là nhơn duyên
sanh pháp. Nhị Thừa giới là không; Bồ Tát Giới
là giả; Phật giới là Trung. Luận cảnh có hai ý.
Nay đối cảnh làm sáng tỏ chỗ Quán; lại cũng có
hai ý. Một là thứ đệ tam quán ; hai là nhất tâm
tam quán. Thứ đệ nghĩa là như Anh Lạc nói: Từ
giả vào không; gọi là Nhị Đế Quán. Từ không nhập
vào giả; gọi là Bình Đẳng Quán. Nhị quán là
phương tiện; được nhập vào Trung Đạo đệ nhất
nghĩa đế quán. Ba quán nầy tức là Đại Phẩm đã
làm rõ nơi ba trí. Một là nhứt thiết trí; rõ
biết tất cả nội pháp nội danh; tất cả có thể rõ,
có thể giải. Tất cả các pháp ngòai cách gọi, có
thể rõ biết, có thể giải. Thường chẳng thể dùng
mà tất cả đạo, khởi tất cả lọai. Cho nên gọi là
nhứt thiết trí. Hai là đạo chủng trí, có thể rõ
biết tất cả đại chủng sai biệt; liền phân biệt
giả danh; chẳng sai lầm. Cho nên gọi là đạo
chủng trí. Ba là nhứt thiết chủng trí, có thể
đối với một lọai trí, rõ biết tất cả đạo trí tất
cả lọai. Một tướng diệt đi, tướng chủng chủng
hạnh lọai, có thể rõ biết có thể giải bày; gọi
là nhứt thiết chủng trí. Thông (Giáo) mà luận về
quán trí thì khác với điều nầy. Biệt (Giáo) mà
qua mục nhơn thì gọi quả của quán ấy là trí.
Đây là ba quán trí; tức là Đại Kinh 4 lọai 12
nhơn duyên quán. Hạ, trung, thượng, thượng,
thượng.
Niết Bàn qua sự chia chẻ pháp, làm rõ nơi bốn
quán. Đại Phẩm Anh Lạc gặp ngay Ma Ha Diễn (Đại
Thừa), rồi làm rõ ba quán, ba trí. Nay nếu khai
hai kinh cùng với Niết Bàn thì nên khai Diễn
Pháp; từ giả nhập vào không, quán sanh diệt tất
cả trí. Nếu hợp Niết Bàn với hai kinh; hợp hạ,
trung nhị quán; đồng là nhứt thiết trí. Nếu cùng
với ba kinh vừa khai vừa hợp; đối với ngũ nhãn
thì ngũ nhãn, nhục nhãn chiếu các việc thô tế;
tất cả đều là thế trí. Tất vì các quán
cảnh bổn. Nếu ba quán ba trí từ những điều nầy;
tức là nhập thể pháp nhứt thiết trí. Nếu tứ quán
tứ trí nầy; tức là vào chiết pháp nhứt thiết
trí; cho nên nhục nhãn, thiên nhãn là căn bản.
Nhập vào nhứt thiết trí đối với huệ nhãn; đạo
chủng trí đối với pháp nhãn; tất cả chủng trí
đối với Phật nhãn. Trong bài kệ nhơn duyên của
Trung Luận có nói về sở sanh pháp một câu, vì
quán trí làm căn bản. Ba câu đối ba trí. Nếu gặp
ba quán trí đối với 4 giáo; tức liền khai mở như
trước. Nếu cùng Niết Bàn đối với tứ giáo. Hạ trí
là sanh diệt nhứt thiết trí đối với ba tạng
giáo. Trung trí là thể pháp nhứt thiết trí; đối
với Thông Giáo vậy. Thượng trí tức là đạo chủng
trí đối với Biệt Giáo. Thượng thượng trí tức là
nhứt thiết chủng trí đối với Viên Giáo. Do vậy;
nên làm sáng tỏ tam quán. Vậy thì những gì đối
với Tứ Giáo (Ước, Biệt, Thông, Viên); nếu không
giáo tức không quán. Giáo kia tu quán được thành
nơi trí. Cho nên làm rõ giáo vậy. Giáo ấy tất có
chủ. Có chủ tức là Phật; hoặc có thể một Phật
nói Tứ Giáo; hoặc có thể hiển thị tứ tướng làm
rõ tứ Phật.
Tứ Giáo ấy lại có Tứ Chủ; tức là sẽ có tứ bổ xứ;
tức là bốn lọai Bồ Tát giúp cho Phật hoằng
truyền tứ giáo nầy. Nếu nói các pháp tịch tĩnh
thì tướng ấy chẳng thể dùng để nói hay tuyên
thuyết. Đại Kinh nói rằng:
Sanh sanh chẳng thể nói; cho đến chẳng sanh,
chẳng sanh lại chẳng thể nói. Một lời dạy chẳng
thể nói thì vì sao lại có 4?
Đáp rằng: Lý luận thật như vậy; tất cả đều chẳng
thể nói. Tùy duyên lợi vật có nhơn duyên; cho
nên lại chẳng thể được nói. Chẳng hay sanh, sanh
có thể nói; cho đến chẳng sanh, lại có thể nói .
Dùng lời dạy của Phật để ra khỏi khổ sanh tử.
Tam Tạng dạy rằng: như thích luận dẫn chứng Ca
Chiên Diên Tử làm rõ nghĩa Bồ Tát. Đức Thích Ca
đầu tiên vì người thợ làm đồ gốm mà nhớ lại lời
phát nguyện của Phật Thích Ca ngày trước. Từ đó
trở đi bắt đầu phát tâm Bồ Tát. Tức là kẻ ấy
muốn cầu Bồ Đề; nên gọi là vì pháp. Sâu lìa khổ
tập, vui cầu Diệt, Đạo. Tức là khởi lên tâm từ,
thệ độ tất cả. Hành hạnh lục độ. Hạnh nguyện
tương ưng để làm vơi đi sự khổ và mang đến niềm
vui. Vì sao vậy? Vì keo kiệt làm cho tập đọa lạc
vào ngạ quỷ; nên nói là khổ. Thực hành Đàn (Bố
Thí) gọi là đạo; xan tham dứt; gọi đây là diệt.
Bồ Tát tự hàng phục sự keo kiệt tham lam, bi tâm
huân tập; chúng sanh gọi tên; tức là có thể
thóat khổ. Tự thực hành đàn thí với tâm từ bi
huân tập thì vật ấy có thể độ; tức là có thể thị
hiện làm cho được an lạc. Nên biết rằng vì đầy
đủ thệ nguyện mà tu hạnh bố thí vậy.
Cho đến kẻ ngu si gọi tập sanh thiên, nói là
khổ. Tu huệ gọi là đạo, si kia lại diệt. Tu huệ
lúc qua khỏi tự phá khổ tập làm thành tâm bi,
dùng để cứu gíup chúng sanh. Chúng sanh xưng
danh tức được giải thóat. Tự chứng đọan diệt,
dùng làm tâm từ, để huân tập chúng sanh. Chúng
sanh có cơ duyên cảm ứng được độ. Cho nên rõ
biết việc làm ấy ở nơi nguyện. Việc làm là lục
độ, mỗi mỗi đều luận riêng biệt.Thi Tỳ Đợi Cáp
là Đàn (Bố Thí) đầy đủ. Tu Ma Đề chẳng nói dối
là Thí (Giới) đầy đủ. Ca Lợi Vương cắt tiệt
(thân thể) chẳng động; đó là nhẫn đầy đủ. Thí
lớn vào biển là tinh tấn đầy đủ. Nơi Xà Lê tọa
thiền là Định đầy đủ. Cu Tần Đại Thần phân chia
đất đai là Bát Nhã đầy đủ. Như vậy sự tu hành
cho đến Sơ Tăng Kỳ kiếp. Chẳng rõ làm Phật,
chẳng làm Phật. Đệ nhị Tăng kỳ tâm rõ làm Phật;
miệng chẳng nói làm Phật. Đệ tam Tăng Kỳ tâm rõ
miệng nói. Qua khỏi ba tăng kỳ rồi lại đến trăm
kiếp chủng tướng. Trăm phước phàm dùng 3.200
phước tu thành. 32 tướng được hiện, lúc ấy gọi
là Bồ Tát Ma Ha Tát. Hay hàng phục hoặc, chẳng
đọan; như không phải dê béo phì. Chấp thế trí vì
Bát Nhã; tức là ý nầy. Dùng điều nầy Bồ Tát thực
hành đối với Thanh Văn hành vị. Sơ Tăng Kỳ có
thể đối với tổng biệt niệm xứ. Nhị Tăng Kỳ có
thể đối với nõan pháp. Tam Tăng Kỳ có thể đối
với Đãnh Pháp. Bách kiếp chủng tướng có thể đối
với Nhẫn Pháp. Ngồi nơi đạo tràng có thể đối với
thế đệ nhất. 34 tâm đọan kết, thành Phật; tức là
đối với 16 tâm phát chơn; cho đến 9 giải thóat
vô học vậy.
Lúc bấy giờ trên Tọa Đạo Tràng 34 tâm đọan hoặc.
Chánh tập đều hết; gọi là Tam Tạng Phật. Cho nên
Thích Ca tinh tấn, đệ tử đôn thục. Dùng tinh tấn
cho 9 kiếp trước qua khỏi 8 tướng thành đạo
Phật. Đây chính là Tam Tạng Giáo Chủ, hay nói
giáo môn. Ở trong đây nằm tại nơi bổ xứ hằng
trăm kiếp. Các tướng phục hoặc ở thân sau cùng.
Lục độ hạnh thành, thệ nguyện sẽ đầy đủ. Từ bi
huân tập nơi chúng sanh, bạt khổ cùng lạc. Nếu
cùng biện giải về việc nầy thì là nhơn duyên
sanh pháp, thế trí minh quán; tức là Tam Tạng
giáo, nghĩa Quan Thế Âm vậy.
Hỏi rằng: Nương vào Tam Tạng nói Thích Ca Di La
đồng thời phát tâm. Một qua khỏi 9 kiếp, còn ý
gì mà hai Phật đều thành Phật ở Hiền Kiếp?
Đáp rằng: Thích Ca gặp Phật Sa Túc trăm kiếp. Di
Lặc gặp chư Phật hà tất phải đủ 91 kiếp sao? Nếu
như vậy tức là không phải nghĩa trăm kiếp. Sự
trả lời về pháp môn nầy tức là có 100 kiếp; dùng
lực tinh tấn truyền ra nhiều hơn. Như Đại Phẩm
nói rõ rằng: Tam thừa của con người giống như đệ
nhất nghĩa đế, không dùng lời để nói đạo. Đọan
trừ phiền não, nhập vào Niết Bàn. Cùng duyên một
lý, dùng quán đọan hoặc để thông. Lại gọi cùng
với lời dạy của Bát Nhã. Việc nầy cùng với Tam
Tạng sai biệt. Thích Luận đả phá và nói rằng: Há
dùng tâm chẳng tịnh để tu hạnh Bồ Tát; giống như
đồ độc dùng đựng thức ăn. Ăn xong người bị hại.
Đàn (Bố Thí) có thượng, trung, hạ; nghĩa là xả
bỏ tài sản thân mệnh . Dũng sĩ liệt nữ đều có
thể xả bỏ. Thế nào là xả bỏ bậc trung ; gọi là
bố thí đầy đủ? Trung Đàn(bố thí trung bình) thì
gọi là thí không phải Ba La Mật. Chẳng thấy
mình,người, tài vật ba việc ấy tất cả đều không
phải keo kiệt, (nếu chẳng vậy)chẳng phải là
thí. Đây là chơn đàn Ba La Mật. Cho đến phi ngu,
phi trí, vô trước không huệ; gọi chơn Bát Nhã,
chẳng chấp thế trí.
Luận rằng: nếu chẳng tin không, tất cả đều sai
quấy. Nên rõ chỗ tu của ngươi tất cả đều chẳng
cùng với lý tương ưng. Nếu tin tất cả các pháp
đều không ở tất cả những chỗ tạo tác. Do chỗ
dùng không ấy cho nên có thể thành tất cả các
pháp. Vậy rõ rằng nếu được không huệ thì có thể
đầy đủ tất cả pháp vậy. Lại nữa Bồ Tát vô lượng
kiếp số tu hành, sao chỉ ba A Tăng Kỳ. Như thế
các lọai phá bỏ Tam Tạng bị thất bại. Dùng hiển
Ma Ha Diễn, phần giữa sẽ thông được ý dạy bảo.
Đại Phẩm nói rằng: Bồ Tát phát tâm cùng vớt Tát
Bà Nhược (Bát Nhã) tương ưng. Đây chính là quán
chơn, đọan kết, cùng với lý tương ưng vậy. Phát
tâm xong rồi liền quán chơn, đọan kết, liền gọi
là Bồ Tát. Tức là giả nhơn vậy. Lại nữa quán
chơn tức là pháp nầy vậy. Thường cùng từ bi đều
khởi. Tự đọan khổ tập, tu đạo diệt. Lại dùng từ
bi thệ nguyện đọan tất cả chúng sanh khổ tập,
cùng với đạo diệt nầy. Thế đạt các pháp như
huyễn như hóa, bất sanh bất diệt. Ba việc đều
mất để thực hành Đàn (Bố Thí). Cho đến tất cả
pháp không chỗ đắm; gọi là Bát Nhã. Các hạnh nầy
trấn giữ lời nguyện; tức là có thể phá tứ trụ
hoặc, thấy đệ nhất nghĩa; tức là có ba thừa cùng
vói Thập Địa. Đó là Càng Huệ cho đến Phật Địa.
Nếu đến Thập Địa nầy đối với Thanh Văn thì Càng
Huệ Địa đối với tổng biệt niệm xứ. Tánh Địa đối
với tứ thiện căn vị. Bát nhơn địa đối với bát
nhẫn. Kiến địa đối với sơ quả. Bạc địa đối với
Nhị quả. Ly dục địa đối với tam quả. Biện địa
nầy đối với tứ quả. Chi Phật địa tự, đối với chi
Phật vị. Bồ Tát địa từ đây ra giả phương tiện.
Đạo quán song lưu, đọan chánh xâm tập, đến cùng
Phật địa. Cho nên luận rằng: Người nầy phiền não
hết; nhưng tập (quán) chẳng hết. Dùng sự thệ
nguyện để giúp cho tập sanh lại nơi ba cõi, làm
lợi ích chúng sanh, thanh tịnh quốc độ Phật. Há
cùng với Tam Tạng Bồ Tát hàng phục hoặc, hành
lục độ hạnh sao? Bồ Tát tu hạnh nầy đọan hoặc
trừ những gì còn sót lại chưa hết; giống như làn
khói nhỏ. Từ Bi năm đường thị hiện độ sanh.
Chúng sanh hoặc xưng danh; hoặc cảm thấy; tức có
thể bạt khổ cùng lạc giải thóat được độ.
Điều nầy Thông Giáo thể giả nhập vào không
quán. Lại gọi là nhứt thiết trí; tức là nghĩa
của Thông Giáo Quán Thế Âm. Biệt Giáo thì khác
với Thông. Biệt (Giáo) làm sáng tỏ chẳng cùng
với Bát Nhã; cho nên nói là biệt vậy. Giáo nầy
chỉ làm sáng tỏ Trung Đạo. Vì người căn cơ chậm
lụt; nên phương tiện để nói. Lần lượt hiển lý
rộng, làm sáng tỏ trải qua các kiếp tu hành. Cho
nên Đại Phẩm nói rằng: Có Bồ Tát từ sơ phát tâm
du hí thần thông tịnh Phật quốc độ. Kế đến tu
tập hằng hà sa pháp môn gíup hiển lý trung (đạo)
nầy. Phía trứơc tứ trụ; kế đến phá trần sa, sau
đó phá vô minh.
Thập Tín thông phục các hoặc mà chính là phục tứ
trụ. Thập trụ lại là thông phục các hoặc. Mà
chánh đọan tứ trụ thành nhứt thiết trí. Thập
hạnh xuất giả; đọan vô trí, thành đạo chủng trí
cùng phục giới ngọai trần sa. Thập hồi hướng
đọan giới ngọai trần sa, thành đạo chủng trí
chánh tu trung đạo, hàng phục vô minh. Thập địa
đoạn trừ vô minh, thấy Phật tánh. Thành nhứt
thiết chủng trí. Giống như đốt vàng, trần cấu
trước tiên biến mất, sau đó là vàng ròng. Lần
lượt đọan kết lại cũng như vậy. Bồ Tát phát tâm
nầy giữ pháp từ bi để tu hành. Tự đọan vô minh,
thành tựu chơn ứng. Đại thệ từ bi huân tập nơi
pháp giới. Chúng sanh có cảm, liền bạt khổ được
vui. Đây là từ không xuất giả, quán đạo chủng
trí. Nghĩa của Quán Thế Âm thuộc Biệt Giáo vậy.
Viên Giáo thì chánh hiển Trung Đạo nầy che chở
nơi hai bên; chẳng phải không mà cũng chẳng phải
giả; chẳng trong mà cũng chẳng ngòai để quán 10
pháp giới chúng sanh. Như ảnh trong kính, trăng
trong nước. Chẳng ở bên trong mà cũng chẳng ở
bên ngòai. Chẳng có nghĩa có mà cũng chẳng có
nghĩa không. Kết cuộc chẳng thật mà là lý của
Tam Đế đương nhiên đầy đủ. Không trước chẳng
sau; chỉ ở nơi tâm; tức là một mà luận ba. Tức
ba mà luận một. Quán trí cũng như vậy; đế lý lại
cũng thế. Một Đế tức là ba Đế. Ba Đế tức là một
Đế.
Đại Phẩm nói rằng: Có Bồ Tát từ lúc mới phát
tâm; liền ngồi nơi Đạo Tràng chuyển pháp luân,
độ chúng sanh. Tức ở nơi sơ tâm ấy đầy đủ quán
tam đế tất cả Phật Pháp. Vô duyên từ bi ở nơi
tâm , đầy đủ tu vạn hạnh các Ba La Mật. Nhập vào
Thập Tín bao quanh rồi, có thể lâu dài rời xa
biển khổ luân hồi. Tứ trụ hoặc hết, sáu căn
thanh tịnh; tên là tợ giải. Tiến nhập vào Thập
Trụ với bánh xe đồng lúc sơ tâm; tức là phá vô
minh; khai phát thật tướng tam trí hiện tiền.
Được Như Lai một thân vô lượng thân trạm nhiên
ứng với tất cả. Tức là mở Phật tri kiến, bày ra
việc ngộ nhập vậy. Câu văn nói rằng: Chánh trực
xả bỏ phương tiện, hay nói vô thượng đạo. Lại
nói rằng: Nay sẽ vì ngươi nói việc tối thật. Tức
là Viên Giáo Nhứt Thật Đế tam quán tại nơi tâm
vậy.
Đại Phẩm nói rằng: Nếu nghe chữ A; tức liền rõ
tất cả nghĩa. Đại Kinh nói rằng: Phát tâm cứu
cánh hai không riêng biệt; như thế hai tâm trước
tâm khó; cho nên kỉnh lễ sơ phát tâm; tức là
nghĩa nầy vậy. Trong nầy tri kiến hay gọi là
Phật tri kiến; tức là nhứt thiết chủng trí, rõ
Phật nhãn kiến. Phật nhãn kiến, Phật trí tri.
Chẳng phải chẳng chiếu liễu dư pháp. Từ ấy mà
gọi tên. Giống như những dòng nước đổ vào biển,
mất căn cội, gọi chữ như thế. Đại Luận nói rằng:
Thập Trí vào như thật trí; lại chẳng còn tên
gốc. Nên xưng là như thật trí. Nhãn lại cũng như
vậy. Ngũ nhãn đầy đủ thành Bồ Đề. Mà nay hay gọi
là Phật nhãn. Đại Kinh nói rằng: Kẻ học Đại Thừa
tuy có nhục nhãn mà gọi là Phật nhãn. Còn nếu
gọi ngôn ngữ nầy, người tu Tiểu Thừa thì tuy có
huệ nhãn mà vẫn gọi là nhục nhãn. Nếu được như
lời giải nầy thì gọi là Viên Giáo nhơn pháp. Ứơc
(Giáo) không tạo Tứ Đế để khởi vô duyên từ bi.
Tu bất nhị định huệ, thành chơn, ứng hai thân;
chơn biến pháp giới; Dược Châu phổ ứng khắp cả.
Ngang đấy dừng lại minh hiển lưỡng lợi, dùng vô
khuyết bảo tạng Kim Cang Bát Nhã. Bạt căn bản,
cứu cánh giải thóat. Dùng Thủ Lăng Nghiêm pháp
giới kiến tướng cùng với ba điểm Niết Bàn, đại
tự tại lạc. Đây gọi là Trung Đạo đệ nhất nghĩa
đế, quán tất cả các trí. Đây là nghĩa của Viên
Giáo Quán Thế Âm vậy.
Hỏi rằng: Quán nầy là quán chúng sanh, phi không
phi hữu thì lấy cái gì để hành hạnh từ bi?
Đáp rằng: Như tịnh tên Trung Thuyết.
Hỏi rằng: Nếu quán thập pháp giới phi không phi
giả; tức là phá tất cả nhơn quả sao?
Đáp rằng: Nếu chẳng rõ Trung Đạo tức chẳng hiểu
về phi quyền phi thật. Lại vô quyền vô thật tức
là chẳng phải tứ phiên nhơn quả. Nếu làm rõ
Trung Đạo; tức là quyền thật đều cùng chiếu tỏ;
được có ba lọai quyền Tứ Đế khổ tập nhơn quả, ba
loại đạo diệt nhơn quả. Cho đến một thật vô tác
Tứ Đế, thế xuất thế nhơn quả. Hiển nhiên đầy đủ
ở một niệm nơi tâm. Vì sao vậy? Vì dùng thật
tướng huệ giác rõ biết các pháp phi không
phi hữu. Cho nên gọi là Phật Bảo. Chỗ giác pháp
tánh về lý tam đế đầy đủ. Tức là Pháp Bảo. Như
giác huệ nầy cùng với lý sự hòa hợp gọi là Tăng
Bảo. Sự hòa tức có 3 điều dạy bảo của Hiền Thánh
Tăng. Cùng với Lý hòa tức là có Viên Giáo 42
Hiền Thánh Tăng. Cho nên Đại Kinh lấy cả hai để
dụ về ánh sáng mặt trăng tăng giảm để đưa ra.
Trước ngày 15 theo Ứơc (Giáo) luận thì ánh sáng
tăng; sau ngày rằm thì mặt trời theo Ứơc
(Giáo) luận về ánh sáng giảm. Tuy nhiên tánh
thật của mặt trăng thì chẳng méo tròn. Trước sau
đều do vọng tưởng chẳng thể chẳng đổi thay. Tánh
của mặt trăng tròn dụ cho thật tướng. Ánh sáng
chiếu tỏa tăng giảm là dụ cho trí đọan. Trí ấy
tăng tức là các pháp chẳng sanh, mà Bát Nhã
sanh. Đọan ánh sáng giảm tức là các pháp chẳng
mất mà phiền não diệt. Đại Kinh lại gọi vô minh
là sáng. Cho nên rõ biết dùng dụ tà thì ánh sáng
mất vậy. Như vậy sự tăng giảm mỗi ngày đều có.
Những trí nầy đọan địa địa, tất cả đầy đủ. Nếu
15 ngày thể tròn sáng đầy đủ; tức là mặt trăng
chẳng lại sáng tròn đầy; chẳng phải hơn lên. Thí
dụ Trung Đạo nầy, lý cực Bồ Đề trí đầy đủ. Cho
nên nói chẳng sanh, chẳng sanh; gọi là Đại Niết
Bàn. Nếu 30 ngày mà thể tận hết ánh sáng, tuyệt
nhiên không còn thì dụ vô minh nầy đã đảo lại
tà, vĩnh trừ không hoặc, có thể đọan. Cho nên
gọi là chẳng diệt, chẳng diệt; gọi là Đại Niết
Bàn.
Đầu tiên ba ngày mặt trời, mặt trăng ấy tức là
dụ cho 30 tâm, trí đọan. Kế đến 10 ngày đầu, mặt
trăng ấy dụ cho Thập Địa trí dứt. Ngày 14 mặt
trăng ấy dụ cho Đẳng Giác trí đọan. Ngày 15 mặt
trăng dụ cho Diệu Giác trí đọan. Nhơn Vương,
Thiên Vương cùng Bát Nhã dùng ngày 14 dụ cho 14
Bát Nhã; tức là ở ý nầy. Như đây làm sáng tỏ
Tăng Bảo trí đọan; tất cả Ước (Giáo) Trung Đạo,
một thật tướng pháp. Tất cả nhân quả không chỗ
phá mất. Nếu chẳng rõ Trung Đạo phi không, phi
giả thì hay tính đọan thường; tức là phá sanh
diệt Tứ Đế, thế xuất thế nhơn quả. Phá Tam Tạng
Tam Bảo. Nếu hay nói vô thường sanh diệt tức là
phá vô sanh Tứ Đế Thông Giáo Tam Tạng. Nếu hay
nói thể pháp bất sanh bất diệt chơn đế thì tức
là phá vô lượng Tứ Đế Biệt Giáo Tam Bảo. Nếu hay
nói thứ đệ hiển phi không phi giả thì điều nầy
lại phá Viên Giáo vô tác Tứ Đế nhứt thể Tam Bảo.
Truyền truyền tứơng vọng, trước chỗ phá mất
nhiều. Sau chỗ phá mất ít. Có thể dùng được ý.
Hỏi rằng: Nếu Viên (Giáo) tu thật tướng nhất
pháp, tam đế nhứt tâm, tam quán đầy đủ các pháp,
lại ứng với một giáo bốn thì giải thích rõ ràng
nơi Viên Giáo, liền đầy đủ, sao lại còn dùng đến
tứ giáo như trước để phân chia?
Đáp rằng: Chương bên trên đã nói về thứ đệ tam
quán, nhứt tâm tam quán. Làm rõ lời dạy lại có
hai. Nếu một lời dạy của Viên (Giáo) giải thích
rõ ràng tất cả các pháp là giúp cho người lợi
căn và nếu tứ giáo ấy sai biệt với kẻ độn căn
thì chẳng giả dần dần phân biệt . Viên Đốn do
điều gì có thể giải. Dùng Biệt (Giáo) để hiển
Viên; cho nên đầu tiên làm rõ Tứ Giáo (Ước,
Thông, Biệt, Viên). Tuy nói đủ lọai đạo; kỳ thật
chỉ vì Nhứt Thừa. Lại nữa ở nơi Như Lai các pháp
sâu xa nhiều để chỉ cho giáo lý ấy làm lợi lạc
hoan hỷ. Dư pháp tức là ba phương tiện dẫn đạo,
lộng dẫn khai mở không pháp đạo. Nếu nhập Phật
huệ phương tiện thì không dùng; cho nên nói rằng
duy chỉ điều nầy là thật; còn ngòai hai tức là
chẳng phải chơn. Nên phải rõ về một Viên Đốn
giáo, tất cả chủng trí Trung Đạo chánh quán. Duy
chỉ có điều nầy mới là thật Quan Thế Âm. Ngòai
ra tất cả đều là phương tiện để nói. Lại nữa nếu
có chỗ nói quyền, nói thật; tất cả đều là phương
tiện. Phi quyền phi thật, ngôn ngữ đạo đọan, tâm
hành xứ diệt, chẳng thể nói rõ được.Bất sanh,
bất sanh diệu ngộ khế lý phương; gọi đây là
chơn. Điều nầy lại chẳng thật mà có thể thật. Kế
đến làm rõ quán tâm.
Phàm tâm nguyên bổn tịnh, vô vi, vô số; phi nhất
phi nhị; vô sắc, vô tướng; chẳng méo, chẳng
tròn. Tuy lại giác tri mà lại vô giác tri. Nếu
niệm mà chưa niệm bốn lần kiểm tâm rốt ráo không
thể được; há có thể lần lượt chẳng lần lượt quán
méo, tròn sao? Giống như hư không, sánh không có
khác. Tâm tánh nầy cứu cánh vô tâm. Lúc có nhơn
duyên lại được minh tâm. Liền luận về tâm; tức
là có phương tiện, nghĩa chánh quán. Dụ như hư
không, lại có âm dương hai lúc. Tâm lại cũng như
vậy. Tuy không méo, tròn mà luận tiệm đốn. Nếu
tạo lần lượt quán tâm tức là ý phương tiện lần
lượt tiệm vậy. Nếu quán tâm có đầy đủ tánh đức
tam đế, tánh đức tam quán cùng với tất cả pháp
thì không trước, không sau, không có lần lượt đệ
nhất niệm đầy đủ.
Thập pháp giới pháp, ngàn lọai tánh tướng nhơn
duyên sanh pháp; tức không; tức giả; tức trung.
Ngàn lọai tam đế vô lượng vô biên pháp nhứt tâm
tất nhiên đầy đủ. Điều nầy tức là chẳng phải thứ
đệ quán vậy. Hoa Nghiêm nói rằng: Trong tất cả
thế gian, chẳng có cái gì là không từ tâm tạo.
Tâm như người họa sĩ, tạo ra đủ lọai ngũ ấm. Nếu
quán tâm không, từ tâm sở tạo; tất cả đều không.
Nếu quán tâm có; từ tâm sở sanh, tất cả đều có.
Tâm nếu định hữu, chẳng thể làm cho không. Tâm
nếu định không; chẳng có thể làm cho có. Dùng
bất định không; không ấy tức là phi không. Dùng
bất định hữu; hữu ấy tức phi hữu. Phi không phi
hữu cả hai đều nhị biên; gọi là Trung Đạo. Nếu
quán tâm phi không phi hữu; tức tất cả từ tâm
sanh pháp; lại phi không phi hữu. Như vậy tất cả
các pháp ở tại tâm. Nếu hay quán tâm được như
vậy thì gọi là thượng thượng quán, được chư Phật
Bồ Đề. Tịnh Danh gọi quán thân thật tướng, quán
Phật lại cũng như thế. Quán thân tướng liền cùng
nơi Phật quán tâm tướng; lại cùng ở nơi Phật..
Hoa Nghiêm nói rằng: Tâm Phật và chúng sanh là
tam vô sai biệt. Phải rõ quán tâm nầy nguyên
thủy cùng với Như Lai. Nếu tạo dư quán, quán
tâm; tất cả đều là phương tiện; gọi là tà quán.
Nếu làm như Viên quán thì gọi là chơn thật chánh
quán; tức là khai Phật tri kiến, ngồi nới chỗ
ngồi của Như Lai. Như từ bi nầy tức là vào nhà
của Như Lai. An nhẫn nơi pháp; tức là mặc áo của
Như Lai. Tu huệ quán nầy tức là trang nghiêm Như
Lai. Người nầy hành, trụ, tọa, ngọa tất cả đều
nên xây tháp. Sanh tưởng Như Lai như thế ấy thì
quán tâm nầy gọi là quán Phật tâm.
Phần thứ hai làm rõ chữ Phổ Môn. Lại có hai. Một
là thông đồ minh môn, có giải thích hai lần mười
nghĩa. Thông sáu ý. Một là lược liệt môn danh;
hai là chỉ ra môn tướng; ba là làm rõ quyền
thật; bốn là làm rõ Phổ cùng chẳng Phổ. Năm là
Ước 4 tùy. Sáu là làm rõ quán tâm.
Liệt Môn nghĩa là: Thông từ thế gian như người,
cửa ngõ thông với phòng để đồ tốt xấu. Phàm ở
ngoài thì dùng thập ác ngũ nghịch làm cửa. Thông
với phòng là tam đồ. Thăng cao thanh tịnh dùng
năm giới, thập thiện, tứ thiền, tứ định để làm
cửa ngõ; thông đến cả người, trời. Ngọai đạo
dùng đọan thường làm cửa; thông đến hoặc khổ. Ái
dùng tứ đảo (điên đảo) làm cửa ngõ. Kiến dùng tứ
cú làm cửa ngõ. Thiện ác chỉ đặc thù hạn chế mà
nói. Đầy đủ có cửa của lậu thế gian. Thông đến
sanh tử như vậy. Nếu gom Phật pháp để luận về
cửa ngõ lại có nhiều lọai. Tam Tạng tứ môn,
thông có dư, vô dư Niết Bàn. Thông Giáo tứ môn
gần với thông hóa thành, xa thông với thường
trụ. Biệt giáo tứ môn dần thông với thường trụ.
Viên giáo tứ môn đốn thông với thường trụ. Đây
chính là 446 giáo môn. Lại có 16 quán môn. Hợp
thành 32 cửa. Có thể thông với phân biệt; tướng
nầy ở tại Đại Bổn Huyền. Hai là chỉ bày tướng
của cửa. Ba tạng tứ môn; cho nên A Tỳ Đàm có cửa
nầy. Thành thật là không môn; Hổn Lặc lại không,
lại có môn. Xa Nặc phi không, phi hữu môn. Mỗi
mỗi rộng làm sáng tỏ pháp hành, phán quyết địa
vị của hiền thánh. Do cửa thông lý, thông giáo
tứ môn. Nghĩa là có ấy như huyễn; không ấy như
huyễn; lại không lại có; chẳng không chẳng có.
Mỗi mỗi tạo hành tướng; phán quyết ngôi vị Thánh
Hiền. Do cửa thông lý; biệt giáo tứ môn. Quán
Phật tánh như phòng tối đầy gạch ngói; tức là có
cửa. Quán Phật tánh như không có thành Ca Tỳ La;
không ấy tức là vô môn vậy. Quán Phật tánh như
vàng trong đá; người có phước được của; kẻ có
tội chỉ thấy đá. Đây lại có, lại vô môn. Quán
Phật tánh lìa nhị biên; tức là Trung Đạo. Phi
hữu phi vô môn. Mỗi mỗi hành tướng sắp đặt ngôi
vị do môn thông lý. Viên Giáo tứ môn gọi chẳng
sai biệt. Chẳng những một cửa mà là ba cửa. Ba
cửa ấy tức là một cửa. Chẳng phải một, chẳng
phải bốn; không trải qua sự phân biệt đặc thù.
Viên dùng không bốn mà bốn. Mỗi mỗi phán quyết
tư nghì hành vị tứơng. Do môn thông với lý.
Nghĩa nầy tất cả đều ở nơi Đại Bản.
Kế tiếp luận về những cửa quyền thật; thường
chẳng thể ra khỏi ba cõi. Tam Tạng Thông, Giáo,
Giáo quán. 16 môn có thể thông chỗ thông; tất cả
đều là quyền. Biệt Giáo giáo quán có thể thông;
quyền nầy chỗ thông là thật. Viên Giáo giáo quán
8 môn có thể thông chỗ thông; tất cả đều là
thật. Luận đầy đủ tại nghĩa đen kia. Kế đến làm
rõ Phổ và chẳng Phổ. Nếu là phàm phu ngọai đạo
thấy yêu thích các môn, thường chẳng thể ra khỏi
ba cõi. Hà huống là Phổ. Tam Tạng thông giáo;
tuy thông hóa thành; lại cũng chẳng phải Phổ.
Biệt giáo tiệm thông; lại nghĩa phi Phổ. Chỉ có
Viên Giáo giáo quán thật tướng pháp môn; có thể
biến thập pháp giới. Ngàn tánh tướng tam đế một
lúc viên thông. Viên thông Trung Đạo song chiếu
nhị đế. Riêng xưng là Phổ Môn.
Lại như gọi tịnh trong thuyết bất nhị môn thì
sanh tử Niết Bàn là hai. Chẳng nương vào sanh
tử, chẳng nương vào Niết Bàn; nên gọi là bất
nhị. Lại cũng chẳng phải một. Vì sao thế? Trừ
khỏi hai, mà ở tại một. Một ấy đối lại chẳng
phải một mà trở lại thành hai. Há gọi là bất nhị
sao? Nay chẳng ở hai; cho nên nói chẳng phải
một, chẳng phải hai. Lại gọi là chẳng có, chẳng
không. Chẳng có là phá giả. Chẳng không là phá
không. Chẳng có là phá hai. Chẳng không là phá
một. Nếu như vậy thì nên ở tại Trung Đạo, mà
Trung Đạo lại không. Đại Kinh nói rằng: Minh
cùng vô minh tánh nầy chẳng hai. Tánh chẳng hai
ấy tức là Trung Đạo. Trung Đạo ấy không đối với
nhị biên; không nầy lại cũng không; cho nên nói
là không không không. Gọi là chẳng thể được
không. Đây là nhập bất nhị pháp môn. Tức là Viên
Giáo thành không môn, biện giải ý Phổ Môn vậy.
31 Bồ Tát mỗi vị đều nói bất nhị môn. Văn Thù
nói vô thuyết làm bất nhị môn. Tịnh Danh(Duy Ma
Cật) Đỗ Khẩu làm bất nhị môn. Tìm câu văn vi tế
kia tất cả đều có nghĩa tứ môn. Có Ngài chú
thích rằng: các vị Bồ Tát trải qua những lời
nói, pháp tướng; tức là có môn. Văn Thù nói vô
ngôn; đây tức là không môn. Tư Ích ( Phạm Thiên)
nói tất cả các pháp chơn chánh, tất cả pháp tà;
lại là ý Phổ Môn. Tâm vào các pháp giới như hư
không. Lại là không, lại là có môn. Tịnh Danh
mặc nhiên; tức là phi không phi hữu môn.
Đại Phẩm 42 tự môn, đầu chữ A, sau chữ Trà; giữa
có 40 chữ. Tất cả đều là những chữ công đức. Đây
lại là bất nhị Phổ Môn. Ở phần trên của Phẩm
Phương Tiện nói trí huệ môn nầy khó giải khó
nhập. Thí Dụ nói rằng: Tuy có một cửa, mà lại là
cửa hẹp. Chúng đều làm sáng tỏ thật lý của môn.
Tất là ý Phổ Môn vậy. Tứ tùy quán tâm tất nhiên
tại đại bổn. Hai là riêng biệt giải thích Phổ
Môn; cho đến lý ấy chẳng có số theo duyên lợi
vật. Hoặc làm một hay hai tên; hoặc đến vô
lượng. Lược bớt nghĩa rộng tuyên nói sự tồn tại
thích ứng với 10 nghĩa. Một là từ bi phổ; hai là
hoằng thệ phổ. Ba là tu hành phổ. Bốn là đọan
hoặc phổ. Năm là nhập pháp môn phổ. Sáu là thần
thông phổ. Bảy là phương tiện phổ. Tám là thuyết
pháp phổ. Chín là cúng dường chư Phật phổ. Mười
là thành tựu chúng sanh phổ. Bên trên là trải
qua những Phổ Môn thuộc về pháp cứu cánh. Đây là
10 Phổ Môn; tất cả đều tu hành phước đức trang
nghiêm. Năm phần trước là tự thực hành. Kế đến
ba phần sau là hóa tha và hai phần sau cùng kết
lại hai ý trước. Tự hành giữa trước 4 là tu
nhơn. Sau một là làm sáng tỏ quả. Tu nhơn lại có
hai. Đầu của hai ấy là nguyện, sau hai ấy là
hạnh. Tổng sanh khởi. Bồ Tát thấy tất cả khổ não
chúng sanh, khởi tâm đại bi. Tâm nầy tuy chẳng
phải là tâm Bồ Đề mà hay phát sanh tâm Bồ Đề.
Giống như đất nước; tuy chẳng phải là hạt giống,
mà có thể làm cho nẩy sanh mầm. Nay nhơn đại bi
khởi; bồ đề tâm lại cũng như thế.
Kế đến là thệ nguyện. Nếu hằng từ bi, vui nhiều
thóai đọa. Ngư Tử(da trâu) Ám La Hoa, Bồ Tát mới
phát tâm ba việc. Nhơn thì nhiều mà sự thành tựu
lại ít. Cho nên chẳng định vậy. Liền khởi thệ
nguyện quan trọng để chế ngự tâm nầy; tức là bồ
đề kiên cố. Kế đến làm sáng tỏ chỗ tu hành. Nếu
hằng phát nguyện nơi kia chưa ích lợi. Như chẳng
có tiền bạc, thế lực quyền mưu thì chẳng thể
giải khổ được. Bồ Tát lại cũng như vậy. Thiếu
phước đức tài chánh, thần thông, lực trí huệ
mưu. Có được vậy mới hóa đạo. Đại kinh nói rằng:
Đầu tiên dùng định để động, sau đó dùng huệ để
bạt(khổ). Tu hành phát nguyện ý nầy tại đây vậy.
Kế đến là đọan hoặc. Thành(thật)luận nói người
vô ngại, đạo hay giải thóat, đạo đọan. Nếu như
vậy thì tu hành là lấy đạo làm nhơn. Đọan hoặc
là giải thóat đạo, làm quả. Nếu Tỳ Đàm làm sáng
tỏ vô ngại đạo nhứt niệm tức là đọan thì cái nào
được dùng chứa cùng với Thất Giác, mà có
nghĩa phục hoặc. Dùng phương tiện đạo hàng phục
vô ngại đạo đọan, giải thóat đạo chúng.
Dẫn theo lối giải thích của luận rằng: Vô ngại
đạo trung hạnh; gọi là Bồ Tát. Giải thóat đạo
trung hạnh; gọi là Phật. Điều nầy theo
Ước(Giáo)là ngôn ngữ cứu cánh. Phật chứng tam bồ
đề; gọi là giải thóat đạo vậy. Nếu như vậy thì
tu hành là phương tiện đạo. Đọan hoặc là vô ngại
đạo. Nhập pháp môn là giải thóat đạo. Giữ lấy
việc nầy tự thực hành lần lượt vậy.
Kế đến là thần thông. Nếu muốn hóa độ kia, thì
phải hiển thị tam mật. Thần thông là thị hiện
sắc thân. Phương tiện chỉ bày ý đồng tình.
Thuyết pháp là thị hiện miệng tùy theo lọai âm
thanh nầy. Đây là sự hóa tha lần lượt. Cúng
dường chư Phật kết cuộc là tự hành. Chẳng phải
dùng hoa hương tứ sự cúng dường, mà tùy thuận tu
hành là pháp cúng dường; trong ấy tối cao nhất.
Đại Kinh nói rằng: Ngươi tùy theo lời ta nói;
tức là cúng dường Phật. Theo lời dạy kia mà
hành, kết cuộc là tự thực hành. Thành tựu chúng
sanh là kết hóa tha. Trong 4 oai nghi của Bồ
Tát, trên cả là chẳng quên chúng sanh. Hà huống
là vào các pháp môn tịnh Phật quốc độ. Tất cả là
vì nhiêu ích những chúng sanh. Cho nên một câu
kết hóa tha vậy. Kế đến là sự giải thích.
Khởi thỉ từ nhơn thiên cho đến Thượng Địa(Bồ
Tát) tất cả đều có từ bi. Lời nầy đối với
Thông(Giáo) chẳng ra khỏi chúng sanh, pháp duyên
vô duyên. Nếu duyên với chúng sanh, chúng sanh
sai biệt, giả danh chẳng đồng. Nhơn quả khổ lạc
có khác. Bên trên chẳng được vào nơi pháp để từ
duyên vào. Sao lại được xưng là Phổ? Nếu pháp
duyên vào vô nhơn, vô ngã, vô chúng sanh thì từ
giả ấy nhập vào không trên, chẳng được các tên
giả. Hà huống là Phổ. Nếu là vô duyên từ thì
chẳng duyên vào nơi 25 cõi hữu giả danh. Chẳng
duyên vào pháp Nhị Thừa Niết Bàn. Chẳng duyên
vào hai điều nầy. Tuy chẳng duyên vào đâu mà có
thể song chiếu không giả. Ước (Giáo) gọi đây là
khởi từ, vô duyên từ. Tâm thông với Tam Đế gọi
đây là Phổ.
Biệt(Giáo)giải thích rằng: Nếu tu chúng sanh
duyên từ thì quán một pháp giới chúng sanh giả
danh. Có thể chẳng gọi là Phổ. Nay quán thập
pháp giới chúng sanh giả danh. Mỗi một giới; mỗi
mỗi có 10 lọai tánh tướng, trước sau cứu cánh.
Thập pháp giới giao thoa với nhau thành 100 pháp
giới, 1.000 lọai tánh tướng. Ngầm nghĩ phục ở
tâm. Tuy chẳng hiện tiền, hiển nhiên đầy đủ.
Giống như mặt người bị tướng thô xấu. Dùng người
chẳng rõ; nhưng tướng sư lành biết. Nay chúng
sanh tánh tướng nhứt tâm đầy đủ lại cũng như
thế. Phàm người nhiều điên đảo; ít người chẳng
điên đảo lý, tình đều mê. Thánh nhơn rõ biết;
tức là rõ hiểu như tướng sư kia. Rõ biết 1.000
lọai tánh tướng nầy. Tất cả đều là nhơn duyên
sanh pháp. Nếu là nhơn duyên sanh pháp ác; tức
là có tánh tướng khổ; cho đến khổ bổn mạt; liền
chưa gỉai thóat. Quán điều khổ nầy mà khởi đại
bi. Nếu quán nhơn duyên pháp lành sanh; tức là
có tánh, tướng vui, cho đến lạc bổn mạt. Quán
nầy mà khởi tâm từ bi. Đều giải như Đại Bổn. Nay
Ước(Giáo) đầu,sau cả hai thế giới ấy có thể
giải. Địa ngục(cảnh)giới như thị tánh. Tánh ấy
chẳng cải đổi; như trúc bên trong có tánh lửa.
Nếu điều ấy không thì chẳng phải từ trúc mà cầu
lửa; từ đất mà cầu cho có nước; từ quạt mà cầu
cho có gió. Tâm có nơi địa ngục; giới tánh lại
cũng như vậy. Địa ngục tướng ấy là nắm cả mà có
thể riêng biệt; gọi đây là tướng. Lành quán tâm
là rõ biết tiếng nơi địa ngục. Như sự thiện
lương của tướng sư; biệt tướng ấy là chẳng nói
bừa; cho nên gọi là tướng. Thể ấy là dùng tâm
để làm thể. Tâm rõ biết khổ vui; cho nên lấy đó
làm thể. Giống như chiếc trâm hay vòng xuyến
bằng châu báu. Tất cả đều có thể chất từ vàng
bạc. Sắc màu của lục đạo chỉ khác vơi tâm đại để
nầy. Cho nên tâm ấy làm thể vậy. Cho đến vận
dụng tên gọi mạnh mẽ. Duyên của núi vào lửa; tất
cả đều là lực nầy vậy. Sự thực hành ấy là tác;
nên viết là tác tạo. Điều nầy có thể có lực; tức
là có chỗ tạo tác. Hoặc tạo lành, tạo ác. Nhơn
ấy là nghiệp, là nhơn vậy. Duyên ấy là giả tịch
làm duyên vậy. Như ái nhuận thấm nơi nghiệp nhân
duyên hợp lại vậy. Quả ấy là tập quả ví như con
người ở địa ngục đời trước nhiều dâm dục, sẽ
sanh nơi địa ngục trở lại mà theo Ước(Giáo) thì
kẻ dâm dục nhiều có thể yêu mến cảnh ấy. Tức là
qua lại gần gũi phụ thuộc; nên gọi là tập quả
vậy.
Báo ấy là báo quả vậy. Ngày xưa gặp tội dâm,
nay đọa xuống địa ngục, thọ khổ thiêu đốt; tên
là báo quả.
Bổn ấy là tánh đức pháp. Kẻ sau cùng tu được
pháp vậy.Cứu cánh cùng với rộng tu được; ấy là
đẳng hữu tánh đức. Lãm tánh đức; tức là đầy đủ
có tu chứng. Tướng đầu và sau cùng, cùng ở; cho
nên nói là đẳng vậy. Địa ngục giới, 10 tánh
tướng như thế ấy. Ngòai ra chín cũng như vậy.
Hỏi rằng: cõi nầy có 10 tánh tướng rõ được. Sao
lại có tướng giao hỗ. Ngòai cõi ấy giao hỗ thì
điều nầy khó tin. Vì sao địa ngục có Phật tánh
tướng trước sau vậy?
Đáp rằng: Đại Kinh nói rằng: Phàm kẻ có tâm tất
cả đều được Tam Bồ Đề. Như vị Tiên sớm giết Bà
La Môn; tức là có ba niệm. Lại nữa Bà Sổ địa
ngục con người tốt cao, theo ý nghĩa cương nhu.
Tuy ở tại địa ngục nhưng cái lý về Phật tánh cứu
cánh chẳng mất. Cho nên rõ biết địa ngục giới
tức là có Phật tánh.
Phật tướng tức là tướng của tánh đức. Tịnh Danh
kinh nói rằng: Tất cả chúng sanh tức là tướng Bồ
Đề. Thánh nhơn làm cho lặng lẽ , có thể riêng
biệt vậy. Thể ấy tức là địa ngục giới tâm thật
tướng lý nầy. Lực ấy là pháp tánh 10 lực biến
thông với đại dụng. Tác ấy là từ vô trụ, bổn
lập tất cả pháp. Như gân và sữa của sư tử . Nhơn
ấy là chánh nhơn. Duyên ấy là tánh đức duyên
liễu vậy. Quả ấy tức là Bát Nhã Bồ Đề đại quả.
Báo ấy là Đại Bát Niết Bàn quả quả vậy. Bổn ấy
chính là tánh đức; mạt ấy là tu đắc. Đẳng ấy là
tu được tướng mạo tại nơi tánh đức. Trong tánh
đức ấy lại đầy đủ tu được tướng mạo. Cho nên nói
cứu cánh vậy.
Đại Kinh nói rằng: Trong núi tuyết có thuốc
chúa rất hay, lại cũng có cỏ độc. Địa ngục một
cõi thường đủ Phật quả tánh tướng thập giới. Hà
huống là các cõi khác. Địa ngục hỗ tương cùng
với chín cõi khác. Ngòai cõi giới hỗ tương lại
cũng như thế. Bồ Tát sâu quán 10 pháp giới
chúng sanh. Ngàn lọai tánh tướng đều ở tại một
tâm. Xa tìm căn nguyên chiếu rọi tánh đức ác và
tánh đức thiện nầy. Thường tự lĩnh nhiên. Hà
huống là chẳng chiếu, tu được thiện ác sao?
Như thấy thuốc hay và cỏ độc nơi núi Tuyết. Lấy
sự quán xét tánh đức ác độc, thương xót, lân
mẫn, khởi tâm đại bi, muốn dứt trừ khổ nầy. Dùng
việc quán về tánh đức lành, vui thích nhớ nghĩ
hoan hỷ; khởi tâm đại bi muốn cùng với lạc nầy.
Mười pháp giới nầy thu tất cả chúng sanh, khiến
chẳng có cùng tận. Duyên vào đây chúng sanh giả
gọi là tu đức. Há chẳng phải chúng sanh từ phổ
sao?
Hỏi rằng: Cõi địa ngục nhiều khổ, chưa hết; sao
lại nói cùng vui được?
Đáp rằng: Chúng sanh vào địa ngục thì phần
nhiều khởi lên tâm niệm. Bồ Tát thừa cơ hội ấy
liền cùng với nhơn vui; cho nên nói là cùng vui
là vậy. Lại nữa Bồ Tát thường hay lấy lòng từ để
thay thế thọ khổ; khiến cho điều nầy được dừng
nghỉ. Ngòai ra cõi ấy khổ được nhẹ hơn, cùng với
nghĩa có thể giải trừ.
Hai pháp duyên từ là quán 10 pháp giới tánh
tướng; tất cả thiện ác đều là hư không. Thập
pháp giới giả danh; giả danh tất cả là không.
Thập pháp giới sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hành
thức đều là không. Thập pháp giới xứ sở; xứ
sở;tất cả đều không. Vô ngã vô ngã sở; tất cả
chẳng thể được. Như huyễn như hóa; chẳng có chơn
thật. Thường tịch diệt tướng; chung quy cũng ở
nơi không. Chúng sanh vì sao cho đó là thật? Có
lẽ vì chúng sanh bất giác bất tri; vì khổ sỡ làm
cho não; chẳng được vui với vô vi tịch diệt. Bạt
trừ điều khổ nầy mà khởi tâm đại bi; muốn cùng
với niềm vui nầy; cho nên khởi lên đại bi. Tịnh
Danh(Duy Ma Cật)nói: Có thể vì chúng sanh nói
pháp như thế nầy. Tức là chơn thật từ vậy. Nếu
duyên vào một pháp giới pháp; khởi lòng từ thì
có thể chẳng gọi là Phổ. Nay duyên vào 10 pháp
giới pháp, há chẳng phải là Phổ sao? Nên gọi là
pháp duyên từ phổ vậy.
Ba là vô duyên từ. Nếu duyên vào 10 pháp giới
tánh tướng sai biệt giả danh; thì giả nầy tức là
phi giả. Thập pháp giới như huyễn, như hóa;
không ấy tức là phi không. Phi giả cho nên chẳng
duyên vào 10 pháp giới tánh tướng. Phi không cho
nên chẳng duyên vào 10 pháp giới chơn. Lần lượt
nhị biên nầy vô trụ vô trước; gọi là Trung Đạo;
lại cũng chẳng thể duyên vào nơi cứu cánh thanh
tịnh. Như thế lúc quán, tuy chẳng duyên nơi
không giả; nhưng cùng song chiếu nhị biên; khởi
vô duyên từ bi để đánh bạt hai khổ sanh tử, để
vui cùng trung đạo. Như từ trường của đá hút
thiết; chẳng cần nói gì cả; tự nhiên tương ưng.
Vô duyên từ bi hấp thụ căn cơ Tam Đế lại chẳng
sai biệt. Chẳng di dời, chẳng nhớ nghĩ; cho nên
nói là vô duyên từ bi vậy. Hành giả lúc ban đầu
tu hành nơi phàm địa với tâm từ bi nầy; tức là
được nhập vào nơi ngũ phẩm đệ tử. Quán hành vô
duyên từ bi, tiên nhập vào thập tín vị, tương tợ
vô duyên từ bi nhập vào nơi thập trụ. Cho nên
đây là phần chứng vô duyên từ bi; cho đến đẳng
giác gần nhất với từ bi để huân tập chúng sanh.
Bất động như kính sáng. Vô niệm như từ lực của
đá hấp thụ thiết. Cho nên gọi là vô duyên từ bi.
Tam Đế đầy đủ gọi là Phổ. Trải qua Trung Đạo ;
cho nên gọi là Môn.
Hai là hoằng thệ Phổ. Hoằng ấy nghĩa là rộng.
Thệ ấy là chế. Nguyện kia gọi là yêu cầu. Cho
nên chế ngự tâm nầy, rộng cầu thắng pháp. Do vậy
gọi là hoằng thệ. Hoằng thệ là cái gốc để thành
từ bi. Từ bi ấy liền duyên với khổ lạc hoằng
thệ; lại như Ước(Giáo) Tứ Đế. Nếu thấy khổ đế
bức bách độc hại chua cay thì duyên nơi đây để
khởi thệ; cho nên nói là chưa độ sẽ làm cho được
độ vậy. Nếu thấy Tập Đế điên đảo lưu chuyển mê
hoặc trói buộc thì sanh tử ấy hóat nhiên mà
chẳng phiền hà. Cho đến có thể bi thương về việc
nầy nên khởi thệ; cho nên nói rằng chưa giải thì
làm cho giải. Con đường thanh tịnh thì chúng
sanh chẳng biết. Kẻ thực hành đạo nầy có thể ra
khỏi sanh tử thẳng đến an lạc địa. Muốn chỉ bày
cho chúng sanh lập nơi đạo nầy. Cho nên nói rằng
chưa an thì làm cho được an.
Diệt phiền não xứ gọi là Niết Bàn. Tử quả cột
chặt đọan diệt thì liền được Nhị Niết Bàn.
Ứơc(Giáo) cho đây là khởi thệ; do vậy nói chưa
được Niết Bàn thì làm cho được Niết Bàn. Nhơn
sanh tử khó rõ biết thì khổ quả dễ nhận ra. Cho
nên trước quả sau nhơn. Niết Bàn lý diệu, đầy
phương tiện thiện. Cho nên trước nhơn, sau quả.
Đại kinh nói rằng: Giải tỏa những giao động sẽ
khó được, huống là sanh ra sữa đề hồ. Như 4 ý
nầy thường là nhứt vãng. Chỉ mê tâm, khởi
nghiệp; nghiệp ấy tức là hoặc quả. Muốn rõ
nguyên lai của quả và biết rõ quả nhơn tập thì
chế tâm, dừng nghiệp; tức là bánh xe sanh tử
liền họai. Phiền não điều phục; gọi đây là vì
đạo. Tu hành chẳng giải đãi, khổ nhẫn mới phát
sinh. Tử Quả đều đọan, chứng tận vô sanh. Gọi
đây là đạo diệt. Tuy có 4 riêng biệt; chung quy
chỉ là một niệm. Liền chẳng khác pháp. Tứ Đế lại
cũng như thế; hoằng thệ lại cũng như vậy.
Kế tiếp làm sáng tỏ việc Phổ và chẳng Phổ. Nếu
lầ phàm phu thì xa rời bên dưới và ma sát bên
trên. Đối với Ước(Giáo) thì việc lập lời thệ nầy
chẳng gọi là Phổ. Nhị Thừa thấy tam giới lửa đốt
sợ hãi, tu đạo nầy. Ở đây cho đến việc thấy từng
phần Tứ Đế; lại cũng chẳng gọi là Phổ. Nếu là
Biệt Giáo thì trước tiên như Ước(Giáo)phân đọan;
kế đến tính sự dễ thay đổi; điều nầy lại cũng
chẳng phải là Phổ. Nếu Viên Giáo Bồ Tát đối với
trong một tâm, chiếu tất cả những khổ, tập,
diệt, đạo. Làm cho phàm phu rõ thấy ái; tức là
có tạo nên tập. Nhị Thừa chấp nơi không; tức là
không tạo tập. Cho nên Tịnh Danh nói rằng: Pháp
ấy vô nhiễm. Nếu nhiễm ở nơi pháp thì chẳng cầu
pháp vậy.
Cuối cùng tập chưa hết; hoa ấy tất dính thân;
tức là dễ thay đổi về hoặc; hòan tòan chưa được
trừ vậy. Đại Kinh nói rằng: Các ngươi Tỳ Kheo ở
nơi pháp Đại Thừa nầy chưa vì chánh pháp để trừ
những kiết sử; tức là không tạo nên tập vậy. Cho
đến thuận theo pháp đạo, ái sanh lại là
không tác tập vậy. Đây gọi là biến tri tập. Biến
tri khổ nghĩa là dùng hữu tập; tức có thể mang
thêm khổ báo. Có tạo tập, mang thêm vào phần
đọan khổ. Không tạo nên tập, mang khổ dễ biến.
Tức là rõ khổ đế vậy. Rõ biết sự biên kiến đối
trị đạo diệt của khổ tập. Từ ngũ giới, thập
thiện, chẳng động, chẳng ra khỏi. Nhị Thừa Tứ Đế
Thập Nhị Nhân Duyên, thông đến hữu dư, vô dư
Niết Bàn. Thông Giáo lại cũng như vậy. Biệt Giáo
qua Biệt, thông đến thường trụ. Chẳng thể đối
với một con đường, mà có rất nhiều con đường như
thế. Chẳng gọi là con đường Phổ. Viên Giáo
Trung Đạo tức là thật tướng.
Phổ Hiền Quán nói rằng: Đại Thừa nhơn là các
pháp thật tướng. Tu như con đường nầy gọi là
viên nhơn, xưng là Phổ Đạo. Cho nên được Niết
Bàn; tức là cứu cánh thường trụ. Tất cả phiền
não vĩnh viễn chẳng lưu lại; giống như kiếp hỏa,
chẳng còn thiêu đốt nữa. Cho nên gọi là Phổ
Diệt. Chỗ quán Tứ Đế đều viên tròn. Duyên đế
khởi thệ sao được chẳng khắp. Cho nên gọi là
hoằng thệ Phổ vậy. Riêng dùng quán 10 pháp giới
tánh đức; tu được thiện ác, mà khởi hoằng thệ
luận phổ chẳng Phổ. Tự đây là một phần nghĩa
lớn. Cùng với Tứ Đế, nói khác; cho nên cách
dùng ấy lại ứng với thiện vậy.
Ba là làm sáng tỏ Tu Hành Phổ. Đầu tiên làm sáng
tỏ lần lượt về sự tu hành. Kế đến làm sáng tỏ
chẳng phải lần lượt sự tu hành. Đều ở nơi đại
bổn hạnh diệu đại.
Bốn là làm sáng tỏ đọan hoặc Phổ. Nếu từ giả
nhập vào không, dừng đọan tứ trụ hoặc thì hoa ấy
dụ cho thân, sau vì chánh pháp mà trừ các kiết
sử; hằng lìa hư vọng; chẳng phải giải thóat tất
cả. Nếu từ không nhập vào giả, dừng trừ trần sa
thì chẳng nương vào căn bản, mà đọan; lại cũng
chẳng gọi là Phổ. Nếu không giả chẳng hai, chánh
quán trung đạo, căn bản những cành lá điên đảo
tự từ bỏ thì giống như cỏ bị che bởi đất; tất
nhiên bị suy; cho nên gọi là đọan hoặc Phổ.
Năm là Pháp Môn Phổ. Nhị Thừa nếu vào một pháp
môn, thì chẳng thể vào hai , hà huống là nhiều
nữa. Nếu tu hành trải qua những việc làm sai
biệt thì đều có chỗ sâu cạn khác nhau. Ta tuy rõ
biết điều nầy, một pháp môn, ngòai ra chẳng thể
rõ biết. Điều nầy lại chẳng phải là Phổ. Nếu vào
Vương Tam Muội, tất cả đều cùng nhập vào; giống
như vua đến; tức nhiên có nhiều việc thêm theo.
Nhiều việc thêm theo lại có thêm theo. Vương Tam
Muội lại cũng như vậy. Nhập vào Tam Muội nầy,
tất cả Tam Muội đều vào trong ấy. Đó là Tam Đế
Tam Muội.Tam Đế Tam Muội lại có vô lượng pháp
môn mà vì quyến thuộc. Lại nữa tất cả những điều
nầy đều nhập vào trong Tam Muội. Cho nên gọi là
nhập pháp môn Phổ.
Sáu là thần thông Phổ. Nếu là Đại La Hán thiên
nhãn thì thấy Đại Thiên. (Bích) Chi Phật thì
thấy được một trăm quốc độ Phật. Bồ Tát thấy
được hằng sa quốc độ Phật. Tất cả đều bị hạn
lượng bởi sự thông suốt; cho nên chẳng gọi lầ
Phổ. Vì sao vậy? Duyên vào cảnh hẹp; nên thông
ấy lại cũng nhỏ. Nay Viên Giáo Bồ Tát duyên vào
10 pháp giới cảnh , thông suốt; khắp thảy 10
pháp giới, lại chẳng có hạn cực. Tam Thừa nào
chẳng rõ tên nầy. Hà huống là thấy được cảnh
giới nầy. Thấy bằng mắt lại cũng như vậy; ngòai
thí dụ ra có thể rõ. Trong phần thần thông vi
diệu sẽ nói rộng.
Bảy là phương tiện Phổ. Tiến hành phương tiện là
đạo tiền phương tiện. Khởi dụng phương tiện là
đạo hậu phương tiện. Nay chánh thức làm rõ đạo
hậu phương tiện vậy. Nếu Nhị Thừa cùng với tiểu
Bồ Tát, chỗ hành phương tiện, nhập vào một pháp
môn. Nếu muốn hóa tha, giúp chỗ sở đắc nầy khởi
dụng hóa vật. Đạo tiền đạo hậu đều chẳng phải là
Phổ. Viên Giáo Bồ Tát lấy Nhị Đế làm phương
tiện, tậu được tất cả phương tiện. Vào Trung Đạo
rồi, song chiếu nhị đế. Nhị đế thần biến, biến
10 pháp giới, mà đối với pháp thân vô sở tổn
họai. Đạo tiền đạo hậu; tất cả đều gọi là Phổ.
Tám là thuyết pháp Phổ. Nhị Thừa Tiểu Bồ Tát
thuyết pháp chẳng có thể trong cùng một lúc trả
lời cho chúng hội nghe. Lại nữa sự riêng biệt
về địa phương tục lệ khác nhau; chẳng thể làm
cho sự giải thích nầy đầy đủ được. Đại Kinh nói
rằng: Câu Hi La ở nơi Thanh Văn, tứ vô ngại
biện; là tối vi đệ nhứt. Chẳng phải ý nghĩa của
Bồ Tát. Nay người của Viên Giáo, một âm thanh
diễn nói pháp; tùy theo lọai được giải nghĩa.
Dùng một diệu âm; biến khắp mười phương pháp
giới; giống như đàn của A Tu La; tùy theo ý
người mà xuất ra âm thanh. Đó gọi là thuyết
pháp. Nói rộng ra trong việc thuyết pháp vi
diệu.
Chín là cúng dường chư Phật Phổ. Tựu chung điều
nầy chia làm hai. Một là sự; hai là lý. Hoa
Nghiêm nói rằng: Chẳng vì cúng dường một Đức
Phật ở một quốc độ, mà là vi trần quốc độ. Cho
đến vì cúng dường bất khả thuyết, bất khả thuyết
Phật. Lại hay chẳng khởi diệt định, hiện các oai
nghi; ngồi thiền chấp tay tán thân các vị pháp
vương. Dùng thân mệnh tài vật tất cả để cung
phụng đầy đủ; cho đến khắp cả mười phương; giống
như mưa hoa cúng dường chư Phật vậy. Giải thích
rằng: Tâm của viên trí chánh quán gọi là giác.
Giác ấy nghĩa là Phật. Vạn hạnh công đức huân
tu, trí nầy là trí nhứt thiết. Tu công đức nầy
cúng dường trí nầy; tức là cúng dường tất cả
trí. Tịnh Danh nói rằng: Dùng một bữa ăn thí cho
tất cả. Cho nên nói cúng dường chư Phật Phổ.
Mười là thành tựu chúng sanh Phổ. Giống như ngọn
đèn sáng so với ngôi sao và mặt trăng, làm lợi
ích che chở lọai nhỏ. Ánh sáng mặt trời chiếu
xuống thế gian; tất cả cỏ cây rừng rậm đều biến
khắp; làm cho sanh trưởng hoa quả, thành
tựu mọi việc. Ngọai đạo như ánh lửa đôm đốm;
Nhị Thừa như ánh đèn dầu. Thông giáo như ngôi
sao. Biệt giáo như mặt trăng. Thành tựu nghĩa
ấy là Ước(Giáo) . Nay viên giáo thánh nhơn từ
huệ nhiêu ích lợi nhuần; làm sáng tỏ lợi ích vô
hạn lượng. Hoa Nghiêm nói: Bồ Tát chẳng vì một
chúng sanh, một quốc độ; một nơi nào chúng sanh
phát tâm bồ đề, mà vì bất khả thuyết, bất khả
thuyết quốc độ Phật, vi trần quốc độ chúng sanh
phát tâm. Thành lập lợi ích một lúc cùng nhuận
khắp. Giống như mưa lớn tất cả bốn phương đều
nhuần khắp. Cho nên gọi là thành tựu chúng sanh
Phổ.
Nghĩa của Phổ Môn chẳng có lượng định, chẳng có
biên giới, há có cùng tận sao? Như Tịnh Danh
chẳng thể thọ trì việc phân chia(thẻ) hết được.
Nay Quan Thế Âm Phổ Môn nầy; tức là đối với ba
hiệu. Quán tức là giác; giác gọi là Phật. Thế Âm
là cảnh. Cảnh ấy tức là như. Phổ Môn tức là
Chánh Biến Tri. Đây là ba nghĩa chẳng thể cùng
tận. Nếu thấy được ý nghĩa nầy; tức là nói tự
tại vậy. Ta đã nói nghĩa Thập Phổ chung trong
phẩm Phổ Môn. Chứng thành việc nầy. Nếu như Quan
Âm mẫn chư tứ chúng, thọ anh lạc nầy thì tất cả
gọi là bất nhị. Mẫn nghĩa là bi thương. Đây tức
là từ bi Phổ. Có từ bi cùng với nghĩa của hoằng
thệ Phổ. Dùng đủ lọai hình đi đến các quốc độ để
độ thóat chúng sanh. Tức là tịnh Phật quốc độ.
Há không phải là tu hành Phổ sao? Tự ấy tức là
không bị cột trói, có thể cứu kẻ kia bị trói
buộc. Tự ấy chính là vô độc, khiến cho kia lìa
độc. Một lúc xưng danh; tất cả đều được giải
thóat. Tất cả đây là lời nói khắp tất, há chẳng
phải đọan hoặc Phổ sao?
Phổ Môn thị hiện tức là con người nhập vào Phổ
Môn Phổ. Lực phương tiện ấy là phương tiện Phổ.
Thần thông lực ấy chính là thần thông Phổ. Nhi
vi thuyết pháp ấy là thuyết pháp Phổ. Đa sở
nhiêu ích tức là thành tựu chúng sanh Phổ. Phần
tác nhị phần phụng nhị Như Lai tức là cúng dường
chư Phật Phổ. Tất cả ý nghĩa như vậy đều nằm
trong Kinh. Cho nên dẫn dụ để làm chứng vậy.
Phần thứ hai giải thích về thể; dùng linh trí
hợp với pháp thân để làm thể. Nếu ngòai
kinh làm sáng tỏ ba thân thì riêng dùng pháp
thân làm thể. Phẩm nầy hay có nghĩa là hai thân.
Cho nên dùng lý trí hợp lại làm thể vậy. Chỉ có
trí nầy; tức là thật tướng lý. Vì sao vậy? Nếu
vô linh trí thì tướng thật ẩn; gọi là Như Lai
tạng. Nay rõ biết quyền thật tướng cùng với lý
chẳng hai. Giống như phải, trái vậy. Nếu làm rõ
nghĩa của thể thật tướng thì rộng hơn nghĩa đen
ở đại bổn.
Phần thứ ba làm sáng tỏ tông(chỉ); dùng sự cảm
ứng làm Tông. Cơ duyên nơi thập giới, trí tuệ
lặng chiếu. Cho đến trước sau, sự lợi ích của
việc cảm ứng. Câu văn tuy rộng; nhưng thẳng nơi
cảm ứng qua lại. Như tể cương mục động(như
mắc lưới giao động); cho nên dùng sự cảm ứng để
làm Tông. Ngòai ra những kinh khác hoặc dùng
nhơn quả để làm Tông. Phẩm nầy chẳng phải như
vậy. Ngôn ngữ nhân quả thông qua từ phàm đến
thượng địa. Mỗi mỗi đều có nhơn quả. Có thể cảm
chỗ cảm; tức là tất cả đều có nhơn quả, mà ý của
kinh văn; giống như chẳng đến điều nầy. Cơ gia
tuy có nhơn quả, hằng dùng sự cảm(ứng) để làm
tên. Thánh tuy vô nhân quả; nhưng thường dùng
ứng để làm tên; tức là giúp cho ý nghĩa câu văn
vậy. Nghĩa ấy lại có sáu.
Một là thí dụ; hai là giải thích tướng; ba là
giải thích chỗ giống, khác nhau. Bốn là làm rõ
sự tương đối. Năm là làm sáng tỏ Phổ hay chẳng
phải Phổ. Sáu là biện quán tâm. Đầy đủ ở Đại
Bản.
Hỏi rằng: Nếu nói cơ thì đây là thiện nhỏ tương
sanh. Ác nhỏ tương sanh lại cũng là cơ chăng?
Đáp rằng: Đúng vậy.
Hỏi rằng: Cơ ấy là thiện hay bất thiện? Nếu là
thiện nầy thì làm như thế nào để cảm được Thánh?
Hoặc là chưa phải là thiện thì cái nào được nói
là thiện tương sanh?
Đáp rằng: Tánh thiện nằm sâu như hoa sen trong
bùn. Thánh nhơn như mặt trời chiếu sáng; tức
liền xuất hiện.
Lại hỏi: Nếu nói cơ là quan , thì vị thiện
quan(liên hệ)hay bất thiện quan? Nếu là thiện
nầy thì làm sao Quan Thánh mà thành thiện được?
Nếu chẳng phải thiện thì cái gì được làm cho
Quan Thánh trở thành không phải thiện?
Đáp rằng: Thiện ấy liên hệ nơi đại từ; ác ấy
liên hệ nơi đại bi; cho nên nói là tương quan.
Hỏi rằng: Nếu nói cản trở giải thích về cơ thì
điều nầy là ứng gia quan cơ, dùng để nói cùng.
Vậy thì cái nào giải thích về ý nghĩa của cảm
ấy?
Đáp rằng: Viên cái(che đầy cả), viên đệ(thấp
hòan tòan) cùng được tương nghi.
Hỏi rằng: Vì dụng pháp thân; nên vì đó mà dùng
ứng thân ứng. Ứng thân vô thường; đây tức
là chẳng ứng. Pháp thân nếu ứng; đây tức là
chẳng phải pháp thân chăng?
Đáp rằng: Pháp đây tức là nói thân, sao lại
chẳng nói ứng ? Ứng thân ấy xưng là ứng thì với
ý gì lại chẳng ứng, mà tất cả đều ứng?
Lại hỏi: Cảm ứng là một hay là khác? Nếu cảm là
một; tức là ứng phàm , thành Thánh. Nếu khác;
tức là chẳng có tương quan chăng?
Đáp rằng: Chẳng phải một mà cũng chẳng phải khác
để luận về cảm ứng.
Hỏi rằng: Cảm ứng là hư hay là thật? Nếu là thật
thì phàm phu là thật. Thật ấy làm sao có thể
hóa. Nếu nói là hư hư thì cái gì thay đổi?
Đáp rằng: như vậy, như vậy, dùng hỏi điều khác.
Thánh nhơn là chỗ sở cảm, phàm phu là điều có
thể cảm. Thánh nhơn có thể ứng, phàm phu là chỗ
ứng. Chỗ cảm chẳng phải là cảm chỗ ứng, chẳng
phải là ứng.
Hỏi rằng:Vì sao nói là cảm ứng đạo giao?
Đáp rằng: Chỗ cảm thật vô cảm; từ cảm gọi là chỗ
cảm. Nói Thánh nhơn là chỗ cảm. Chỗ ứng thật vô
ứng. Từ ứng gọi là chỗ ứng. Nói phàm phu là chỗ
ứng; lại là cảm chỗ vì ứng có thể. Ứng có thể là
cảm chỗ. Lại là ứng chỗ làm cảm có thể. Cảm có
thể là ứng chỗ. Liền chẳng cảm ứng thật; lại vô
cảm ứng khác đi. Chẳng khác mà khác. Thánh chưa
chỗ cảm, mắt chưa có thể ứng. Phàm chưa chỗ ứng,
mắt chưa thể cảm. Cho nên nói cảm ứng đạo giao.
Chữ nầy thật là khó. Nếu thật vô cảm ứng khác
đi, mà nay Thánh chưa thể cảm và phàm chưa thể
ứng. Sao lại Thánh chưa thể ứng, phàm chưa thể
cảm. Nếu như điều nầy; tức là không có đặc thù
của phàm thánh. Nếu như điều cảm ứng nầy lại
khác đi, thì sao nói là chẳng khác? Lại nữa cảm
ấy có thể là vô cảm có thể thật. Nhưng gọi cảm
có thể là gì, mà chẳng gọi là ứng có thể. Nếu
chỗ ứng không thật thì cái gì chẳng gọi là chỗ
cảm. Nếu như vậy tức là chẳng có phàm thánh cảm
ứng. Nếu chẳng là như vậy thì sai khác, sao lại
chẳng sai khác?
Lại vấn nạn rằng: nếu dùng cảm có thể vì chỗ
ứng, chỗ cảm là ứng có thể thì điều nầy nghĩa ấy
tự sanh. Nếu có thể ứng, chỉ là chỗ ứng hay cảm;
chỉ là chỗ cảm. Lại là nghĩa tự sanh. Nếu ứng có
thể sanh chỗ ứng, cảm có thể sanh chỗ cảm thì có
thể cảm sanh chỗ cảm, chỗ cảm sanh có thể chỗ
cảm. Có thể ứng sanh chỗ ứng; chỗ ứng sanh có
thể ứng. Tất cả đều từ kia sanh; há chẳng phải
là nghĩa của tánh kia. Nếu cùng sanh tức là hai
việc quá(độ). Nếu lìa hai thì rơi vào chỗ không
nhơn quá(độ).
Hỏi rằng: Nếu như vậy thì không có cảm ứng
chăng?
Đáp rằng: Thánh nhơn dùng bình đẳng, không trụ
pháp, chẳng trụ cảm; dùng Tứ Tất Đàn tùy cơ nghi
ứng vậy.
Hỏi rằng: Vọng chấp thiện, có thể cảm chăng?
Đáp rằng: Vọng chấp là ác, lại được cảm.
Hỏi rằng: Vọng chấp tức là chẳng phải nhứt ứng
mà là hai chăng?
Đáp rằng: Ứng bản không hai làm duyên thì chỗ
nào mà chẳng làm?
Hỏi rằng: Phàm thì gọi là phàm; thiện tức là mời
niềm vui; ác tức là cảm sự khổ. Thánh là vì
chánh. Chánh ấy tức là chẳng phải thiện, chẳng
phải ác; chẳng khổ, chẳng lạc. Thiện ác là thế.
Sao có thể cảm chẳng thiện, chẳng ác, chánh tà
được?
Đáp rằng: Chánh Thánh từ bi, bạt trừ thiện ác;
khiến cho nhập vào phi thiện phi ác của việc
chánh. Cho nên có cảm ứng. Đệ tứ từ bi lợi vật
làm dụng.
Hỏi rằng: Nhị trí chẳng thể dùng sao?
Đáp rằng: Nhị trí ngôn ngữ thông; khiến cho
riêng phụ vào câu văn. Dùng làm sáng tỏ chỗ ẩn
hiển. Cho nên dùng điều nầy sẽ dùng như thế.
Cách giải thích khác là : Pháp thân thường lợi
ích. Ứng thân dần ra khỏi, vì vô thường. Nay làm
sáng tỏ, pháp thân thường tịch mà hằng chiếu; lý
nầy cản trở. Ứng thân nơi nơi lợi ích chưa hề
rời bỏ; lại là nghĩa thường. Nếu tin có ứng,
chẳng ứng dùng làm vô thường; pháp thân lại hữu
ích vô ích; cho nên rõ biết đầy đủ vô thường. Vô
thường đều có minh hiển. Như mặt trời, mặt trăng
cù huân tu chúng sanh , chiếu sáng mọi nơi mọi
chỗ. Như Lai hằng dùng thường và vô thường, hai
pháp huân tu chúng sanh; cho nên gọi là hai chim
cùng bay, mà gọi là thường, vô thường vậy. Giống
như trồng cây hoặc giả ngòai mặt trời, gió, mưa
thì trong ấy có đất, không khí, ấm, mát, mà vạn
vật được tăng, u hiển lưỡng ích lại cũng như vậy.
Trong nầy ứng dụng Vương Tam Muội, mười lần phá
25 hữu(cõi). Dùng biện(tài)từ bi, dùng để lợi
ích vạn vật. Đều ở trong Đại Bổn Huyền.
Hỏi rằng: Quan Âm lợi vật, quảng đại như thế nầy,
vì đó mà thành Phật. Giống như Bồ Tát chăng?
Đáp rằng: Đất nầy khó rõ, mà kinh thì có hai
thuyết. Như Quan Âm thọ ký kinh đã soi sáng.
Quan Âm Thế Chí được như huyễn tam muội. Khắp
nơi qua lại mười phương hóa vật. Ngày xưa ở nơi
Kim Quang Sư Tử du hí Như Lai, quốc vương tên là
Uy Đức. Hóa sanh ra hai người con. Bên trái gọi
là Bửu Ý; tức là Quan Âm. Bên phải gọi là Bửu
Thượng; tức là Thế Chí đến hỏi Phật, cúng dường
cái gì là hơn cả. Phật bảo rằng: Hãy phát tâm Bồ
Đề. Từ khi Như Lai mới phát tâm Bồ Đề, kế sau
Đức Phật A Di Đà, sẽ thành chánh giác. Quan Âm
là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương. Thế Chí gọi là
Thiện Trụ Công Đức Bảo Sơn. Lại nữa Như Lai Tạng
Kinh cũng nói: Quan Âm Văn Thù; tất cả đều chưa
thành Phật. Quan Âm Tam Muội kinh cũng nói:
Trước đây thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như
Lai. Đức Thích Ca vì vị Phật kia mà làm đệ tử tu
khổ hạnh.
Hai câu văn nói như thế là ý gì? Cho đến Tứ Tất
Đàn hóa vật, chẳng thể cầu sự thật nầy.
Thứ năm là làm rõ giáo tướng. Phàm ở Quan Âm
kinh bộ có nhiều thứ; hoặc thỉnh Quan Thế Âm,
Quan Âm thọ ký, Quan Âm Tam Muội, Quan Âm sám
hối, Đại Bi Hùng Mãnh Quan Thế Âm v.v. chẳng
giống. Nay chỗ truyền ấy tức là 1.530 của một
phẩm Pháp Hoa. Còn truyền riêng thì cho đến Đàm
Ba La Hám pháp sư lại có hiệu là Y Ba Lặc Bồ Tát.
Đi từ đỉnh núi Nhậm đến Hà Tây. Vua xứ Hà Tây là
Thả Cừ Mông Du quy kính chánh pháp; lại bị bệnh
nên thưa với Pháp Sư. Sư hỏi rằng: Quan Thế Âm
cùng với đất nước nầy có duyên, liền bảo tụng
niệm, bệnh khổ ấy liền tiêu trừ. Nhơn đó là biệt
truyền một phẩm lưu thông bộ ngọai vậy. Phẩm nầy
là phần lưu thông của Pháp Hoa; tức là thông với
giáo lý khai quyền hiển thật vậy. Khiến cho u
hiển lưỡng ích ở tương lai. Cùng với thập pháp
giới thân, viên ứng tất cả; khiến cho được giải
thóat. Người theo Viên Giáo đối với pháp viên
tròn, lưu thông viên giáo nầy vậy. Tức là lưu
thông tướng viên giáo. Ngũ vị làm luận tức là
lưu thông đề hồ vị.
Hỏi rằng: Phương tiện lực đủ lọai chẳng giống
nhau, nói lại ứng dị. Sao được gọi là tướng của
viên giáo?
Đáp rằng: Tựu chung có thể nói là con người vì
Viên Giáo. Hoằng khai Viên Giáo là cơ hội đi
khắp pháp giới. Cơ duyên ấy chẳng giống nhau;
chẳng thể có thể cùng pháp và người tùy theo cơ
duyên ấy mà thay đổi. Giống như Đức Phật đối với
Nhứt Thừa, phân biệt nói làm ba. Há có thể khiến
cho Phật lại là Thanh Văn, Duyên Giác sao? Lại
phụ nói thêm rằng: Nếu người tin sâu và vì kinh
nầy mà diễn nói, giải thích thì đối với kẻ chẳng
tin nơi pháp thâm sâu kia, chỉ bày, dạy dỗ làm
cho lợi ích. Liền đối trước Phật theo Viên Giáo
gặp vạn cơ duyên. Đủ lọai chẳng giống nhau; chỉ
là lưu thông Viên Giáo.
Lại hỏi: Có thể nói người tu theo Viên Giáo, đối
với giáo lại là Viên; kẻ thực hành cơ duyên ấy
khác với người nầy hay kia là giáo gì? Nếu lời
dạy kia cùng với người ở Lộc Uyển giống nhau
thì viên giáo cơ duyên kia lại cũng ứng chăng?
Đáp rằng: Ngày xưa ở Lộc Uyển Đức Phật chưa phát
Bổn hiển Tích; chẳng cùng với ba quy một; người,
pháp chưa Viên. Chỗ kia phương tiện chưa được
xưng là Viên. Nay kinh đã khai hiển quyền thật.
Tuy là đủ lọai thân Bổn Tích; nhưng bất tư nghì
chỉ một. Tuy nói đủ lọai pháp vì khai mở con
đường Viên Giáo, đối với nghĩa không.
Những câu hỏi bên trên đã nói ngay rằng
xả bỏ phương tiện. Trong đây nói cái gì là dùng
phương tiện?
Đáp rằng: Bên trên chánh thức hiển thật; cho nên
nói xả nầy. Trong đây luận dùng; cho nên nói là
thị hiện. Thể dụng bất tư nghì chỉ một vậy.
Quan Âm Huyền Nghĩa quyển hạ hết.
Dịch xong phần trên vào ngày 30 tháng 7 năm
2013 tại Turku, Phần Lan nhân khóa tu học Phật
Pháp Âu Châu kỳ thứ 25 tổ chức tại đây từ ngày
25 tháng 7 đến ngày 4 tháng 8 năm 2013.




|