Ơi chòm xóm, đâu
rồi?
Vương Vi
Tình chòm xóm,
sao thương quá vậy
Cùng chia nhau
chút hoài niệm ai ơi!
Trải qua nhiều
thế hệ mưu sinh với cuộc sống tha hương nơi xứ
người, nhưng ở đâu cũng vậy, người Việt ta vẫn
luôn thích lối sống trọng tình làng nghĩa xóm
như ý nghĩa của câu tục ngữ “bà con xa không
bằng láng giềng gần” hay “ta về ta tắm ao
ta, dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn”. Sau
này, một số ca khúc nói lên ý nghĩ trách người
con gái sao không chịu lấy chồng gần mà lại đi
lấy chồng xa. Cái dòng suy nghĩ ấy rất là...Việt
Nam!
Cuộc sống vội vã,
quay cuồng ở xứ người, đôi khi đã vô tình làm
con người ta quên mất đi những thứ quá đỗi thân
quen của lối sống hàng ngày nơi quê nhà. Nên lắm
lúc cảm thấy buồn tủi cho hoàn cảnh sống của
mình ở nơi đây, ở cái xứ mà mạnh ai nấy sống,
chẳng mấy ai đoái hoài gì đến cái tình chòm xóm
như nơi quê nhà. Được sống ở miền đất tự do,
trong xã hội văn minh, vật chất đầy đủ, nhưng
tình người ngày càng lạnh nhạt là một nỗi buồn
nhức nhối trong lòng mỗi người chúng ta, nhất là
những người cao niên, vốn dĩ đã quen với lối
sống xóm làng từ bao lâu nay. Dù có phải mưu
sinh lưu lạc bất kỳ nơi đâu, ai ai trong chúng
ta cũng có hình ảnh của quê hương, một cái tình
chòm xóm nằm sâu trong đáy lòng. Và tôi cũng vậy…
Tuổi
thơ tôi lớn lên trong một xóm lao động nghèo ở
dải đất miền nam trung phần đầy mưa nắng. Cái
xóm nghèo chừng hai mươi gia đình ấy là một con
hẻm cụt nằm cạnh một bến xe náo nhiệt của phố
biển hiền hòa quê tôi. Phía cuối con hẻm cụt
là một khoảng sân khá rộng, và hiển nhiên từ
trước khi gia đình tôi dọn về đây sống, khoảng
sân này được xem là nơi sinh hoạt chung của bà
con trong xóm. Khoảng sân được lát bằng xi măng
ấy không rộng lắm với một cái giếng nước, vài
tán cây mận, cây khế, cây chùm ruột và cây đu đủ
như tạo nên một cái “chòm” của xóm lao động
nghèo. Từ tờ mờ sáng đến tối mịt, lúc nào cái
“chòm” cũng ồn ào rôn rã tiếng sinh hoạt bà con
lối xóm, tiếng cười đùa ríu rít của bọn trẻ con
trong xóm. Khi mặt trời vừa ló dạng thì đã nghe
những người lớn tuổi trong xóm gọi nhau í ới ra
sân tập thể dục. Đến độ ban trưa, mấy dì mấy chị
lại lũ lượt kéo nhau ra giếng nước rửa rau, rửa
chén bát, thức ăn, rồi chuẩn bị quảy gánh hàng
ăn của mình lên vai rong ruổi các nẻo đường của
phố biển để mưu sinh kiếm sống từ lúc xế chiều
đến khi trời tối mịt mới về nhà. Bọn trẻ con
trong xóm thì lại xem khoảng sân ấy như ‘vương
quốc trò chơi’, nơi mà bọn chúng thỏa thích bày
trò đá banh, đánh cầu, nhảy lò cò, bắn bi...
Tôi nhớ vào những
năm đầu
thập niên 1990, nhà nào có tivi là thuộc loại
khá giả lắm cho nên với những gia đình lao động
nghèo trong xóm, tivi là một thứ vật chất xa xỉ
lúc bấy giờ. Cả xóm gần hai chục hộ gia đình chỉ
có mỗi một cái tivi màn hình màu của nhà bà Tư
bán bánh canh. Vì vậy mà cứ khoảng 7 giờ tối,
bọn trẻ con trong xóm ào ạt kéo nhau sang nhà bà
Tư để chờ coi chương trình hoạt hình hay ca nhạc
thiếu nhi. Rồi đến nửa tiếng đồng hồ sau đó, đến
chương trình thời sự, phim truyện, mọi người
trong xóm lại tụ tập nhau sang nhà bà Tư, từ
trong nhà đến ngoài cửa, kẻ đứng người ngồi để
cùng nhau hướng mắt vào tivi theo dõi rồi bàn
tán, cười nói rôn rã khắp cả xóm. Có những đêm
cúp điện, trời nóng oi bức, bà con trong xóm
người thắp nến, kẻ mang đèn dầu ra khoảng
sân cuối hẻm ngồi buôn chuyện, rồi chia nhau ăn
vài quả mận vừa hái từ trên cây, hay dăm ba cái
bánh tét, bánh giò của gánh hàng bán ế lúc chiều.
Ngày ấy, tuy nghèo về vật chất nhưng cái tình
cái nghĩa lại đầy ắp trong khu xóm lao động
nghèo nơi tôi lớn lên.
Tôi vẫn còn nhớ
bà con lối xóm ngày ấy thường nói “Cơm ăn
không hết thì treo,
việc làm chẳng hết thì kêu xóm giềng”,
nhưng đâu cần kêu réo, bà con trong xóm vẫn luôn
sẵn sàng giúp nhau không toan tính. Ngày đám
tang, đám giỗ, mọi người trong xóm lúc nào cũng
có mặt đông đủ để chia sẻ mất mát thương tâm
cùng nhau, rồi quây quần bên mâm cỗ để san sẻ
chút buồn vui của tình đời, tình người. Đến ngày
vui cưới hỏi thì bà con lối xóm cũng rộn ràng
phụ giúp nhau sửa nhà cửa, nấu nướng, chuẩn bị
trà nước, làm bánh trái để lễ vu quy được tổ
chức chu đáo hơn. Vậy đó, không chỉ những lúc
buồn đau, mà cả những lúc mừng vui, lối xóm tối
lửa tắt đèn đều có nhau.
Sau nhiều năm gắn
bó với xóm lao động nghèo ấy, gia đình tôi làm
ăn khá giả hơn rồi dọn đi nơi khác sống. Với sự
phát triển của nền kinh tế, phố thị ở xung quanh
khu nhà mới tôi dọn đến ở là nhà hàng, khách sạn,
karaoke, quán nhậu. Dù cư ngụ ở đó cũng khá lâu
nhưng gia đình tôi chẳng giao thiệp gì nhiều với
hàng xóm xung quanh. Và rồi đến ngày sang Mỹ,
tôi cũng chẳng rõ hàng xóm của mình, những người
chủ nhà hàng, khách sạn kia là ai, tên gì. Mà có
lẽ vì lối sống thực dụng nên với họ, họ cũng
chẳng mảy may quan tâm gì đến hàng xóm xung
quanh, mà cũng có lẽ họ chỉ dành thời gian để lo
việc kinh doanh kiếm tiền.
Thỉnh thoảng, tôi
có nghe mẹ tôi kể về khu xóm lao động nghèo ngày
xưa ấy, giờ đây hầu như mọi người cũng đã dọn đi
nơi khác sinh sống, có người còn ngụ lại ở phố
biển quê tôi, cũng có người đã tha phương cầu
thực nơi xứ người, nhưng tôi chắc chắn dù ở bất
kỳ nơi đâu, những người chòm xóm cũ năm xưa cũng
như tôi, cũng mang trong ký ức mình những hoài
niệm về tình làng nghĩa xóm ngày nào.
Đôi khi giữa cuộc
sống bon chen nơi xứ người, tôi muốn được quay
lại những năm tháng sống ở khu xóm lao động
nghèo ấy để được sống với tình nghĩa chòm xóm ấm
áp lòng người. Điều mong muốn này còn rạo rực
hơn, thúc giục hơn khi năm hết tết đến ở xứ
người...
Vương Vi
(theo
Calitoday)
|