TIN BUỒN


Chân dung HT THÍCH TRÍ TỊNH
(1917 - 2014)
Nam Mô Bổn sư
Thích Ca Mâu Ni Phật
Trang nhà Phật
Giáo Đại Chúng vừa nhận được tin: Hòa Thượng
THÍCH TRÍ TỊNH bậc ‘Tòng Lâm Thạch Trụ’ của
Phật Giáo Việt Nam, Dịch giả của nhiều bộ Kinh
Đại Thừa, Viện chủ Chùa Vạn Đức (Thủ Đức - Sài
Gòn), Viện chủ Chùa Vạn Linh (Tịnh Biên - An
Giang)… do niên cao lạp trưởng, Ngài đã an nhiên
viên tịch vào lúc 09g15 sáng ngày 28/3/2014 (nhằm
ngày 28 tháng Hai năm Giáp Ngọ) tại chùa Vạn Đức: số 502 đường Tô Ngọc Vân, P.Tam Phú, Q.Thủ Đức,
Tp. Sài Gòn. Trụ thế: 98 năm;
Hạ lạp: 69 năm.
- Lễ nhập kim
quan chính thức cử hành vào lúc 18g00 ngày
28/3/2014 (ngày 28/2/Giáp Ngọ). Kim quan được
tôn trí tại chùa Vạn Đức (số 502 đường Tô Ngọc
Vân, P.Tam Phú, Q.Thủ Đức, Sài Gòn).
- Lễ viếng bắt
đầu vào lúc 07g00 ngày 29/3/2014 đến hết ngày
2/4/2014 (từ ngày 29 tháng Hai đến mồng 3 tháng
Ba năm Giáp Ngọ).
- Lễ truy điệu
được cử hành lúc 08g00 ngày 3/4/2014 (mồng 4
tháng Ba năm Giáp Ngọ), sau đó cung thỉnh kim
quan Đại lão Hòa thượng nhập Bảo tháp tại chùa
Vạn Đức (Q.Thủ Đức, Sài Gòn).
Hình ảnh bình dị những năm tháng xế chiều của HT. Thích Trí Tịnh
(Sen Việt TV)
Video Lễ Nhập Kim Quan Tang lễ HT. Thích Trí Tịnh
(Sen Việt TV)
Cung tống di ảnh HT. Thích Trí Tịnh thăm các cơ
sở của Giáo Hội
(Sen Việt TV)
Lễ Nhập Bảo Tháp Tang Lễ HT. Thích Trí Tịnh
(Sen Việt TV)

Thư phân ưu của Đức Dalai Lama XIV trong tang lễ HT. Thích Trí Tịnh

Thông tư Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất
Âu Châu

Thông tư Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất
Hoa Kỳ


Tiểu sử Hoà
Thượng Thích Trí Tịnh
I- THÂN THẾ:
Hòa Thượng Thích
Trí Tịnh, thế danh Nguyễn Văn Bình, sinh ngày 02
tháng 09 năm Đinh Tỵ (17-l0-1917), tại làng Mỹ
An Hưng (Cái Tàu Thượng) huyện Châu Thành, tỉnh
Sa Đéc (Đồng Tháp). Thân phụ là Ông Nguyễn văn
Cân và Thân mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Truyện. Cụ
Ông qua đời lúc Hòa Thượng lên ba, Cụ Bà cũng
theo Ông lúc Ngài vừa lên bảy.
Hòa Thượng có sáu
anh chị em, Hòa Thượng là người con thứ bảy
trong gia đình. Hòa Thượng vốn sinh trong một
gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp
đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo. Hòa
Thượng mồ côi cả cha lẫn mẹ. Khi lên 7 tuổi, chỉ
sống với người anh thứ ba là ông Nguyễn Văn Đặng
và đi học lên đến lớp 7. Lúc lên 15 tuổi Ngài
nghỉ học sang học chữ Nho với Cậu và học thuốc
với người anh.
II- THỜI GIAN HỌC
ĐẠO:
Nhờ đã gieo căn
lành từ nhiều kiếp, sớm giác ngộ đời là huyễn,
thế sự phù du, nên sau một thời gian đi chiêm
bái khắp chốn Thiền môn trong Tỉnh đều không hài
lòng. Sau đó mới tìm lên núi Cấm, vì nghĩ ở đó
sẽ có các bậc chơn tu. Hòa Thượng bèn tìm lên
núi, lần lượt đến chùa Vạn Linh cầu xin xuất gia.
Hòa Thượng trụ trì ở dây Pháp húy là Hồng Xứng.
Khi vừa trông thấy, Tổ liền ấn chứng “Các ông
đừng khinh ông nầy, vì đời trước ổng đã từng làm
Hòa Thượng, nhưng có tội hay nhìn con gái, nên
nay bị bịnh con mắt suốt đời”. Sau khi được
Tổ cho phép xuất gia, ban cho Pháp danh Thiện
Chánh, hiệu Hân Tịnh, húy Nhật Bình, tiếp nối
dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41.
Sau khi xuất gia,
Hòa Thượng chuyên lo niệm Phật tịnh tu, được một
thời gian Hòa Thượng xin đi tham học với chư sơn Thiền đức trong Tỉnh, và nghiên cứu những
tài liệu về Phật Pháp in trong tạp chí Từ Bi Âm,
do Hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật học Chùa Linh Sơn,
Saigon ấn hành, rồi đi ra miền Trung tham học ở
Chùa Liên Tôn, Bình Định.
Năm 1936, Hòa
Thượng ra Huế gặp quý Hòa Thượng Thiện Hòa,
Thiện Hoa vừa mãn khóa ở Chùa Tây Thiên do Hòa
Thượng Giác Nhiên, là Tăng Thống thứ hai
GHPGVNTN làm trụ trì, và Hòa Thượng Thiền Tôn
làm Giám Đốc. Khi Hòa Thượng được vào học thì
lớp nầy đang học năm thứ sáu Sơ cấp, Hòa Thượng
tiếp tục học lên Trung cấp và học lớp Cao Đẳng
tại Phật Đường Báo Quốc do Ngài Tường Vân làm
Giám Đốc, Hòa Thượng Trí Độ làm Đốc Giáo.
Năm 1941, Hòa
Thượng thọ Sa Di giới tại Chùa Quốc Ân và được
Sư cụ Trí Độ cho pháp tự là Trí Tịnh.
Năm 1945, mãn
Khóa Cao Đẳng Phật Học, lúc đó tình hình chiến
cuộc leo thang, vật giá khó khăn. Lớp học dời về
Tòng Lâm Kim Sơn, sau vì nạn đói ở Huế cũng như
ở Miền Bắc, trường không thể duy trì được, nên
Ban Giám Đốc cũng như Hội An Nam Phật Học quyết
định giao trách nhiệm cho Hòa Thượng hướng dẫn
một số chư Tăng vào Nam để tiếp tục mở trường
cho chư Tăng tu học.
III. THỜI GIAN
HÀNH ĐẠO:
Khi về đến miền
Nam, số học Tăng nầy tạm ở Chùa Vĩnh Tràng, Mỹ
Tho, còn Hòa Thượng Thiện Hoa và Trí Quang đi
Lưỡng Xuyên lo sắp xếp trường ốc, Riêng Hòa
Thượng về Chùa Kim Huê ở Sa Đéc tịnh tu một
thời gian.
Cách Mạng tháng 8
năm 1945 phát động, Trường Phật học Lưỡng Xuyên
bị phân tán, Hòa Thượng hợp tác với Hòa Thượng
Thiện Hoa dời về Trà Ôn lập Phật Học Đường Phật
Quang thuộc Tỉnh Cần Thơ, do Hòa Thượng Thiện
Hoa làm Giám Đốc, còn Hòa Thượng làm Đốc Giáo
kiêm Giáo Thọ.
Để viên mãn Tam
Đàn cụ Túc, năm 1945 Hòa Thượng được đăng đàn
thọ giới Tỳ Kheo Bồ tát tại Chùa Vạn An, Sa Đéc
do Hòa Thượng Kim Huê làm Đàn đầu Hòa Thượng.
Năm 1946, khi
tình hình chiến tranh Việt Pháp leo thang lớp
học bị dao động trầm trọng, một số chư Tăng đã
theo tiếng gọi của non sông, cởi áo Cà sa khoác
chiến bào, tham gia kháng chiến chống Pháp. Do
đó, Hòa Thượng không thể giảng dạy được, nên
Ngài quyết định dời về Saigon và lập Phật Học
Đường Liên Hải tại Chùa Vạn Phước, xã Bình Tri
Đông, huyện Hưng Long Thượng tỉnh Chợ Lớn. Do
Hòa Thượng làm Giám Đốc,
Hòa Thượng Huyền Dung làm Đốc Giáo. Năm 1949 nơi đây Hòa Thượng Bửu
Huệ và Quảng Liên được Thọ Đại Giới do Hòa
Thượng Trí Tịnh tổ chức Đại Giới Đàn nầy. Thầy
Minh Cảnh cũng xuất gia ở đây.
Năm 1950, khi Hòa
Thượng Thiện Hòa, sau một thời gian du phương
học đạo, từ Bắc trở về Nam, Hòa Thượng đã kết
hợp ba trường Liên Hải, Mai Sơn, Sùng Đức thành
một gọi là Phật Học Đường Nam Việt đặt tại Chùa
Sùng Đức.
Năm 1951, dời về
Chùa Ứng Quang do Hòa Thượng Trí Hữu cúng và
đổi tên là Chùa Ấn Quang, do Hòa Thượng làm
Giám Đốc và cũng là Thành phần trong Ban Giảng
huấn, giảng dạy cho lớp Cao Đẳng Phật Học từ năm
1951-l954. Cũng trong năm nầy, Hội Chùa Linh Sơn
thỉnh Hòa Thượng làm trụ trì và giao toàn quyền
quản lý.
Năm 1952, Giáo
Hội Tăng Già Nam Việt được thành lập tại
Saigon, Hòa Thượng được giữ chức Trưởng Ban
Giáo Dục và Trưởng Ban Giám luật, kiêm Ủy viên
phiên dịch Tam tạng, và Phó Trị Sự Trưởng.
Năm 1953, Hòa
Thượng đích thân và sáng kiến thành lập Cực Lạc
Liên Hữu do Ngài làm Liên Trưởng, Thượng Tọa
Huệ Hưng làm Liên phó tại Chùa Liên Trì, Tỉnh
Phước Tuy (Bà Rịa)
Năm 1954, Hòa
Thượng khởi công xây dựng Chùa Vạn Đức với một
quy mô lớn. Đến năm 2004 Hòa Thượng cho xây lại
theo mô hình mới.
Năm 1955, với chí
nguyện hoằng dương Tịnh Độ, Hòa Thượng lại
thành lập Cực Lạc Liên hữu khuyên người niệm
Phật cầu nguyện vãng sanh, tại Chùa Vạn Đức.
Năm 1957, Hòa
Thượng được Đại Hội Giáo Hội Tăng Già Nam Việt
cử làm Trị sự Phó và kiêm Trưởng Ban Giáo dục
GHTGNV. Đồng thời hợp tác với Hòa Thượng Thiện
Hòa, HT Thiện Hoa mở các Khóa Như Lai Sứ Giả
tại Chùa Pháp Hội, Chùa Tuyền Lâm, Chùa Dược
Sư...để đào tạo cán bộ, Trụ trì và Giảng Sư
cho Giáo Hội.
Năm 1959, trong
Đại Hội Giáo Hội Tăng Già toàn quốc kỳ II, ngày
02 tháng 10 PL 2502 Kỷ Hợi (11-9-1959) tại Chùa
Ấn Quang. Hòa Thượng được Đại Hội suy cử làm
Trị Sự Phó Giáo Hội Tăng Già toàn quốc.
Năm 1962, Hòa
Thượng được GHTGTP cử làm Phó Viện Trưởng Phật
Học Viện Trung phần Nha Trang, thay cho Hòa
Thượng Trí Quang vì bận Phật sự ở Saigon.
Năm 1964, Hòa
Thượng làm trưởng đoàn Đại biểu GHTGNV tham dự
Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam, được tổ
chức tại Chùa Xá Lợi trong những ngày 30,31
tháng 12/1963 và 01/01/1964, để thành lập
GHPGLVNTN và trong Đại Hội này, Hòa Thượng
được cử làm TV trưởng Tổng vụ Tăng sự.
Năm 1968-1971 Hòa
Thượng làm Ban Giảng Huấn Phật Học Viện Huệ
Nghiêm, và dạy cho lớp nầy 3 năm. Năm 1970, Hòa
Thượng được Hòa Thượng Minh Châu mời làm khoa
trưởng Phân Khoa Phật Học, thuộc Đại Học Vạn
Hạnh đến năm 1975.
Năm l971, sau khi
Giáo Hội thành lập Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ
Nghiêm, Hòa Thượng được cử làm Viện Trưởng từ
năm 1971 đến năm 1991.
Năm 1973, trong
phiên họp Hội Đồng Giáo Phẩm Trung ương kỳ IV
Hòa Thượng được cử làm Thành viên Hội Đồng
giáo phẩm Trung ương và Phó Viện Trưởng Viện
Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Ngày 05/07/1973,
Hòa Thượng được cử làm Chủ Tịch Hội Đồng phiên
dịch Tam tạng thuộc Viện Tăng Thống Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Năm l974 Ngài
được Hòa Thượng Thiện Hòa cử làm Cố vấn Hội
Đồng quản trị Tổ Đình Ấn Quang và các cơ sở trực
thuộc.
Năm 1975, Hòa
Thượng được Hội Đồng Giáo Phẩm Trung ương cử
làm Trưởng ban kiến thiết Pháp Bảo Viện tại xã
Linh Xuân Thôn, Thủ Đức Gia Định.
Năm 1980, đầu
Xuân Canh Thân sau khi đất nước thống nhất, tất
cả mọi sự sinh hoạt, từ phương diện kinh tế,
chính trị, xã hội đều thống nhứt trong phạm vi
cả nước. Do đó, trong phiên họp hội thảo của
Chư tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, Cư
sĩ của các tổ chức Giáo Hội thuộc hệ phái Phật
Giáo để thảo luận chương trình thống nhất Phật
Giáo. Kết quả một Ban vận động Thống Nhất Phật
Giáo ra đời do Hòa Thượng Trí Thủ làm Trưởng
Ban và Hòa Thượng làm Phó Trưởng ban vận động,
kiêm Trưởng Tiểu Ban Nội dung.
Trong Đại Hội Đại
Biểu Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam, được tổ
chức tại Hà Nội, từ ngày 04- 07/11/1981 Hòa
Thượng được suy tôn làm thành viên Hội Đồng
Chứng Minh và Phó Chủ Tịch thường trực Hội Đồng
Trị Sự Trung ương GHPGVN, kiêm Trưởng Ban Tăng
Sự Trung Ương.
Năm 1982, trong
Đại Hội Đại Biểu Phật Giáo SG, nhiệm kỳ I, Hòa
Thượng được cử làm Trưởng Ban Tri Sự Saigon
đến năm 1987.
Năm 1984, sau khi
Hòa Thượng Trí Thủ, Chủ Tịch Hội Đồng trị sự
Trung ương GHPGVN viên tịch vào ngày 01 tháng 3
năm Giáp Tý PL. 2527 (4/1984), Hòa Thượng được
cử làm Quyền Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Trung
ương, Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự nhiệm kỳ II và
những nhiệm kỳ tiếp theo.
Tại Đại Hội kỳ
III - 1992, Hòa Thượng được Đại Hội suy tôn
lên ngôi vị Phó Pháp Chủ kiêm Giám Luật Hội Đồng
Chứng Minh GHPGVN.
IV. THỜI GIAN
TRUYỀN GIÁO:
Năm 1960, 1961,
1962, Hòa Thượng làm Giới Luật Sư trong các
Giới Đàn, tổ chức tại Ấn Quang, Pháp Hội...để
truyền trao Giới Pháp cho chư Tăng.
Năm 1964 Hòa
Thượng làm Tuyên Luật sư trong Đại Giới đàn
Quảng Đức, tổ chức tại Việt Nam Quốc Tự - Saigon
Năm 1965, Hòa
Thượng làm Yết ma trong Giới đàn Sa di, được tổ
chức tại Phật học viện Huệ Nghiêm - Gia Định và
Tuyên Luật sư Đại Giới đàn Từ Hiếu - Thừa Thiên
Huế.
Năm 1966, Hòa
Thượng làm Tuyên Luật sư trong Đại Giới đàn
Quảng Đức, tổ chức tại Phật học viện Huệ Nghiêm-
Gia Định ...
Năm l968, Hòa
Thượng làm Giáo Thọ A Xà Lê-Đại giới đàn Hải
Đức - Nha Trang.
Năm 1969, Hòa
Thượng làm Tuyên Luật sư trong Đại Giới đàn
Quảng Đức II, tổ chức tại Phật học viện Huệ
Nghiêm - Gia Định.
Năm 1984 đến năm
2002 Hòa Thượng đựợc cử làm Hòa Thượng Đàn Đầu,
Đại Giới Đàn đầu tiên và những Đại giới Đàn tiếp
theo của Thành Hội Phật Giáo Sài Gòn được tổ
chức tại Chùa Ấn Quang.
Về việc phiên
dịch – Ngài đã để lại cho đời những bản dịch
Việt ngữ:
1. Kinh Pháp Hoa
2. Kinh Hoa Nghiêm
3. Kinh Đại Bát Niết Bàn
4. Kinh Đại Bát Nhã
5. Kinh Đại Bảo Tích
6. Kinh Phế Hiền Hạnh nguyện
7. Kinh Địa Tạng
8. Kinh Tam Bảo
9. Kinh Pháp Hoa cương yếu Tóm tắt
10. Kinh Pháp Hoa Thông Nghĩa Tóm tắt
11. Luật Tỳ kheo giới bổn
12. Luật Bồ tát giới bổn
13. Đường về Cực Lạc
14. Cực Lạc liên huân tập
15. Ngộ Tánh luận
16. Pháp Hoa cương yếu
17. Kinh A Di Đà
18. Kinh Quán Phật Vô Lượng Thọ
19. Kinh Vô Lượng Thọ Phật...
Về mặt kiến tạo và trùng tu:
Năm 1997, Hòa
Thượng khởi công xây dựng lại Chùa Vạn Linh và
Tháp Tể Hồng Xửng- Núi Cấm, Huyện Tịnh Biên,
Tỉnh An Giang.
Năm 2000, với tư
cách Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự GHPGVN. Hòa Thượng
đã ký quyết định v/v thông qua dự án và bổ nhiệm
ban trùng tu cơ sở văn Phòng II Trung ương Giáo
Hội Thiền Viện Quảng Đức, Q.3, Sàigòn. Năm 2000,
Hòa Thượng trùng tu lại Giảng đường Chùa Vạn Đức,
Phật Đài Quan Âm, Thư viện, Thiền thất, phòng
sách v.v...
Năm 2004, Hòa
Thượng khởi công xây dựng lại Chánh Điện, nhà Tổ
chùa Vạn Đức với qui mô lớn, trang nghiêm tú lệ
đã thành tựu viên mãn, xứng đáng là cơ sở Giáo
Hội tại địa phương.
(theo Quảng Đức –Úc Đại Lợi)
Video Lời khai
thị của HT Thích Trí Tịnh khi Ngài 95 tuổi

Cuộc Đời và Hành
Trạng của Ngài Trí Tịnh Đại Sư
Thích Nhật Tân
Tăng Tín, nhất
nhất ngưỡng phục Ngài Cưu Ma La Thập
Hậu thế, nhất
nhất suy tôn Ngài Đường Huyền Trang
Vị thì Phụng Chỉ
Chiếu Dịch
Vị thì vượt trùng
vạn lý Tây Thiên
Nên Đông Độ sung
mãn Ba Rừng Hoa Tạng
Phật Giáo Việt
Nam
Một bậc Đại Tăng
xuất hiện
Vào thế kỷ 20,
đầu thế kỷ 21
Một bậc thượng
thừa, xứng hiệu Đại Sư
Tôn danh Trí Tịnh,
Tam Tạng nhất như
Lý - Sự thâm uyên,
tinh nghiêm giới đức
Ngài không cần
băng qua Tây Vức
Cũng không cần
Đông Độ - Trung Hoa
Việt Nam ta đã có
Trung tâm Luy Lâu ngự tòa
Ngay từ thời kỳ
sơ khai, Phật Giáo truyền lưu chuyển mạch
Danh Tăng Việt
Nam, 2000 năm kiệt xuất
Danh Tăng Việt
Nam, 2000 năm tuyệt trần
Việt Nam ta đâu
có thiếu mà còn thừa
Những bậc Long
Tượng thiền môn xuất hiện “hóa thân”
Theo dòng lịch sử
lung linh huy hoàng son sắt
Danh Tăng Việt
Nam thời thời có mặt
Danh Tăng Việt
Nam thế thế rạng danh
Mỗi xuất xử,
thong dong mây trắng trời xanh
Mỗi hành trạng,
vẽ chi “tầng không nhạn quá”
Nào Khương Tăng
Hội, ngàn năm bia đá
Nào Vạn Hạnh,
Huyền Quang, bia sử còn mờ
Nào Trúc Lâm Phật
Hoàng, thử hỏi hư vô
Trong Càn Khôn,
lấy gì để sánh
Nay, tôi chỉ nêu
danh một Ngài Trí Tịnh
Đại hạnh khiêm
từ, đại nguyện thâm sâu
Việt Tạng - quốc
ngữ, bảo ngọc minh châu
Độc thọ khai hoa,
một đời phụng hiến
Mọi ngôi chùa
Việt Nam, khi kinh kệ trầm hùng lên tiếng
Bao nhiêu bộ kinh
lớn nhỏ, khi ngân lên ẩn hiện tên Ngài
Mọi Đạo Tràng từ
Châu Thành, Phố Thị, Thôn Quê trân trọng tên ai
“Hân Tịnh Tỳ kheo”,
“Pháp thân” của Ngài châu sa phổ hóa
Ngài còn cưu
mang, vì Quê hương đang khổ
Ngài còn cưu
mang, vì Giáo Hội đang cần
Ngài còn giảng
dạy, cho hàng Hậu học đức ân
Chứ đâu phải dành
riêng sưu tra trầm tích chuyển dịch
Phàm có hai vai,
Ngài có bao nhiêu vai, để gánh
Phàm có hai tay,
Ngài có bao nhiêu tay, để làm
Một ngày có 24
giờ, thời khắc còn đâu
Nhưng Ngài không
hẹn lần hẹn lữa một hai
Đa sự vẫn vẹn
toàn, và chuyên tu nghiêm mật
Cuộc đời Ngài,
quả thật phi thường kiệt xuất
Xuất chúng siêu
phàm, có một không hai
Một Ngàn năm
trước, làm lu mờ sắc ngọc hoa cài
Một Ngàn năm sau,
đèn đuốc hậu lai khó soi tới
Cuộc lữ trăm năm,
thân nào không mỏi
Bách niên ư hữ,
một kiếp Ta Bà
Ngài hơn 90, đại
thọ chưa pha
Tâm lực vẫn kiên
trinh
Trí lực vẫn
nguyên vẹn
Nhìn trụ vũ
Tôi đứng bên
khung thềm đưa tay vén
Hỏi hư vô
Còn chỗ nào muốn
trùm khắp nữa không
Kìa, xem bóng
nguyệt dòng sông
Đẩy xô mặt nước
bềnh bồng mà chi
Kìa, xem vần vũ
li ti
Ngựa đua dưới
nước, thuyền thì chèo non
Việt Nam ta, ửng
dấu son
Cần chi vay muợn
lối mòn tha nhân
Việt Nam ta,
tuyệt thế trần
Cần chi rũ mặt
phù vân ngoại hình
Việt Nam ta có
của mình
Của mình siêu
xuất tuyệt tình nhớ nghe
"Nhạn quá tầng
không", không cần ai nhớ
Ngàn sau lưu ảnh,
nào hỏi nhớ quên
Việt Tạng xưng
dương, Pháp Bảo Tôn Kinh
Trí Tịnh an nhiên,
trùng trùng sinh diệt
Phật Giáo Việt
Nam truy tôn thi thiết
Từng chữ từng câu
trì tụng thời thời
Chuông mõ ngân
vang trầm bỗng nơi nơi
Tôn danh Ngài
tương ưng vô biệt xứ
Xin viết đôi lời,
hãy lìa ngôn nắm ý
Xin ghi đôi câu,
y nghĩa bất y nhân
Phật Giáo Việt
Nam, có danh tăng Việt Nam
Không những chỉ
Tam Tạng tinh thông, Ưu thời mẫn thế
Mà vũ trụ càn
khôn, lọt bũm chân lông, không đầy hạt cải.
Ngày 05 tháng 01
năm 2011
Thích Nhật Tân - Mặc
Giang kính bút
Trailer phim "VỀ
PHÍA MẶT TRỜI" do Hãng phim Sen Việt thực hiện


|