Pháp Sư Hui Shen
và Phái Đoàn Truyền Bá Phật Giáo
Đến Châu Mỹ Trước
Ông Columbus
Thích Nguyên Tạng dịch
Những thế kỷ đầu
của Tây lịch đã được đánh dấu bằng hoạt động
truyền bá Phật Giáo mạnh mẽ vượt quá biên giới
Ấn Độ. Tiếp tục truyền thống hoằng pháp của thời
vua A-Dục, các nhà sư Phật Giáo từ Tích Lan, Nam
Ấn, đặc biệt là Kanchipuram, miền Trung và Bắc
Ấn đã tham gia từ thiên niên kỷ đầu Tây lịch vào
việc truyền bá lời Phật dạy đến những miền đất
xa xôi như Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, Mông
Cổ, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt
nam và một số quốc gia khác. Những vị sư này
mang theo họ những hình tượng, ngọc xá lợi và
một vài bản kinh chép tay.
Trong nhiều
trường hợp, các vị này thông thạo những ngôn ngữ
của những quốc gia họ đến lưu trú và chuyển dịch
nhiều kinh Phật từ tiếng Pali và Sanskrit ra
những tiếng ấy. Những kỳ tích, những thử thách
và gian truân của các nhà truyền giáo tiên phong
này đã được ghi nhận trong những bia ký và văn
học của các quốc gia mà họ truyền bá. Sứ mệnh
của họ ở nước ngoài đã để lại dấu ấn trên nền
văn hóa của những nước họ đã từng sống.
Dù Ấn Độ là nơi
phát sinh ra Phật Giáo và chúng ta đã có một nền
văn học Phật Giáo vĩ đại được tích lũy qua nhiều
thế kỷ và đã lưu truyền đến ngày nay, chúng ta
vẫn không tìm thấy trong đó bất cứ lời ám chỉ
nào về những hoạt động truyền bá Phật Giáo ở
ngoài vùng Đại Tây Dương và Thái Bình Dương.
Nhưng kỳ thực, dường như những nhà sư Phật Giáo
đã đến những hòn đảo Thái Bình Dương và Châu Mỹ.
Chaman
Lan và một số học giả Hoa Kỳ cho rằng: không
phải ông Columbus đầu tiên tìm ra Châu Mỹ mà
chính những người di dân Hindu từ Ấn Độ. Lý luận
mới lạ này được dựa vào một số truyền thống
thịnh hành ở Trung Mỹ và Mexico. Nhưng giả thiết
này thiếu sự ủng hộ của bằng chứng văn học. Tuy
nhiên chúng ta cũng có ít nhất là một điểm
được ghi lại trong lịch sử Trung Hoa nói đến một
đoàn tu sĩ Phật Giáo đến Châu Mỹ vào thế kỷ thứ
5 sau Tây lịch và đã đưa Phật Giáo vào dạy cho
những người dân ở đó.
PHÁI ĐOÀN CỦA
PHÁP SƯ HUI SHEN (Huệ Thần, Hội Thần ?):
Mặt khác, hai
học giả Mỹ và học giả người Canada đưa ra ánh
sáng những hoạt động của phái đoàn Phật Giáo đến
Trung Mỹ và Mexico khoảng thế kỷ thứ 5 sau Tây
lịch. Những khám phá của các học giả này không
chỉ được dựa vào biên niên sử của Trung Hoa mà
còn căn cứ theo những truyền thống và tập quán
tôn giáo đang hiện hữu ở Trung Mỹ và Mexico. Đó
là một câu chuyện gây chấn động: nó thêm một
chương mới vào lịch sử Phật Giáo và những mối
quan hệ văn hoá Ấn-Mỹ cổ đại.
Theo giáo sư John
Fryer thuộc Đại Học đường California, một nhà sư
Phật Giáo tên là Hui Shen trong tiếng Trung Hoa
và bốn vị khác người gốc Kabul ở Afganistan đã
viếng thăm Trung Mỹ và Mexico vào năm 458 sau
Tây lịch với mục đích truyền dạy giáo lý của Đức
Phật. Phái đoàn tách ra làm hai chi bộ riêng
biệt đến Trung Mỹ tiến hành công việc hoằng pháp
trên 40 năm. Sau khoảng thời gian 40 năm, Pháp
sư Hui Shen, vị trưởng đoàn và cũng là một thành
viên của giáo đoàn ấy, đã đơn độc trở về Trung
Quốc năm 499 (sau Tây lịch).
Người ta không
biết phái đoàn khởi hành từ Kabul vượt đất liền
đến Trung Hoa và từ đó đến Trung Mỹ bằng đường
biển hay là đến một trong những hải cảng Ấn độ
từ Kabul và rồi sau đó giong buồm đi đến bờ biển
Thái Bình Dương. Người ta đặt giả thuyết rằng
đoàn trước tiên đến Trung Quốc, từ đó họ giong
buồm để tới Trung Mỹ. Vào thời điểm đó Trung Hoa
là trung tâm nổi tiếng về những hoạt động truyền
bá Phật giáo ở châu Á. Cho dù thời ấy phái đoàn
đã theo lộ trình nào đi nữa, thì Pháp sư Hui
Shen trong chuyến trở về cũng đã đến Kinh Châu,
kinh đô nhà Tề nằm trên bờ sông Dương Tử. Ngài
phải chờ đến ba năm để xin yết kiến vị Hoàng Đế
và tâu trình về những hoạt động của mình ở Trung
Mỹ, nhưng Ngài không thể nào diện kiến với vua
được, vì nội chiến đang lan tràn ở đất nước này.
Mãi đến năm 502 sau Tây lịch, Pháp sư Hui Shen
mới được yết kiến vua Võ Đế của tân triều đại
nhà Lương và trình lên nhà vua tất cả những Phật
sự của giáo đoàn đã thực hiện ở Trung Mỹ.
CÁC CÂU CHUYỆN
ĐƯỢC GHI LẠI TRONG LỊCH SỬ:
Theo sử ký Trung
Quốc, hình như Pháp sư Hui Shen không phải người
Trung Hoa nên không nói được tiếng Hoa thông
thạo, và vua Võ Đế đã tiếp ngài như một vị sứ
thần từ Trung Mỹ đến, vì rõ ràng quốc tịch của
ngài là ở nước ngoài. Pháp sư Hui Shen đã dâng
lên Hoàng Đế những món hàng lạ kỳ, những thứ
ngài đã mang về từ Trung Mỹ và xứ Mexico. Vua Võ
Đế là một người mộ đạo Phật, lại là một thí chủ
hộ pháp, đã quan tâm đặc biệt đến chuyến hành
trình của Pháp sư Hui Shen và đề cử vị thân
vương Du Kỳ thẩm vấn Pháp sư Hui Shen chi tiết
về phái đoàn của ngài đến châu Mỹ, rồi sau đó
tường trình đầy đủ về những hoạt động của ngài ở
xứ lạ kia. Vì thế bản tường trình của Pháp sư
Hui Shen đã được thực hiện và đưa vào văn khố
của nhà Lương rồi lưu truyền đến ngày nay, được
sự xác nhận đầy đủ của sử gia Trung Hoa lừng
danh là Mã Đoan Lâm (sử gia đời Tống, viết "Văn
Hiến Thông Khảo", ghi chú của dịch giả).
Trong khi tiếp
chuyện với vị thân vương Du Kỳ. Pháp sư Hui Shen
trình rằng giáo đoàn gồm năm tăng sĩ Phật giáo
trong đó có ngài, đã đến châu Mỹ dưới thời vua
Minh Đế của triều đại nhà Tống (420 - 589) trong
khoảng 458 sau TL. Các nhà sư mang theo hình
tượng, ngọc xá-lợi và kinh sách. Thời ấy đất Mỹ
chưa biết đến đạo Phật, phái đoàn đã thành công
và họ đã có thể truyền cụ túc giới cho các Tăng
sĩ trong số người dân ở đó. Phái đoàn đi dọc
theo quần đảo Kurile và đảo Aleutian đến Alaska.
Họ khởi hành từ vùng Kamchatka, vùng này đã được
người Trung Hoa thời ấy biết đến. Pháp sư Hui
Shen miêu tả rất sinh động cái xứ sở đã được
vùng Viễn Đông biết đến với tên Fusan ấy, những
tập quán và phong cách của người bản xứ và nói
rằng xứ ấy cách khoảng 2000 dặm đến 6500 dặm về
miền đông Kamchatka và cũng là phía đông của
Trung Hoa, rõ ràng nhóm người ấy đã thực hiện
một chuyến hải trình trên một chiếc thuyền không
mui hoặc một chiếc xuồng nhỏ.
Sau khoảng 40 năm,
không biết vì lý do nào đó, Pháp sư Hui Shen đã
bị người thổ dân ngược đãi và khi cuộc sống của
ngài bị đe dọa, ngài biến mất khỏi đất nước này.
Nhưng ngài đã để lại vài dòng chữ khắc trên vách
đá. Ở Magdalana thuộc Mexico, có một pho tượng
được dựng lên để tưởng nhớ ngài với tên tuổi
được khắc vào đó. Ở Trung Mỹ có bằng cớ về
truyền thống lẫn khảo cổ chứng tỏ rằng những
thành viên kia của phái đoàn đã đi theo một
tuyến đường khác đến Trung Mỹ và tiến hành việc
hoằng pháp ở đó. Pháp sư Hui Shen quay lại Trung
Hoa một mình và không ai biết gì về những thành
viên còn lại của phái đoàn ấy nữa.
Bằng chứng này từ
văn học Phật Giáo Trung Hoa được hỗ trợ với
những phong tục tập quán, những nghi lễ, những
cổ vật được tìm thấy ở Trung Mỹ mở rộng suốt
hướng đi xuống tận những bờ biển Thái Bình Dương
từ Alaska đến Mexico và cả những địa phương khác
nằm trên đất liền, để lộ những ảnh hưởng của
Phật Giáo tại đó.
* NHỮNG TẬP QUÁN
TÔN GIÁO
Khi nói về tầm
ảnh hưởng lan rộng của văn hóa Ấn Độ đến tận
Trung Mỹ và Mexico, giáo sư John Fryer nói: "Những
tập quán tôn giáo và tín ngưỡng của xứ Mexico,
Yucatan và Trung Mỹ, cùng với lối kiến trúc niên
lịch, nghệ thuật và nhiều thứ khác được người
Tây Ban Nha khám phá khi họ chinh phục Châu Mỹ,
chứng tỏ cho thấy có sự trùng hợp hết sức kỳ lạ
về những nét đặc biệt giữa phong tục tín ngưỡng
Châu Mỹ với phong tục tín ngưỡng Châu Á, khiến
người ta ngạc nhiên và nghĩ rằng ảnh hưởng Đạo
Phật đã lan đến Châu Mỹ thời ấy. Những sự trùng
hợp như vậy nhiều đến nỗi những nhà nghiên cứu
độc lập chưa từng biết gì đến câu chuyện Pháp sư
Hui Shen cũng tin rằng ắt hẳn đã có mối liên hệ
nào đó giữa Mỹ và Châu Á từ đầu kỷ nguyên Tây
lịch ".
Giáo sư Edward P.
Vining ở San Francisco, người nghiên cứu về vấn
đề này đã nêu ra ba mươi lăm sự trùng hợp nổi
bật để chứng tỏ sự hiện diện của Phật Giáo và
văn hoá Ấn ở Trung Mỹ và Mexico trong những thế
kỷ đầu của Tây lịch. Theo ông những sự trùng hợp
rõ ràng như vậy cho thấy cả Phật Giáo và Ấn Độ
giáo đã được truyền vào Trung Mỹ trong một thời
gian dài trước khi người Tây Ban Nha đến đó. (Do
nhà hàng hải Columbus dẫn đầu chuyến công du cho
triều đình Tây Ban Nha đã khám phá ra Châu Mỹ
vào tháng 10 năm 1492.)
Một nguồn
thông tin
giá trị nữa liên quan đến việc Pháp sư Hui Shen
và đoàn truyền giáo của ngài đến châu Mỹ, đó là
hai học giả Canada, giáo sư John Murray Gibbon
và Tom Mac Innes đã công nhận việc khám phá Châu
Mỹ của Pháp sư Hui Shen. Theo họ thì pháp sư Hui
Shen đã băng qua Thái Bình Dương trong một chiếc
thuyền Trung Hoa. Ngài đến Vancouver (Canada)
khoảng năm 499 sau Tây lịch. Giáo sư Gibbon
trích lời của một nhà Địa Lý thời đại Geogre
III, người nghiên cứu vấn đề đóng góp của Trung
Hoa đối với hải trình xuyên Thái Bình Dương.
Giáo sư Mac Innes nói rằng pháp sư Hui Shen đã
trải qua mùa đông ở đảo Nootka, Canada, nơi ngài
để lại ba tăng sĩ truyền giáo. Những đồng tiền
Trung Hoa thuộc triều đại nhà Tấn được tìm thấy
ở đó vào năm 1876. Tàn tích những ngôi chùa
Phật Giáo được khám phá ở Mexico, trong tiểu
bang Somara nằm trên bờ biển Thái Bình Dương và
gần thành phố Ures, cũng trong tiểu bang ấy,
cùng với một pho tượng Phật có khắc những hàng
chữ Trung Hoa.
Sự kiện Pháp sư
Hui Shen và đoàn truyền giáo của ngài đến từ
Kabul và việc ngài không thông thạo tiếng Trung
Hoa, cho ta giả thuyết rằng ngài có thể là tu sĩ
người Ấn Độ hoặc người gốc Kabul, vốn là một
phần của Ấn Độ vào thời đó. Kabul cũng được gọi
là Cophen Kiplin, Kandahar hay Balk trong vùng
Gandhara bây giờ được sát nhập với Afghanistan
và thời ấy đã là một trung tâm truyền bá Phật
giáo. Một tăng sĩ nổi tiếng của Kabul, người đến
Trung Hoa trong khoảng thế kỷ thứ tư sau Tây
lịch và phiên dịch nhiều kinh Phật ra tiếng
Trung Hoa là ngài Chúng Thiên (Sanghadeva, Tăng-già-đề-bà).
Mặc dù ngày nay Pháp sư Hui-Shen được biết với
cái tên Trung Hoa, rất có thể ngài đã là người
Ấn gốc Ấn Độ hay Kabul đến vậy.
Thích Nguyên Tạng dịch
(theo tài liệu: V. G. NAIR, Realist Buddhist,
Malaysia, 1992)
|