Nguồn Gốc Kinh
Đại Thừa
Kỹ sư Nguyễn
Trung Hiếu

Đại cương
Kinh Đại thừa rất
dài, viết bằng tiếng Sanskrit, rất cao siêu, rất
linh động, khi thực, khi hư và chỉ bắt đầu xuất
hiện sau hơn 500 năm, kể từ khi đức Phật nhập
diệt.
Đức Phật không có
dạy kinh Đại thừa cho 10 Đại đệ tử của Ngài
Vì thế, hoàn toàn
không có kinh Đại thừa, trong lần kết tập kinh
điển thứ nhất, tại động Thất Diệp, Satiapanni,
thành Vương xá, Rãjagãha, do ba Đại đệ tử: Ma-
Ha- Ca- Diếp, Ưu- Ba- Ly (luật) và A-Nan-Đà (kinh) đồng
chủ toạ, dưới sự bảo trợ của vua A-Xà-Thế,
Ajatasattu. (Hoà thượng Rewata Dhamma viết theo
Tiểu phẩm Cullavagga trong Tạng luật)
Lập luận cho rằng:
Đức Phật cũng đồng thời dạy kinh Đại thừa cho
những chúng sinh nào có trình độ hiểu biết cao …
là không hợp lý. Đó là vì, như đã nói trên,
chính các Đại đệ tử của Phật, cũng có trình độ
hiểu biết cao, nhưng không hề biết gì về kinh
Đại thừa cả.
Lập luận khác,
thực tế hơn và khả tín hơn cho rằng: Sau hơn 500
năm, kể từ khi Phật nhập diệt, khoảng thế kỷ thứ
nhất của Tây lịch các Tổ sư của Phật giáo như
ngài: Hiếp Tôn Giả, Mã Minh, Long Thọ, Vô Trước,
Thế Thân… mới suy diễn và thêm thắt kinh Nguyên
thủy để viết ra kinh Đại thừa. Sự việc cũng
tương tự như Ngài Huệ Năng, cũng suy diễn từ
kinh Nguyên thủy để viết ra kinh Pháp-Bảo-Đàn, ở
thế kỷ thứ 7.
Dẫn chứng
Theo sử liệu thì
sau 3 tháng kể từ khi đức Phật nhập diệt, tăng
sĩ tập họp lại để hồi tưởng và kết tập các lời
dạy của Phật thành bộ kinh Nguyên thủy. Ngược
lại, sau hơn 500 năm, kinh Đại thừa mới bắt đầu
xuất hiện. Như vậy “Nguồn gốc kinh Đại thừa” từ
đâu mà có? Và kinh Đại thừa so với kinh Nguyên
thủy có khác nhau gì không ? Các luận cứ sau đây
kiểm chứng điều đó:
Luận cứ 1: Nói
rằng: Bộ kinh Bát Nhã được Phật truyền giảng
trên núi Linh Thứu, trước một đại chúng 5000
người. Dalai Lama
viết trong sách: “Tinh túy Bát Nhã tâm kinh” như
sau: “Khó mà biết kinh Bát Nhã có phải là lời
dạy của Phật hay không? Tôi đã đến Linh Thứu.
Tại đây không thể chứa 5000 người”. Như vậy
Dalai Lama cũng hoài nghi nguồn gốc kinh Đại
thừa.
Luận cứ 2:
Thầy Thích Hạnh Bình viết trong trang mạng Quảng
Đức, bài: “Kinh điển Đại thừa có phải là Phật
thuyết không ?” như sau: “Trong các lần kết tập
thứ nhất, thứ hai và thứ ba chỉ có năm bộ Nikãya
(kinh bộ) và bốn bộ Agama (A - hàm), nhưng không
có kinh Đại thừa”.
Như vậy kinh Đại
thừa được hình thành sau nầy.
Luận cứ 3:
Theo sách “Sự hình thành Đại thừa” của J. O’
Neil, Kinh Đại thừa xuất hiện khoảng 100 năm
trước công nguyên. Như vậy kinh Đại thừa là do
các tăng sĩ viết ra, sau hơn 500 năm kể từ khi
Phật nhập diệt.
Luận cứ 4: Khi
cố gắng nhớ để ghi lại lời dạy của Phật, thì chỉ
có thể ghi lại một cách tóm lược, ngắn gọn vài
trang, giống như kinh Nguyên thủy, chớ không thể
ghi lại một cách chi li, đầy đủ từng chi tiết,
trường giang đại hải như kinh Đại thừa. Cụ thể
là bộ kinh Đại Bát Nhã có tất cả là 600 quyển,
Kinh Hoa Nghiêm có 80 quyển… Thời gian thực hiện
tất cả các bộ kinh nầy cũng phải là vài chục
năm, vượt quá thời lượng của các lần kết tập. Do
đó nếu nói kinh Đại thừa là do tăng sĩ kết
tập là không hợp lý.
Luận cứ 5:
Nói rằng: kinh điển được Phật dạy theo thứ tự
của “Ngũ thời Phật giáo”?. Thế nhưng trong các
lần kết tập, tăng chúng chỉ ghi lại kinh A Hàm
trong thời kỳ A Hàm thời mà không nói gì đến các
thời kia như: Hoa Nghiêm thời, Phương Đẳng thời,
Bát Nhã thời, Pháp Hoa thời. Như vậy “Ngũ thời
Phật giáo” là không có cơ sở để tin được.
Luận cứ 6:
Nói rằng: “Đức Phật không giảng dạy kinh Đại
thừa cho loài người. Đức Phật chỉ giảng dạy kinh
Đại thừa ở cõi trời, cho Chư Thiên mà thôi. Chư
Bồ tát đã kết tập các kinh điển trên và truyền
lại cho cao tăng”. Biện giải trên quá thần bí,
vì Chư Bồ tát là vô hình, vô tướng.
Luận cứ 7: Từ
ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana)
chỉ tìm thấy trong kinh Pháp hoa mà không có
trong các kinh điển trước đó. Thế nhưng kinh
Pháp hoa xuất hiện khoảng thế kỷ thứ nhất Tây
lịch và như vậy hai danh từ trên cũng bắt đầu có,
từ thời điểm đó.
Luận cứ 8:
Trong Hán tạng A hàm, Phật dạy Ananda về Pháp
thừa, Dhammayana như sau: “Nầy Ananda, con đường
Tám Chánh (Bát chánh đạo) đồng nghiã với cỗ xe
tối thượng, là “cỗ xe Pháp”, là sự chiến thắng
vô thượng trong mọi chiến trận nhiếp phục: tham,
sân, si”. Như vậy đức Phật chỉ nói về: “cỗ xe
Pháp thừa”, chớ không có nói: “cỗ xe lớn” hay
“cỗ xe nhỏ”, cũng không có nói: Đại thừa hay
Tiểu thừa gì cả. Trên thế giới, không có tông
phái nào có tên gọi là: ‘Phật giáo Tiểu thừa’ và
danh từ Tiểu thừa cũng không có trong kinh
Nguyên thủy. Phật giáo Đại thừa, có nghiã là cỗ
xe lớn, tự ý chế tác danh từ Tiểu thừa, là cỗ xe
nhỏ, để gọi chung tất cả các tông phái khác của
Phật giáo. Vì thế năm 1950, “Hội Phật giáo Thế
giới, WFB” nhóm họp tại Colombo, quyết định xóa
bỏ danh từ Tiểu thừa.
Luận cứ 9: Kinh
Nguyên thủy và kinh Đại thừa đều do tăng chúng
viết ra. Sự khác biệt giữa hai loại kinh nầy là:
Kinh Nguyên thủy rõ ràng, bình dị như: kinh Voi
rừng, kinh Hạnh con
chó, kinh Người áo trắng, kinh Lời vàng, kinh
Chiếc bè, kinh Cái nồi đất, kinh Thanh tịnh … là
do các tăng sĩ kết tập, ghi lại lời dạy của Phật
một cách trung thực, ngắn gọn, không thêm, không
bớt. Khác hẳn kinh Nguyên thủy, tên gọi của các
bài kinh Đại thừa rất văn hoa, bóng bẩy như: Hoa
nghiêm, Bát nhã, Pháp hoa, Kim cang, Vô lượng
thọ, Pháp bảo đàn … Kinh Đại thừa không do kết
tập như trên, mà do nhiều vị Sư tổ của Phật giáo
suy diễn từ kinh Nguyên thủy để viết ra và
vì thế, tùy theo sự hiểu biết cá nhân, thêm điều
nầy, bớt đoạn kia cho nên kinh Đại thừa, với
nhiều huyền nghiã và ẫn dụ, rất cao siêu và cũng
rất mâu thuẫn, khi nói có, khi nói không, khi
thực, khi hư.
* Thí dụ về sự
mâu thuẫn: Trong kinh Tứ niệm xứ, Phật giáo Đại
thừa ghi là: “Quán Pháp vô ngã”. Như vậy “Vạn
pháp” chỉ là vô ngã, chớ không vô thường hay sao?
* Thí dụ về sự
suy diễn: Trong kinh Nguyên thủy Phật dạy là:
“con người có Lục thức”. Đại thừa suy diễn để
thêm 4 thức nữa thành 10 thức. Bốn thức đó là:
Manas, Alaya, Amala và Hridaya.
* Thí dụ về sự
bất nhất: Thần chú là linh ngôn, mật ngữ không
thể sửa đổi. Thế nhưng thần chú của Bát Nhã tâm
kinh vẫn bị sửa đổi. Kinh sách nầy ghi là: Gate,
Gate, Paragate, Parasamgate, Boddhi Svaha. Kinh
sách kia lại ghi: Yết đế, Yết đế, Ba la yết đế,
Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha.
* Thí dụ về đức
tin: Quy y Phật là: quy y với Phật, ở bên ngoài.
Nhưng theo kinh Pháp Bảo Đàn là: quy y với Phật
tâm, ở trong ta. Như vậy là hữu ngã?
Luận cứ 10: Theo
kinh Nguyên thủy, Phật là vị A la hán đã đắc đạo,
khi còn tại thế gian. Ngược lại theo thuyết “Tam
thân Phật” của Đại thừa, Phật Thích Ca đã là
Phật, từ vô lượng kiếp và ngài nhập thế là để
hoá độ. Nếu như vậy thì Phật Thích Ca đã biết là
phải tu hành như thế nào? Ngài đâu cần phải: “6
năm khổ hạnh rừng già để tầm đạo, đến nổi gần
vong mạng”. Do đó thuyết “Tam thân Phật” của Đại
thừa không phải là lời của Phật dạy.
Luận cứ
11: Kinh
Nguyên thủy viết bằng tiếng Pãli. Kinh Đại thừa
viết bằng tiếng Sanskrit. Mặc dù Sanskrit phong
phú về từ ngữ hơn Pãli, nhưng Phật giáo Nguyên
thủy vẫn chọn Pãli để viết kinh cho trung thực
với lời giảng của Phật, vì đó là ngôn ngữ mà
Phật đã thuyết pháp khi xưa. Kinh Pháp cú bằng
tiếng Pãli, bià bằng gỗ, viết trên lá bối hiện
đang lưu giữ tại Tích Lan.
Luận cứ 12: Theo trang mạng của Thư viện Hoa sen: Tôn giả Ma Ha Ca Diếp đề cử tôn
giả A Nan Đà kết tập kinh điển và được đại chúng
nhất trí. Tôn giả A Nan Đà lần lượt kết tập các
kinh sau đây: Tăng nhất, Tăng thập, Đại nhân
duyên, Tăng kỳ đà, Sa môn quả, Phạm động và
những kinh Phật thuyết giảng cho Tỳ kheo, Tỳ
kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di. Những kinh dài kết
tập thành một bộ gọi là Trường A hàm. Những kinh
trung bình kết tập thành một bộ gọi là Trung A
hàm. Những kinh nói cho nhiều đối tượng như: Tỳ
kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di được kết
tập thành một bộ gọi là Tạp A hàm. Những kinh
lần lượt nói từ một pháp tăng dần đến mười pháp
kết tập thành một bộ gọi là Tăng nhất A hàm. Các
kinh nói bao quát nhiều vấn đề thành một bộ gọi
là Tạp tạng. Thế rồi tôn giả Ma Ha Ca Diếp tuyên
bố: Chúng ta đã kết tập xong giáo pháp. Đây là
các tài liệu cổ nhất, đánh dấu bước đầu hình
thành Chánh tạng Pãli. Như vậy đức Phật không có
dạy kinh Đại thừa cho 10 Đại đệ tử của Ngài.
Luận cứ 14:
Nalinaksha Dutt viết: “Tập kinh
Saddharmapundarika, thuộc kinh Pháp hoa của Đại
thừa, dùng hai lời tuyên bố của Phật, trong kinh
Nguyên thủy để chứng minh kinh Đại thừa là lời
dạy của Phật”.
* Lời tuyên bố
thứ nhất của đức Phật là: Sau khi giác ngộ, Phật
ngần ngại không biết có nên truyền thuyết giáo
pháp cho đại chúng hay nhập Niết bàn? Tăng sĩ
Đại thừa giải thích là: giáo lý Đại thừa quá cao
siêu nên Phật mới ngần ngại ?
* Lời tuyên bố
thứ hai của đức Phật là: Phật giảng chánh pháp
không nhất luật phải như nhau. Tăng sĩ Đại thừa
giải thích là: Phật muốn giảng dạy giáo lý
Nguyên thủy trước, rồi sau đó, sẽ giảng giáo lý
Đại thừa sau ?
Dùng kinh Nguyên
thủy để biện minh: ‘Nguồn gốc kinh Đại thừa’ rất
là hay, rất là “logic”. Thế nhưng trong trường
hợp nầy, cách giải thích trên rất gượng ép,
không rõ ràng, vì hai câu kinh trên có thể giải
thích theo nhiều ý nghiã khác hẳn.
Luận cứ 15:
Tiến sĩ thiền sư Suzuki viết: “Kinh Đại thừa
không phải là lời dạy chính xác của đức Phật,
nhưng các tăng sĩ Đại thừa rất hãnh diện về sự
kiện nầy, vì đó là một sức mạnh tôn giáo linh
động”.
Luận cứ 16:
J.R. O’Neil viết: “Kinh của Đại thừa hoàn toàn
khác hẳn về văn phong, âm điệu, nhưng chúng được
nhiều người theo phong trào mới chấp nhận là
“Phật ngôn” vì nhiều lý do:
A* Thứ nhất, họ
tin rằng đức Phật vẫn hiện hữu, sau khi nhập
diệt. Vì thế Đức Phật vẫn có thể truyền giảng
kinh Đại thừa cho cao tăng, qua việc hành thiền,
nhập định của các vị nầy.
* Nghi vấn: trong
ảo mộng, tăng sĩ lầm tưởng là được Phật truyền
dạy kinh Đại thừa? Tương tự, nhiều Giáo chủ của
ngoại đạo cũng tự nhận là được Thượng đế truyền
đạt giáo chỉ? Thực hay hư?
B* Thứ hai, kinh
Đại thừa được xem như sản phẩm từ tuệ giác của
các cao tăng đã hoàn toàn giác ngộ cho nên cần
được xem như là lời dạy của Phật.
* Nghi vấn: Ngài
Thế Thân cũng nói như trên. Xem luận cứ kế tiếp,
số 17. Thế nhưng làm sao biết được bài kinh nào
là của Thánh tăng sáng tạo và bài kinh nào là
của Phàm tăng tạo dựng như kinh: Lâu đài trinh
phụ, Dutiyapatibbatà-Vimàna.
C* Thứ ba, kinh
Đại thừa là lời giảng của đức Phật, nhưng đã
được dấu đi tại quốc độ của các loài thần rắn
(Naga, Long vương), cho đến khi nào loài người
đủ kiến thức, có thể hiểu được tầm mức quan
trọng của kinh thì mới thỉnh được chúng.
* Nghi vấn: Đức
Phật không có dạy kinh Đại thừa cho 10 Đại đệ tử
của Ngài. Như vậy đức Phật cũng không có dạy
kinh Đại thừa cho bất cứ ai. Hơn nữa mang kinh
sách đi cất dấu? thì sau nầy, hậu sinh làm sao
tìm cho được?
Luận cứ 17: Ngài
Thế Thân viết quyển sách: “Pháp tướng Duy thức
học” rất nổi tiếng. Ngài đã làm cho Phật giáo
Đại thừa phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ thứ tư.
Về nguồn gốc kinh Đại thừa,
ngài nói: “Có thể kinh Đại thừa là do một vị nào
đó? viết ra và vị đó? ắt hẳn đã chứng quả Bồ đề
như Phật Thích Ca và như vậy kinh Đại thừa cũng
phải được xem như là lời Phật dạy”. Câu nói của
ngài Thế Thân chứng tỏ là ngài cũng tin là kinh
Đại thừa, có thể do cao tăng nào đó viết ra.
Luận cứ 18: Theo
kinh A hàm, Tăng chi bộ 1, Phật dạy Thiền chỉ,
Samatha để định tâm. Đó là: Niệm Thiên, niệm
Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm trược, niệm tịnh…
Phật giáo Đại thừa suy diễn từ pháp tu: “Niệm”
nói trên và sửa đổi lại, thành ra: niệm Phật A
Di Đà, niệm Bồ tát Quán Thế Âm để vừa định tâm,
vừa cầu xin cứu độ. Như vậy kinh Đại thừa là sự
suy diễn từ kinh Nguyên thủy.
Luận cứ 19: Tăng
sĩ Nguyên thủy có đầy đủ lịch sử, kinh sách, tài
liệu để chứng minh kinh Nguyên thủy
là lời dạy của đức Phật. Tôn giả Ma Ha Ca Diếp
và A Nan Đà kết tập lời Phật dạy một cách trung
thực, ngắn gọn, rõ ràng, không thêm, không bớt
tại động Thất Diệp để hoàn tất giáo pháp và luật
lệ tu hành của đạo Phật. Trong lần kết tập thứ
hai, giáo pháp (Dhamma) bị tách ra làm hai và
được sắp xếp lại cho thứ tự, gọn gàng trong 3
tạng Tipitaka (basket). Đó là: Tạng kinh
(Suttanta), tạng vi-diệu (Abhidhamma) và tạng
luật (Vinaya) tức là Tam tạng Pãli. Chánh
tạng nầy là căn bản tu học của đạo Phật Nguyên
thủy.
Luận cứ 20: Ngược
lại, tăng sĩ Đại thừa không có một chứng cớ cụ
thể nào để chứng minh kinh Đại thừa là “Phật
ngôn” (Buddhavaccana). ngoại trừ những dẫn chứng
siêu nhiên, thần bí, như theo luận cứ số 6 và
16. Không thể phản bác, tăng sĩ Đại thừa chỉ có
thể chứng minh là có một số bài kinh của Nguyên
thủy, cũng không phải là Phật ngôn như: kinh Na
tiên, kinh Điạ ngục, kinh Lâu đài trinh phụ (Dutiyapatibbatà-Vimàna)
vân vân.
Kết luận
Phật giáo Nguyên
thủy có hai loại kinh.
A* Loại kinh thứ
nhất do Phật thuyết như: kinh Voi rừng, kinh
Hạnh con chó, kinh Người áo trắng, kinh Lời vàng,
kinh Chiếc bè, kinh Cái nồi đất, kinh Thanh tịnh,
kinh Phước đức, kinh Từ bi vân vân … và …
B* Loại kinh thứ
hai do cao đồ, cao tăng biên soạn như: kinh Na
tiên, kinh Điạ ngục, kinh Lâu đài trinh phụ (Dutiyapatibbatà-Vimàna)
vân vân.
Ngược lại, Phật
giáo Đại thừa chỉ có một loại kinh duy nhất. Đó
là các kinh sau đây: Hoa nghiêm, Bát nhã, Pháp
hoa, Kim cang, Vô lượng thọ, Lăng nghiêm, Viên
giác vân vân. Loại kinh nầy là do các Tổ sư của
Phật giáo như: Ngài Mã Minh, Long Thọ, Vô Trước,
Thế Thân … suy diễn và thêm thắt kinh Nguyên
thủy để viết ra kinh Đại thừa, ở thế kỷ thứ nhất
của Tây lịch, sau hơn 500 năm, kể từ khi Phật
nhập diệt. Sự việc cũng tương tự như Ngài Huệ
Năng, cũng suy diễn từ kinh Nguyên thủy để viết
ra kinh Pháp-Bảo-Đàn, ở thế kỷ thứ 7.
Phụ chú:
Lịch sử phát
triển Phật giáo
Trong lần kiết
tập kinh điển lần thứ hai, vào khoảng 100 năm,
sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, Phật giáo Nguyên
thủy bị phân hoá thành hai bộ phái chính yếu. Đó
là: Mahāsanghika (Đại Chúng Bộ) và Theravāda (Thượng
Toạ Bộ). Về sau, hai bộ phái trên lại bị phân
hoá thêm nữa, thành ra 18 bộ phái.
Mahāsanghika
(Đại Chúng Bộ) chủ trương cấp tiến. Để có thể
truyền bá đạo Phật cho đại chúng, Đại Chúng Bộ
đã phải sửa đổi một vài giáo lý của đức Phật để
thích nghi với điều kiện sinh sống, phong tục,
tập quán của từng điạ phương.
Theravada (Thượng
Toạ Bộ) chủ trương bảo thủ. Vì thế tương đối,
vẫn còn giữ nguyên lời dạy của đức Phật như: Vẫn
tu học Tứ niệm xứ, tu thiền Minh sát tuệ và tu
hành theo gương của Phật như: trì bình bát, đi
khất thực, không mang giày dép, đắp cà sa vàng
như Phật, đọc kinh bằng ngôn ngữ của Phật thay
vì bằng tiếng điạ phuơng …
Phật giáo Nguyên
thủy của đức Phật khi xưa và Phật giáo Theravada
ngày nay không hẳn là giống hệt như nhau. Nhưng
Theravada vẫn được gọi là Phật giáo Nguyên thủy
để phân biệt với Phật giáo Đại thừa. Căn bản chủ
yếu trong việc tu hành của Phật giáo Nguyên thủy
là hành Thiền, giống như đức Phật khi xưa, hành
thiền dưới cội Bồ đề. Đó là: Thiền Chỉ tịnh,
Samatha và Thiền Quán minh, Vipassana. (còn gọi
là thiền Minh sát tuệ).
Phật giáo Đại
thừa giới thiệu nhiều vị Phật và Bồ tát trong
kinh A Di Đà, kinh Pháp hoa, kinh Vô lượng thọ …
để chúng sinh thờ phượng và để đáp ứng nhu cầu
tâm linh của Phật tử, là muốn có tha lực thiêng
liêng phò trì. Vì thế, căn bản chủ yếu trong
việc tu hành của Phật giáo Đại thừa là: Niệm
Phật A Di Đà để cầu vãng sinh và Niệm hồng danh
Bồ tát để xin cứu độ.
Nguyễn Trung Hiếu
dienluc@dslextreme.com


|