THẦY CHÙA
Thị Giới
Gần đây, tôi có
nhận được một điện thư của người bạn liên quan
đến hai tiếng “thầy chùa.” Trong bài viết này,
tôi muốn chia sẻ bức điện thư và một góc nhìn (có
thể chủ quan) về câu chuyện “thầy chùa” với bạn
đọc gần xa.
Vì bức điện thư
khá dài, tôi xin phép tác giả được cắt bớt một
số đoạn mà tôi nghĩ sẽ không làm sai lạc ý nghĩa
của bức điện thư. Tôi cũng xin giữ nguyên “văn
phong điện thư” của bức thư, chỉ thay tên người
bằng XYZ.
“Không cần phải
nói là không ai trong chúng ta đã nhìn thấy Đức
Phật. Chúng ta chỉ thấy tượng Phật thôi. Mà
tượng Phật thì có lẽ cũng…tám vạn bốn ngàn hình
dạng. Nhưng dường như tôi đã thấy… một ông bác
của tôi. Đó là một ông thầy chùa, như cách nói
của XYZ. Bác tôi có gia đình, nghĩa là có vợ
con. Người con (trai) duy nhất của bác lớn hơn
tôi năm hay bảy tuổi.
Bác đi tu từ bao
giờ tôi không biết. Khi tôi có hiểu biết thì đã
thấy bác là một ông thầy chùa. Khi tôi hiểu biết
thêm một chút nữa thì cả gia đình bác đã có một
ngôi chùa riêng. Trước đó bác tụng kinh gõ mõ
trong ngôi nhà thờ của dòng họ mà bác là người
vai trưởng được cai quản. Tôi phải nói là bác
tôi vừa là một ông thầy chùa nhà quê, vừa… mù
chữ. Có lẽ ông không biết một chữ a, b, c nào cả.
Nhưng ông biết “chữ nho”. Bác tụng niệm ê a bằng
“chữ nho”.
Tôi lớn lên, tôi
đi học hành. Tôi đi đây đi đó. Tôi “biết” được
nhiều thứ. Tôi biết nhiều chuyện năm châu bốn
biển, nhưng bác tôi vẫn là một ông thầy chùa nhà
quê, cùng với vợ và con tu hành một cách quê mùa
và lặng lẽ, trong một ngôi chùa nhà quê.
Năm 1968, tôi
giải ngũ (thương binh loại 2), về thăm nhà trước
khi tiếp tục đi lang bạt. Tôi đến chùa thăm bác
tôi.
Người ta gọi ông
là Hòa thượng. Với tôi, ông cứ là bác Ba. Vì tôi
đi lang bạt kỳ hồ lâu quá, không có cơ hội gần
gũi với ông nhiều để quen với tình trạng tu hành
của ông và chuyển đổi quan niệm về sự liên hệ,
nên tôi vẫn giữ nguyên tình giòng họ gia đình.
Vả lại, trong con
mắt tôi, một thanh niên “tân tiến” đã đi đây đi
đó, đã nghe đã thấy nhiều chuyện trên đời; hơn
nữa, hồi nhỏ, tôi có một thời kỳ làm đệ tử xuất
gia của một vị thầy khác ở Sài Gòn, cho đến khi
thầy viên tịch thì tôi…xuất tự. Tức là tôi đã đi
tu ở thành phố đàng hoàng chớ không phải tu ở
nhà quê. Tôi có học “chữ nho” đọc được hết kinh
sách trong chùa. Và được học cả tiếng Tây nữa.
Mà bác tôi vẫn chỉ là một ông thầy chùa nhà quê
mù chữ. Càng là thầy chùa nhà quê, vì chắc chắn
là bác tôi chưa bao giờ đi ra khỏi cái làng Long
Hương thuộc quận Tuy Phong tỉnh Bình Thuận quê
tôi, nơi mà sau khi làng tôi bị giặc Pháp tàn
phá và tàn sát vào năm 1949, dân trong làng đã
di cư sang đó sinh sống. Gia đình bác tôi cũng
di cư sang đó lập một cái am nhỏ sau đó trở
thành một ngôi chùa.
Lần đó, tôi đến
chùa thăm bác. Tôi không gặp bác tôi. Nhưng tôi
gặp…các ông Kiều Trần Như. Và tôi hiểu tại sao
trước kia các ông ấy đã coi thường ông thái tử
tu hành cà chớn, nay lại sụp đầu đảnh lễ Phật
ngay khi Ngài vừa đi đến, và chịu thọ giáo làm
những đệ tử đầu tiên của Ngài. Tôi cũng suýt quỳ
sụp xuống như các anh em ông Kiều Trần Như đã
làm trước Đức Phật: trước mặt tôi, không phải là
một ông bác ruột quê mùa mù chữ, mà là…Đức Phật.
Hình ảnh Đức Phật đã hiện thân trong ông bác tôi.
Ngài mỉm cười nắm tay tôi, để tôi khỏi quỳ sụp
xuống. Ngài hiền hòa và rạng rỡ. Dường như Ngài
tỏa hào quang. Tôi không nghe một lời “pháp” nào
cả. Tôi chỉ nhìn thấy Ngài tĩnh lặng như thế.
Một sự tĩnh lặng bình yên, dịu dàng và mênh mông
và vĩ đại. Tất cả sự cảm nhận của tôi vào lúc đó
không cần lời, không thông qua một lời nói
“pháp” nào cả.
Hơn bốn mươi năm
rồi mà bây giờ hồi tưởng lại giây phút kỳ dịệu
đó, tôi vẫn thấy mình xúc động rất sâu sắc… XYZ
thân mến, chắc “cậu” vừa chớm nghĩ: Rồi ông ấy
có tiếng tăm gì không? Và ông ấy đã làm được
chuyện gì cho đạo Phật và cho cuộc sống? Nếu có
một ông thầy chùa “đắc đạo” sao không nghe ai
nói?
Tôi không nói bác
tôi “đắc đạo”. Bác không thuyết giảng gì cả. Bác
tôi chỉ nói chuyện thân mật với một đứa cháu.
Cho đến lúc đó, không những tôi “hiểu biết”
chuyện năm châu bốn bể, chuyện khoa học, đất
trời, đời sống vân vân nhiều hơn bác, mà cả
“chuyện đạo Phật” có lẽ tôi cũng “biết” nhiều
hơn ông bác nhà quê của tôi. Vì trước đó khi ở
chùa không những tôi đọc được kinh sách chữ Nho
(như bác) mà còn được đọc nhiều kinh sách chữ
Quốc ngữ của… ông Đoàn Trung Còn. Thế thì bác có
gì để “giảng thêm” cho tôi!
Tôi run run khép
nép ngồi bên cạnh bác, ngây ngất nhìn bác, ngây
ngất nghe bác hỏi thăm về cuộc sống của mẹ con
tôi. (Bố tôi mất hồi tôi còn nhỏ lắm – nên tôi
mới… đi tu!).
Những lời thăm
hỏi của bác không phải là “lời pháp” gì cao siêu
để tôi vin vào đó mà nói rằng bác tôi “đắc đạo”.
Dường như bác tôi không làm gì cả. Không có
tiếng tăm gì cả. Rồi bác tôi qua đời hồi nào tôi
không hay. (Vào lúc cả nước đang đói, tôi đang ở
Quảng Nam, đưa gia đình lên núi làm rẫy). Mặt
trời mọc lên lặng lẽ thế nào thì khi lặn xuống
cũng lặng lẽ thế ấy.
Dường như trong
một cuốn sách nào đó, Sư ông Nhất Hạnh có nói về
khái niệm “đạo đức vô hành” của những nhà tu
hành chứng đắc. Các ngài không nhất thiết phải
“làm” gì cả. Càng không cần nổi tiếng ồn ào. Chỉ
sự hiện diện vô hành của các ngài đã đủ quan
trọng và lợi ích cho cuộc sống.
Có một lần, trong
câu chuyện lặt vặt với nhau về sinh hoạt nhà
chùa chung chung, nhà thơ Phạm Thiên Thư kể rằng
ở một ngôi chùa (tôi không nhớ tên), có một
người đàn ông lớn tuổi “làm công quả”. Ông giữ
việc quét dọn trong chùa và chăm sóc khu vườn
quanh chùa. Ông không phải là nhà sư, không có
“liêu” riêng trong chùa. Ông làm một cái “cốc”
nhỏ bằng các vật liệu nhẹ ở một góc vườn chùa.
Buổi tối, ông cũng ê a tụng kinh ở đó. Tính tình
ông rất hồ hởi và cởi mở, có thể nói là rất xuề
xòa hệch hạc. Người ta mến nhưng không ai coi
trọng. Đến chùa ai lại coi trọng một ông quét
dọn hơn các vị tu hành công đức! Vì tính ông rất
hệch hạc, chẳng mấy ai quan tâm đến những gì ông
nói. Một hôm, ông bỗng đi chào từ biệt mọi người
trong chùa. Ông vui vẻ hể hả như tính ông bình
thường hàng ngày, nói cho mọi người biết ông sắp
“đi”, nên ông đến chào từ biệt họ. Người ta cười.
Tối hôm đó người
ta vẫn nghe ông ê a tụng kinh trong cái “cốc”
ngoài góc vườn, nhưng trưa hôm sau, suốt buổi
sáng không thấy ông ra quét dọn, người ta mới
cho người đi tìm và sửng sốt phát hiện ông đã
“đi” trong tư thế ngồi kiết già trong cái “cốc”
sơ sài hếch hác của ông. Tôi không nhớ nhà thơ
Phạm Thiên Thư nói sau các thủ tục “khám nghiệm
tử thi”, người ta an táng hay hỏa thiêu ông.
Nhưng người ta sửng sốt rằng ông “đắc đạo”(?)
XYZ thân mến, có
lẽ có nhiều ông thầy chùa như thế. Sự chứng đắc
có thể làm biến đổi diện mạo bề ngoài của một
ông thầy chùa nhà quê mù chữ như ông bác tôi,
khiến mọi cử chỉ an nhiên tự tại của ông trở nên
như tỏa hào quang thư thái an lành trước mắt tôi,
nhưng cũng có thể vẫn giữ cái vẻ xuề xòa hệch
hạc như ông làm vườn “công quả”, hoặc vị sư Tế
Điên huyền thoại trong tiểu thuyết Tàu. Các vị
ấy có thể không “hiểu” Phật pháp bằng hoặc như
cái hiểu của chúng ta. Tương truyền Lục tổ Huệ
Năng của Tàu cũng mù chữ, (tức là “thua” cả ông
bác nhà quê của tôi, vì bác tôi thông thạo “chữ
nho”) nhưng chỉ nghe kinh Kim Cương mà ngộ. Phật
pháp không phải để “hiểu”. Phật pháp là để chứng
ngộ. Bát Nhã Tâm kinh chỉ có mấy trăm chữ, tuy
cao siêu, nhưng có hàng vạn người từ Đông sang
Tây, từ xưa đến nay đã lý giải, soi rọi bằng đủ
thứ “ánh sáng”. Tức là có hàng vạn người “hiểu”
trong đó Phật nói gì. Tôi cũng “hiểu”, nhưng từ
cái “hiểu” này đến sự chứng ngộ bản chất của
“Sắc và Không” là một chuyện xa xăm như từ trái
đất chúng ta đến một hành tinh nào đó có sự sống
trong vũ trụ. Tuy vậy, có lẽ ông bác nhà quê của
tôi đã “đến” được hành tinh đó, trong khi tôi có
thể “hiểu” nhiều hơn, hiểu “rộng” hơn ông ấy,
thì tôi không là gì cả. Mà hàng triệu người
“hiểu nhiều hiểu rộng” hơn tôi cũng chẳng là gì
cả. Thậm chí tôi chưa được quỳ xuống đảnh lễ ông
bác thầy chùa nhà quê của tôi… Trong một cuốn
sách (có lẽ cũng của thầy Nhất Hạnh mà tôi không
nhớ tựa), tác giả tỏ ra, đại ý, hết sức kính
trọng một ông sư quê mùa cả đời chỉ tụng đọc một
cuốn kinh và chứng đắc, mà “sợ” quý vị tu hành
thông thái cỡi hỏa tiễn bay qua rừng tam tạng.
Không loại trừ
việc các thầy cố ý gạt bớt, nếu không phải là
gạt hết, kiến thức, để giảm thiểu cái tình trạng
tâm ý gọi là “tâm viên ý mã”, dập tắt sự biện
biệt “nhị nguyên” cho trí dễ im và tâm dễ lặng.
Làm như vậy, có thể các thầy bị “chúng ta” coi
thường, thậm chí là miệt thị, vì cho là dốt nát
hay sai lầm thiếu sót chỗ này chỗ khác. “Thầy
chùa” là một từ miệt thị như thế.
Nếu hai tiếng
“thầy chùa” dùng để chỉ một vị tu sĩ “quê mùa”,
ít sách vở, không văn chương… thì thầy tôi cũng
chính hiệu là một ông “thầy chùa.” Ông thầy chùa
đó, ngày ngày, với bất cứ bộ áo quần nào có thể
có được và một đôi giày bố lính, sáng vác cuốc
đi, chiều vác cuốc về… Và cho đến bây giờ đã
tròn trăm tuổi, không còn vác cuốc đã mấy mươi
năm, “sự nghiệp một đời” của thầy cũng chỉ đếm
được chừng đó, không bớt cũng không thêm.
Khi xem bộ phim Xuân,
Hạ, Thu, Đông…, vị sư già trong phim, hình ảnh
của một “thầy chùa” đúng nghĩa, đã làm tôi liên
tưởng đến thầy: “Thầy, tâm nhẫn như mặt đất, đơn
giản và khiêm cung như chiếc am nhỏ trên mặt hồ
giữa thung lũng sâu. Sáng tối thầy mở khép cánh
cửa không, không có vách ngăn. Có phải thầy đang
nghiêm túc chơi một trò đùa? Đất trời của thầy
trọn vẹn khít khao. Thầy không trèo lên tận đỉnh
ngọn núi thật cao để nhìn trời đất rộng lớn. Chỗ
dừng của thầy là đói ăn khát uống. Đến thời tiết
thì bình thản ra đi. Đó là Xuân Hạ Thu Đông của
thầy, cũng là lòng từ bi của thầy.
Trò, như con sóng
nô đùa trên biển lớn không biết mình là nước.
Mùa xuân theo dục vọng tạo nghiệp trong mùa xuân,
mùa hạ theo dục vọng tạo nghiệp trong mùa hạ,
rồi trả nợ trong mùa thu, tìm kiếm trong mùa
đông… Hành xác để chuộc tội lỗi chăng? Leo lên
tận đỉnh núi thật cao để tìm kiếm phương trời
cao rộng chăng? Bốn mùa xuân hạ thu đông vẫn
tiếp diễn, chiếc am nhỏ vẫn bình bồng trên mặt
nước. Tìm thầy ở đâu? Tìm phương trời cao rộng ở
đâu? Xá lợi của thầy hãy thả cho trôi theo giòng
nước.
Thầy, hình ảnh
của nước một vị. Trò, hình ảnh của sóng lăn tăn.
Người đệ tử lạy thầy để đi vào tù, tôi cũng đã
lạy thầy để tiếp tục cuộc bon chen. Nhà tù và
cuộc bon chen có khác nhau chăng? Có điều tôi
tin là lạy thầy để ra đi cũng có nghĩa là hứa
với thầy sẽ trở về. Sóng hứa với nước sẽ trở về
với nước dù biết mình vẫn là nước” (Xuân Hạ Thu
Đông).
Thầy Nguyễn Thế
Đăng viết về vị thầy chùa nông dân đó như sau:
“Những khi thầy đi một mình trên con đường từ
rẫy về chùa, khuôn mặt thầy là nỗi hân hoan của
trời đất, là vẻ xanh tươi của cây cỏ bốn mùa…
Thầy nói: “Người thấy Tánh thì nhìn một chiếc lá
rụng cũng thấy vui tràn bờ”. Có những lúc thầy
ngồi một mình trong vườn, không quá khứ, không
hiện tại, không tương lai, vô niệm, vô tướng, vô
trụ… như Bát Nhã, đích thực là Bát Nhã vậy” (Ai
tri âm đó).
Đối với chúng
tôi, ông thầy chùa đó chính là nước một vị, còn
như chúng tôi, những đệ tử của Thầy, học đủ thứ
trên trời dưới đất, viết đủ chuyện bốn biển năm
châu, quì trước thầy thì vẫn như những con sóng
bập bềnh trôi nổi… Có lần cúi xuống lạy thầy,
khi nhìn lên tôi bắt gặp một nụ cười của thầy.
Tôi bỗng biết đó là nụ cười từ ngàn xưa cho đến
ngàn sau: “Sau khi lạy thầy ba lạy để từ giã,
nhìn lên tôi bắt gặp cặp mắt và nụ cười của thầy.
Tôi biết rằng đó vẫn là cặp mắt và nụ cười tự
thuở nào và cũng sẽ là cặp mắt và nụ cười trong
tương lai” (Đêm qua sân trước).
Một vị “thầy chùa”
khác mà tôi muốn được chia sẻ với bạn đọc là Hòa
thượng Chí Tín, trụ trì đời thứ ba chùa Long Sơn,
Nha Trang. Một đêm giao thừa ở xứ người, tôi đã
viết về Hòa thượng như sau: “… Chùa Tỉnh Hội gần
trường Bồ Đề có thầy trụ trì mà bao nhiêu năm
hình ảnh vẫn không thay đổi. Đó là hình ảnh của
một vị chân tăng tâm không hề có tăng có giảm,
dù chùa Tỉnh Hội là nơi xảy ra nhiều sự đến đi
tăng giảm…” (Việc đời qua trước mắt).
Vị thầy chùa đó
trụ trì một ngôi chùa lớn mà tôi được biết cách
đây trên 50 năm, quần lúc nào cũng xắn cao, trên
tay như lúc nào cũng có cây rựa, quan sát chỗ
này chỗ kia trong vườn chùa. Mỗi khi có một ít
tiền là thầy lại đi giúp người nghèo, thăm bịnh
nhân ở bịnh viện. Cách đây ba năm tôi về có ghé
thăm thầy. Vẫn áo quần đơn sơ, tấm phản nằm đơn
giản với chiếc chiếu không trải hết phản, cũng
vồn vã gần gũi như thuở nào. Chỉ có một cái khác
là thầy không còn cầm trên tay cây rựa như ngày
xưa vì lớn tuổi. Nghe nói sau năm 1975, có lần
có người lẻn vào chùa leo lên trần định lấy trộm
bóng đèn điện, thầy hay được chạy đến bảo người
ăn trộm hãy từ từ kẻo té, để thầy đi lấy cái
thang cho.
Vâng, có nhiều
ông “thầy chùa” như vậy đó. Và chính những ông
thầy chùa này đã trực tiếp đóng góp một phần rất
lớn trong việc làm cho đạo Phật thấm vào lòng
người và lan ra xã hội. Và tôi nghĩ các vị thiền
sư thuở xưa, nếu không vì một cơ duyên nào đó mà
để lại dấu vết cho đời, thì cũng là những ông
“thầy chùa,” những vị “bần tăng” đốn củi, hái
rau, cày ruộng, cuốc đất. Người đời làm sao thấy
được dấu vết của các ngài!
“Mắt xanh ít
người biết
Mây trắng hỏi
đường qua!”
THỊ GIỚI
|