Thiền-Tịnh-Tự Tri
Lê Bá Bôn

1)Giới thiệu:
Đây là một phương cách cải thiện bộ não và sức
khoẻ thân tâm, thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung
của tất cả, thuận hợp đạo lí của vũ trụ. Dù có
theo tôn giáo hay không, dù thuộc tôn giáo nào,
nếu thực hành là có lợi ích lớn. (Được rút ra từ
kho báu văn hoá minh triết).
2)Cách ngồi:
Ngồi trên một cái ghế; mặt ghế khoảng tầm thấp
hơn đầu gối hoặc ngang đầu gối. Ngồi thẳng lưng,
nhưng không ưỡn ngực. Hai bàn tay úp trên hai
đầu gối. Hoặc ngồi sao cho thoải mái bình thường
là được.
3)Cách thở và
lắng nghe:
Giữ hơi thở ra
vào đều, nhẹ và hơi dài. Khi thở vào, bụng hơi
lớn ra một chút. Tuy nhiên, nếu thấy không thoải
mái thì cứ thở tự nhiên theo thói quen. Điều
quan trọng là phải tĩnh tâm lắng nghe (cảm nhận)
hơi thở ra và vào. Nghe hơi thở một cách bình
thường, không được tập trung khí lực vào cơ thể.
Điều thiện ích lớn xuất sinh từ năng lượng của
sự lắng nghe này. Thời gian thực hành nhiều ít
tuỳ ý, nhưng không nên bỏ thực hành ngày nào cả.
Sự tĩnh tâm (chú tâm) lắng nghe hơi thở là ánh
sáng của trí tuệ-tâm linh.
(Ở đây, để
tham khảo, xin ghi lại bài vè thở bụng của
Nguyễn Khắc Viện. Ông Viện là một bác sĩ Tây y
và là một nhà văn hoá. Ông cho rằng công trình
quan trọng của ông là bài vè này. Ông nói nó
đáng được nhận bằng tiến sĩ. Nó chữa được nhiều
bệnh tật. Một ông giáo sư áp dụng bài vè này đã
chữa lành bệnh gai cột sống dạng nan y (các bệnh
viện lớn đã bó tay). Bài vè được viết sau khi
ông Viện nghiên cứu các tài liệu tôn giáo và
Đông y cổ để tự chữa bệnh phổi nan y của ông.
Nội dung bài vè – theo tạp chí Tài Hoa Trẻ số 93
năm 1999: Thót bụng thở ra/ Phình bụng thở vào/
Hai vai bất động/ Chân tay thả lỏng/ Êm, chậm,
sâu , đều/ Bình thường qua mũi/ Khi gấp qua mồm/
Ở đâu cũng được/ Lúc nào cũng được).
4)Thiền định
tự tri:
Sau thời gian tập thở và lắng nghe hơi thở (lâu
mau tuỳ ý), thì chuyển qua lắng nghe những nói
năng trong tâm trí. Đây gọi là thiền định tự tri
(tức là quán tâm). Lắng nghe tâm trí mang năng
lượng thiện ích cực lớn, cho mình và cho toàn vũ
trụ, cho toàn thể chúng sinh, vì đó là hạnh
nguyện đại thừa. Sự thông minh tối thượng sẽ tự
biết cách lắng nghe tâm trí; đó là trí vô sư.
Tâm trí luôn
nhớ nghĩ (tức là nói năng bên trong) lắm chuyện
không thật sự cần thiết; gọi là vọng tưởng vô
minh, không thấu triệt lí duyên sinh-vô ngã của
thế giới hiện tượng. Lắng nghe vọng tưởng (tức
là lắng nghe những nói năng trong tâm trí) một
cách thâm sâu và tự nhiên thì tâm trí có sự đột
chuyển, vọng tưởng im lặng (dừng lại): tâm sáng
tỏ, tỉnh thức với tuệ giác tối thượng, an vui
cực lạc. Đó là những giây phút vô niệm, vô ngã,
mở con mắt sự sống; là những giây phút của nhân
cách tự-do-tinh-thần, siêu vượt khái niệm và
tướng trạng, bất sinh bất diệt, diệu dụng từ bi
hỉ xả.
5)Ý nghĩa tôn
giáo:
Trạng thái tâm
trí tĩnh lặng, sáng tỏ tỉnh thức, ngộ nhập với
tính chất nhất thể của vũ trụ, đầy an vui cực
lạc và thiện ích này có nhiều cách đề cập khác
nhau. Ở đây xin nêu một liên hệ với Phật giáo.
Cách lắng nghe
tâm trí này khế hợp với pháp môn thiền “Phản văn
văn tự tánh”. Đây là pháp môn thiền phổ biến của
Ngài Bồ tát Quán Thế Âm. “Phản văn văn tự tánh”
là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánh là thực
thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời
đang tự biết tự thấy… Tự tánh là Phật tánh (tánh
giác), là tâm vô niệm (tức là tâm trí tĩnh lặng,
sáng tỏ, tịch tri); là vô ngã, là chân ngã, là
tâm linh vĩnh hằng. Nhận ra tự tánh là giác ngộ,
là tự tri tự ngộ đích thực, Viên Giác hiện tiền;
đó là giá trị tối thượng.
Bồ tát Quán
Thế Âm là một vị cổ Phật hành Bồ tát đạo của Đại
thừa. Những người tin tưởng Ngài, dù không theo
đạo Phật, thường chú tâm niệm câu “Nam mô đại từ
đại bi cứu khổ cứu nạn linh cảm Quán Thế Âm Bồ
tát”, hoặc niệm câu “Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát”
khi gặp sự khổ đau phiền não. Đã có nhiều nghiên
cứu khoa học nói về sự linh ứng này (dĩ nhiên là
tuỳ thuộc vào tính chất tâm nghiệp)… John
Spencer, một tiến sĩ y khoa danh tiếng, đã có
những công trình nghiên cứu nghiêm túc về lợi
ích lớn của sự tự cầu nguyện chân chính và sự
cầu nguyện cho người khác, dù thực hành theo tôn
giáo hay tín ngưỡng thánh thiện nào. (Các dạng
cầu nguyện đúng đắn đều có tác dụng giảm bớt
vọng niệm).
Nên biết rằng,
dưới cái nhìn của vật lí lượng tử thì ảnh hưởng
của trạng thái tâm linh (tâm trí) đến sức khoẻ,
đến hoàn cảnh, đến tha nhân, đến xã hội và vũ
trụ là một sự thật hiển nhiên... Tâm linh vừa
mang tính chất cá thể (cá nhân), vừa mang tính
chất tổng thể (vũ trụ). Fritjof Capra, một nhà
vật lí danh tiếng, một giáo sư ở nhiều đại học
Anh và Mĩ, nói trong Đạo Của Vật Lí: “Nền vật lí
này bây giờ đã thấy rằng vũ trụ là một mạng lưới
chằng chịt vật chất và tâm linh liên quan mật
thiết với nhau, mà mỗi phần tử chỉ được định
nghĩa trong mối tương quan với toàn thể”. Vì
vậy, theo nhiều nhà khoa học hiện đại thì phẩm
chất đáng quý nhất của trí tuệ, của đạo đức, của
giáo dục-đào tạo, của tương tác xã hội là năng
lực cộng thông với “trí tuệ vũ trụ”, tức là dạng
năng lực ở trạng thái vô niệm (im lặng tư
tưởng-tỉnh giác). Đó cũng chính là hành động tối
thượng, là phẩm chất tối thượng của tâm linh tôn
giáo.
6)Tham khảo
thêm:
*-Lắng nghe những
nói năng, những nhớ nghĩ trong tâm trí (tức tự
tri) mang năng lượng có công năng cải thiện
nghiệp báo đau khổ, phiền não. (Nghiệp báo là
vấn đề nhân quả, do tâm ý tạo trong vòng sinh tử
luân hồi)… Nguyễn Chung Tú (nguyên hiệu phó
trường đại học Hùng Vương, giáo sư tiến sĩ vật
lí) nói: “Có thể nói rằng gien nghiệp là cái do
mỗi người tự tạo cho mình. Khi một người chết
đi, thân thể vật lí của người ấy tan hoại, nhưng
cái nghiệp ấy vẫn tiếp tục di truyền qua nhiều
đời sống của người ấy”. Ông nhắc lại lời một học
giả khác rằng: “Tâm tính là định mệnh” - một câu
nói rất quan trọng. (Nguyệt san Giác Ngộ số 17
năm 1997).
*-Deepak Chopra,
giáo sư tiến sĩ y khoa, viết trong Sự Sống Sau
Cái Chết (một tác phẩm rất nổi tiếng): “Vũ trụ
mà tôi và bạn thể nghiệm bây giờ, với cây cối,
nhà máy, con người, nhà cửa, xe cộ, hành tinh và
các thiên hà, chính là ý thức biểu hiện ở một
tần số nào đó. Đâu đó trong thời không, có những
bình diện khác nhau đồng thời tồn tại”. Ở một
chỗ khác ông nói rằng, cái mà Einstein gọi là
“trường tiềm năng” làm tăng các sự kiện không
gian-thời gian, cái đó nhiều tôn giáo gọi là
linh hồn.
*-Vọng tưởng là
biểu hiện của chấp ngã (cái “tôi”), của vô minh.
Thiền Luận (D.T.Suzuki) viết: “Nếu giác ngộ đã
làm cho toàn thể vũ trụ rung chuyển sáu cách
khác nhau như kinh chép thì vô minh, khi chưa bị
hàng phục, ắt vẫn có đủ thần lực ấy, dầu rằng vì
bản chất và hiệu lực, thần lực ấy diễn ngược lại
hẳn với giác ngộ”. (D.T.Suzuki là một cư sĩ
thiền sư).
*-Trịnh Xuân
Thuận (nhà vật lí thiên văn) nói rằng các hạt
quarks - từng được coi là những viên gạch cơ bản
của vật chất - chỉ là cấu trúc tâm thức. Vì thế,
theo nhiều nhà khoa học tự nhiên, năng lượng tâm
thức là dạng năng lượng cơ bản, có ảnh hưởng tốt
hay xấu cho toàn vũ trụ tuỳ tính chất tâm thức.
*-Masuru Emoto và
các cộng sự đã phát hiện ảnh hưởng của năng
lượng tâm ý đối với cấu trúc và chất lượng nước.
(Giáo Dục & Thời Đại Chủ Nhật số 47 năm 2006).
*-Hiến chương
Liên Hiệp Quốc mở đầu với câu: “Vì chiến tranh
bắt đầu từ trong tâm trí con người, nên cũng từ
trong tâm trí con người mà sự bảo vệ hoà bình
được thiết lập”.
*-A. Ciechanover
(Nobel hoá học năm 2004) cảnh báo: “Khoa học
phát triển với tốc độ chóng mặt, đến mức cần
phải cân nhắc đến nhiều vấn đề vốn là kết quả
của sự phát triển đó”. (Các vấn đề càng ngày
càng ngày càng đáng sợ do con người gây ra là:
siêu thiên tai vì biến đổi khí hậu, lan tràn bạo
lực và chiến tranh, bành trướng vũ khí hạt nhân
và vũ khí sinh học, môi trường sống bị ô nhiễm
nghiêm trọng, thực phẩm chứa đầy độc hại, gia
tăng nhiều bệnh tật hiểm nghèo, tai nạn giao
thông tràn lan, dân đen bị trí-công-cụ bóc lột
đa dạng, đói khát, tranh giành quyền lực quyền
lợi khốc liệt, sa đoạ lương tri, sa đoạ tinh
thần, tâm bệnh…).
*-Karen Shanor,
một nhà sinh học nữ, nói: “Nhiều nghiên cứu khoa
học đã khiến cho melatonin ngày càng được biết
đến với giá trị như một phân tử chống ung
thư.(…).Thú vị là việc luyện thiền được coi là
một hành động kích thích tuyến tùng và giúp tạo
ra đủ lượng melatonin cần thiết”. (Trí Tuệ Nổi
Trội).
*-Tạp chí Tài Hoa
Trẻ số 404 (năm 2006) viết: “Hai nghiên cứu khoa
học mới đây đã cho thấy rằng ngồi thiền có một
sự tác động quan trọng cả về tinh thần lẫn về
mặt sinh học”. (Ngồi thiền rất có lợi cho sức
khoẻ).
*-Thiền Tông Việt
Nam Cuối Thế Kỉ 20 (Thích Thanh Từ) nói: “Bao
nhiêu kinh điển, bao nhiêu pháp tu, đức Phật đều
dạy xoay quanh cái trục: chận đứng tâm suy nghĩ
lăng xăng”. Vì thế, theo sách, có một vị thiền
sư có ai hỏi về yếu chỉ Phật pháp, ngài trả lời
ngắn gọn: Đừng vọng tưởng. Đây cũng chính là
huyền nghĩa của Bát Nhã Tâm Kinh.
*-“Vô niệm là tối
thượng thừa”. (Thiền sư Thần Hội).
*-Kinh Viên Giác
nói: “Tri huyễn tức li, li huyễn tức giác”. (Tri
huyễn là nghe và thấy rõ mọi động niệm của tâm
ý. Nghe và thấy rõ vọng tưởng thì vọng tưởng tự
tịnh,Tánh Viên Giác hiện tiền).
*-Trong quyển
Krishnamurti Ở Carmel có nói rằng: “Gọi là
Thượng Đế hay chân lí đều như nhau. Chân lí là
giải thoát tâm trí khỏi mọi gánh nặng của trí
nhớ”. (Đây là trí nhớ tâm lí - thứ trí nhớ lấy
sự chấp ngã làm trọng tâm).
*-Đường Về Minh
Triết (Tuệ Thiền; Idoc.vn) viết: “Tự tri-tỉnh
thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ, là mẫu số
chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền; mang năng
lượng tích cực có lợi cho toàn vũ trụ, cho sự
thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả”.
“Tự tri-tỉnh
thức-vô ngã” là minh sư vĩ đại nhất của chính
mình”.
“Thiền định tự
tri thì không thuộc riêng tôn giáo nào hay nền
văn hoá-giáo dục nào, đó là tài sản cực kì quý
giá của nhân loại muôn đời, của vũ trụ”.
“Giáo dục “toạ
thiền-quán hơi thở-tự tri” là biện pháp tối ưu
để nâng cao hiệu quả giáo dục, thăng hoa tâm
trí, cải thiện thế giới”.
*-Nhớ quê hương
tâm linh (tức tự tánh), Trần Thái Tôn, một ông
vua giàu thiền tâm, viết câu thơ rất hay: “Lênh
đênh làm khách phong trần mãi / Ngày hết, quê xa
vạn dặm đường!”
*-Kinh Phật nói,
sống nương theo mười điều thiện (thập thiện đạo)
là điều kiện tốt để cải thiện nghiệp và vãng
sinh thế giới chư thiên, có duyên tu tập tự
giác-giác tha. Thập thiện đạo chứa đựng nhiều
điểm chung của các tôn giáo.
*-Ngày nay có rất
nhiều người muốn có sự tỉnh thức tâm linh, muốn
đến với Đạo (chân lí tuyệt đối). Fritjof Capra
viết trong Đạo Của Vật Lí: “Thiền không còn bị
nhìn với sự nghi ngờ, đạo học đã được coi trọng,
ngay cả trong cộng đồng khoa học”.
*-Lục tổ Huệ Năng
đã chứng ngộ khi còn là một cư sĩ quê mùa lo
việc giã gạo ở chùa.Trong khi đó, hiện nay hậu
duệ của Ngài có tu sĩ đã từng là tài năng lớn
lúc chưa xuất gia, như M. Ricard (nhà sinh học
người Pháp), B. Glassman (tiến sĩ toán học ở
NASA), L. Kaye (phó giám đốc hãng IBM ở Mĩ)…
*-K. Shanor nói
trong lời nói đầu quyển Trí Tuệ Nổi Trội (NXB
Tri Thức, 2007): “Những phát hiện khoa học mới
đây và những kinh nghiệm tâm linh đã từng có lúc
hoà hợp nhau. Đây là điểm tốt cho kỉ nguyên mới.
Khoa học có sự liên kết với bản chất tâm linh
của nhân loại sẽ có thể bỏ xa khoa học công nghệ
của quá khứ trong việc đóng góp vào sự phồn vinh
của nhân loại”.
Tuệ Thiền Lê Bá
Bôn


|