Sự thật lịch sử
về biểu tượng
'Chữ Thập Ngoặc'
của Đức Quốc Xã
Phạm Việt Hưng
Rất nhiều người
thắc mắc không hiểu tại sao chữ Vạn của Phật
giáo lại có hình thức trùng lặp với “chữ thập
ngoặc” của Đức Quốc Xã.
Biểu tượng chữ Vạn hay “chữ thập ngoặc” - một
biểu tượng hình chữ thập với bốn đầu mút gập
vuông góc về cùng một hướng - được người phương
Tây gọi chung là Swastika. Tại sao Hitler lại sử
dụng Swastika làm biểu tượng cho Đức Quốc Xã,
điều này có một căn nguyên lịch sử sâu xa.
Gọi là “chữ”,
nhưng thực ra cả hai đều là những biểu tượng.
Người Việt gọi hai biểu tượng này bằng hai tên
gọi khác nhau, nhưng người Tây phương đều gọi là
Swastika, vì cả hai có hình thức bề ngoài hoàn
toàn giống nhau. Một số tài liệu Phật giáo, thậm
chí cả một số Bách khoa toàn thư, đã cố gắng
chứng minh rằng hai biểu tượng này có hình dạng
khác nhau – khác nhau về chiều quay và khác nhau
về tư thế thẳng đứng hoặc nghiêng:
Chữ Vạn quay thuận chiều, “chữ thập ngoặc” quay
ngược chiều; Chữ Vạn thẳng đứng, “chữ thập
ngoặc” đổ nghiêng. Nhưng thực tế không đúng như
thế: Chữ “Vạn” của Phật giáo sử dụng cả hai
chiều quay trái ngược nhau, “chữ thập ngoặc” của
Đức Quốc Xã sử dụng cả hình đứng lẫn hình
nghiêng. Tóm lại về hình thức bề ngoài, hai biểu
tượng này hoàn toàn giống nhau. Vì thế, cần
tìm hiểu vì sao có sự “trùng lặp” khó hiểu như
vậy. Tuy nhiên, tìm hiểu lịch sử của Swastika
chúng ta sẽ thấy rằng:
● Swastika
đã xuất hiện từ thời cổ đại, ngay từ đầu nó
không chỉ là biểu tượng của riêng Phật giáo, mà
là biểu tượng của rất nhiều nền văn hoá và
tôn giáo khác nhau.
● Swastika của
Đức Quốc Xã hoàn toàn không liên quan gì đến chữ
Vạn của Phật giáo, mà chỉ liên quan đến Swastika
của người Aryan.
Vậy để tránh nhầm
lẫn, bài viết này sẽ sử dụng tên gọi chung của
biểu tượng này là Swastika. Chữ Vạn sẽ chỉ được
dùng khi đề cập đến Swastika của Phật giáo.
Vậy Swastika có
xuất xứ từ đâu? Ý nghĩa nguyên thuỷ của nó là gì?
Người Aryan là ai? Tại sao Hitler lại sử dụng
Swastika của người Aryan? Đó là những câu hỏi
cần được trả lời.
Trên thực tế, Swastika là một trong những biểu
tượng cổ xưa nhất mà loài người đã sử dụng. Nó
đã được phát hiện trên những di chỉ khảo cổ có
độ tuổi trên 3.000 năm tại các vùng Lưỡng Hà, Ấn
Hằng… Swastika xuất hiện ở hầu khắp các lục địa
Á, Âu, Mỹ, được gọi bằng nhiều cái tên khác nhau.
PHẦN I: TỪ
SWASTIKA ĐẾN ARYAN
I.1-Hành trình và
ý nghĩa nguyên thuỷ của Swastika:
Swastika là một
trong những biểu tượng cổ xưa nhất mà loài người
đã sử dụng. Nó đã được phát hiện trên những di
chỉ khảo cổ có độ tuổi ít nhất hơn 3000 năm tại
khu vực thung lũng nằm giữa hai con sông
Euphrates và Tigris và một số vùng trong thung
lũng Indus. Swastika cũng xuất hiện trên các
bình gốm và những đồng xu cổ trên đống đổ nát
của thành T’roa (Troy), chứng tỏ nó đã được sử
dụng ít nhất từ 1000 năm trước C.N.
Mặc dù chưa ai vẽ
ra được một “lộ trình di cư” chính xác của
Swastika qua các thời đại, nhưng có thể biết
chắc chắn rằng trải qua hàng ngàn năm, Swastika
đã có mặt ở hầu khắp các lục địa Á, Âu, Mỹ. Vì
thế, Swastika có rất nhiều tên gọi khác nhau.
Tiếng Hán gọi là “wan” (Vạn), tiếng HyLạp –
tetraskelion, tiếng Pháp – croix gammé, tiếng
Anh – fylfot, tiếng Đức – hakenkreuz, tiếng Ý –
croce uncinata, v.v… Nhưng tên gọi phổ biến nhất
vẫn là swastika, bắt nguồn từ chữ svastika (đọc
là suastika) trong tiếng Sanscrit – ngôn ngữ cổ
Ấn Độ.
Trong tiếng
Sanscrit: Sv, đọc là su, có nghĩa là tốt lành
(good, well); asti có nghĩa là tồn tại (to be);
ka là một tiếp vĩ ngữ thể hiện một sự vật hay sự
việc nào đó. Vậy swastika là một sự vật hay một
sự việc tồn tại tốt lành, hoặc có trạng thái tốt
lành (well-being).
Charles Messenger trong cuốn “Lịch sử Thế Chiến
II bằng hình” (The Pictorial History of World
War II) nói rằng Swastika thể hiện sự phồn thịnh
(prosperity) và sáng tạo (creativity).
Swastika trong
nghệ thuật của người Hindu có các dấu chấm trong
các cung phần tư, nhưng Swastika của Hindu giáo
(Ấn giáo) không có những dấu chấm này, thể hiện
sự thiêng liêng cao cả.
Tên gọi phổ biến, Swastika, bắt nguồn từ chữ
svastika (đọc là suastika) trong tiếng Sanscrit
– ngôn ngữ cổ Ấn Độ. Trong tiếng Sanscrit,
Swastika có nghĩa là một sự vật hay một sự việc
tốt lành. Swastika của người Ấn Độ thường được
trang trí thêm các chấm tròn ở các góc một phần
tư.
Phật giáo đã thừa hưởng Swastika của Hindu giáo.
Trong các kinh Phật, Swastika thường xuất hiện
ngay ở phần mở đầu. Trong tiếng Hán, chữ Vạn
(wan) biểu thị cái bao trùm tất cả (all) và sự
vĩnh hằng (eternity).
Cuốn “Phật Học
Quần Nghi” xuất bản tại Đài Loan viết:
Theo truyền
thuyết cổ Ấn Độ, phàm là thánh vương chuyển luân
cai trị thế giới đều có
32 tướng tốt. Phật là một thánh vương trong Pháp
nên cũng có 32 tướng tốt. Điều này được ghi
trong kinh Kim Cương Bát Nhã. Chữ Vạn là một
trong 32 tướng tốt của Phật. Theo kinh Trưòng A
Hàm thì đó là tướng tốt thứ 16 nằm trước ngực
của Phật.
Tại Nhật Bản, chữ
Vạn của Phật giáo được gọi là manji, thể hiện
Dharma – sự hài hoà và cân bằng âm dương trong
vũ trụ (giống tư tưởng của Dịch và Lão học) –
trong đó manji quay trái được gọi là một omote
manji, thể hiện tình yêu và lòng nhân từ, khoan
dung; manji quay phải được gọi là ura manji, thể
hiện sức mạnh và trí thông minh.
Tại Nam Âu, khu
vực tiếp giáp với châu Á, dấu vết Swastika cũng
đã được tìm thấy trong các công trình kiến trúc
thuộc nền văn hoá Byzantine – nền văn hoá thuộc
khu vực Biển Đen và Địa Trung Hải kéo dài từ thế
kỷ thứ 7 trước CN đến tận thời trung cổ.
Dấu vết Swastika
cũng xuất hiện trong các đền đài thuộc nền văn
hoá Celtic (đọc là Seltic hoặc Keltic) – nền văn
hoá đậm nét Âu châu phi Địa Trung Hải, có xuất
xứ từ Tây và Trung Âu từ khoảng 1000 năm trước
CN kéo dài mãi đến nhiều thế kỷ sau CN, ảnh
hưởng sâu rộng khắp Âu châu. Chủ nhân của nền
văn hoá này là người Celt – người nói tiếng
Celtic – những người nổi tiếng thông minh, yêu
tự do, dũng cảm trong chiến đấu.
Các công trình nghiên cứu vào cuối thế kỷ 19 của
giới khảo cổ học phương Tây đã chỉ ra rằng, chủ
nhân của biểu tượng Swastika là người Aryan -
các cư dân cao lớn có nước da sáng màu sinh sống
từ xa xưa trên vùng cao nguyên Iran ở Nam Á.
Cần đặc biệt chú
ý rằng ngôn ngữ Celtic là một bộ phận của một
nhóm ngôn ngữ rộng lớn hơn được gọi là ngôn ngữ
Aryan hoặc ngôn ngữ Ấn-Âu. Vậy ngôn ngữ Aryan và
ngôn ngữ Ấn-Âu là gì?
I.2-Ngôn ngữ
Aryan và người Aryan:
Những người ít
quan tâm đến ngôn ngữ học có thể sẽ rất ngạc
nhiên khi biết rằng hầu hết các thứ tiếng Âu
châu ngày nay hoá ra lại có chung một thuỷ tổ
với tiếng Hindi (tiếng Ấn Độ).
Thuỷ tổ ấy là
ngôn ngữ Aryan, hoặc ngôn ngữ Ấn-Âu
(Indo-European languages) – ngôn ngữ của những
cư dân sinh sống từ xa xưa trên vùng cao nguyên
Iran ở Nam Á, giữa vùng biển Caspian và vùng núi
Hindu Kush ngày nay. Những cư dân này tự gọi
mình là người Aryan.
Vào khoảng
1500 năm trước CN, người Aryan đã xâm chiếm vùng
tây bắc Ấn Độ. Họ mang theo một nhánh ngôn ngữ
của họ đến đó, và trong suốt 1000 năm đầu tiên
tại Ấn, họ đã hoàn thiện ngôn ngữ này đến mức
tìm ra cách để viết. Đó chính là ngôn ngữ
Sanscrit mà ngày nay ta gọi là tiếng Ấn Độ cổ.
Tiếng Hindi, ngôn ngữ chính của Ấn Độ ngày nay,
cũng bắt nguồn từ ngôn ngữ Sanscrit. Chính nhờ
các văn bản cổ viết bằng tiếng Sanscrit vẫn còn
lưu giữ được trong các di tích tôn giáo và văn
hoá của người Hindu mà ngày nay ta biết được
lịch sử của người Aryan. Những văn bản này mô tả
người Aryan có nước da sáng mầu
(fair-skinned), có máu mê chiến tranh (warlike),
và bản thân chữ Aryan trong tiếng Sanscrit có
nghĩa là người phú quý (nobleman) hoặc chúa tể
đất đai (lords of land)!
Một nhánh khác
của người Aryan đã di cư sang xâm chiếm Âu châu
và truyền bá ngôn ngữ của họ ở đó. Vì thế ngôn
ngữ của phần lớn người Âu châu ngày nay rất
giống nhau – thực ra hầu hết người Âu đều nói
một thứ ngôn ngữ có nguồn gốc Aryan (trừ tiếng
Thổ, Hung, xứ Basques, PhầnLan, LátVia, Estonia,
và một vài nhóm nhỏ ở Nga).
Vì thế ngôn ngữ
Aryan được gọi là ngôn ngữ Ấn-Âu, người Aryan
được gọi là người Ấn-Âu tiền sử
(proto-Indo-European). Người Ấn ở miền bắc Ấn Độ
còn được gọi là người Ấn-Âu. Họ cao lớn, nước da
sáng mầu, trong khi người Ấn ở miền nam có nguồn
gốc Dravidian, vóc dáng nhỏ bé hơn, nước da tối
mầu hơn.
Việc khám phá ra
ngôn ngữ Aryan vào những năm 1790 được coi là
một trong những khám phá vĩ đại nhất của ngôn
ngữ học. Người Âu châu thời đó đã sửng sốt khi
biết rằng không chỉ các dân tộc ở Âu châu, mà
ngay cả một xứ “xa tít mù tắp” vào thời đó như
Bắc Ấn, hoá ra cũng có chung một nguồn gốc ngôn
ngữ với họ, thậm chí chung một tổ tiên với họ.
Từ đó, các nhà khảo cổ học lao vào nghiên cứu
mối liên hệ giữa người Âu châu tiền sử với người
Aryan cổ đại.
Dân tộc Iran ngày
nay và người Aryan xưa kia có liên hệ gì với
nhau không? Về mặt âm ngữ, hai từ Iran và Aryan
rất giống nhau. Về mặt lịch sử, chẳng lẽ người
Aryan đi chinh phục Ấn Độ và Âu châu hết mà
không để lại một chi nhánh nào của dòng họ ở nơi
xuất xứ là cao nguyên Iran hay sao?
Đây là câu trả
lời. Vào khoảng nửa đầu của thiên niên kỷ thứ
nhất trước CN, người Aryan đã có mặt trên cao
nguyên Iran và tiểu lục địa Ấn Độ. Thực ra,
thuật ngữ Iran là kết quả của thuật ngữ Ariana (Airyana)
có nghĩa là xứ sở của người Aryan. Nhóm ngôn ngữ
Aryan có hai nhánh chủ yếu: Ngôn ngữ Sanskrit và
ngôn ngữ cổ-Iran … trong tiếng Ba-Tư thời trung
cổ, chúng ta thấy chữ Ariana được gọi là Eran,
và cuối cùng trong tiếng Ba-Tư hiện đại, được
gọi là Iran.
Hàng nghìn năm trước, người Aryan đã tỏa đi khắp
nơi, một phần tràn vào Bắc Ấn Độ, một phần ở lại
Iran, và một phần đã di cư sang Âu châu và lai
tạp với cư dân bản địa cổ đại để dần dần trở
thành người phương Tây ngày nay. Ngôn ngữ Aryan
chính là thủy tổ của tiếng Sanscrit (tiếng Ấn Độ
cổ) và ngôn ngữ của phần lớn các nước châu Âu
hiện tại.
Nhà triết học nổi
tiếng Hegel từng viết trong cuốn Triết học Lịch
sử (The Philosophy of history) rằng: “Lịch sử
của loài người bắt đầu từ lịch sử của Iran”. Các
di chỉ khảo cổ tại Tây Nam Á cho thấy nền văn
minh Iran có trước nền văn minh Ai Cập quãng
3000 năm, khởi đầu ít nhất từ 12000 năm trước
đây.
Tóm lại,
người Aryan một phần đã chinh phục Bắc Ấn, một
phần ở lại Iran, và một phần đã di cư sang Âu
châu và chinh phục hầu khắp Âu châu, lai tạp với
cư dân bản địa Âu châu cổ đại để dần dà trở
thành người Âu Mỹ như ngày nay.
Tuy nhiên, khái
niệm “người Aryan” dần dần đã bị những kẻ theo
chủ nghĩa dân tộc biến tướng thành khái niệm
“chủng tộc Aryan”, từ đó dẫn tới những hậu quả
chính trị xã hội vô cùng tệ hại.
I.3-Về cái gọi là
“chủng tộc Aryan”:
Như độc giả đã
thấy, các văn bản đã cố gắng mô tả người Aryan
là những người có những “ưu điểm vượt trội”:
những người “phú quý” hoặc “chúa tể đất đai”.
Trong thực tế, người Aryan đã chinh phục một dải
đất vô cùng rộng lớn từ Á sang Âu. “Thành tích
vượt trội” của người Aryan đã làm nức lòng những
kẻ theo chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu cuối thế kỷ
19 đầu thế kỷ 20. Trong con mắt của họ, “người
Aryan” đồng nghĩa với “chủng tộc Aryan” (Aryan
race) – một “chủng tộc ưu tú hơn” (superior
race) so với bất kỳ chủng tộc nào khác. Ngay từ
thời đó, tư tưởng này đã bị phê phán. Nhà
Sanscrit học lỗi lạc Max Muller từng nhấn mạnh:
“Khi tôi nói đến chữ Aryan, tôi không hề có ý
định đề cập đến những khái niệm liên quan đến
hộp sọ”.
Nói cách khác, theo những tiêu chuẩn của chủng
tộc học, không hề có cái gọi là “chủng tộc
Aryan”, mà chỉ có người Aryan mà thôi. Nhưng bất
chấp mọi giải thích, những kẻ có đầu óc dân tộc
tiếp tục truyền bá khái niệm “chủng tộc Aryan”
như một sự thật lịch sử và khoa học.
Việc khám phá ra ngôn ngữ Aryan vào những năm
1790 được coi là một trong những khám phá vĩ đại
nhất của ngôn ngữ học. Người Âu châu thời đó đã
sửng sốt khi biết rằng các dân tộc ở Âu châu có
chung nguồn gốc ngôn ngữ với một xứ sở xa xôi là
Bắc Ấn. Từ đó, các nhà nghiên cứu đã quan tâm
đặc biệt đến mối liên hệ giữa người Âu châu tiền
sử với người Aryan cổ đại.
Đến những năm
1920, chủ nghĩa Quốc Xã Đức đã nâng lý thuyết
“chủng tộc Aryan” lên đến mức cực kỳ ‘phản động’:
“Chủng
tộc Aryan là chủng tộc thượng đẳng (master race)
có quyền thống trị thế giới”. Lý thuyết này dựa
trên nền tảng của một học thuyết được coi là
“khoa học” vào thời đó: Học thuyết Darwin-xã-hội
(Social-Darwinist Ideology) – một học thuyết chủ
trương áp dụng nguyên lý đấu tranh sinh tồn của
Darwin vào trong xã hội loài người.
Nhưng tại sao Đức
Quốc Xã lại chọn Swastika làm biểu tượng của
chúng?
Trước khi biết rõ
bối cảnh nào đã dẫn Hitler tới chỗ đích thân hắn
chọn Swastika làm biểu tượng cho đảng Quốc Xã,
đọc giả cần biết rõ sự kiện sau đây:
Cuối thế kỷ 19,
nhà khảo cổ học nổi tiếng Heinrich Schliemann,
người đã khám phá ra Swastika trên đống đổ nát
của thành T’roa, trong một công trình nghiên cứu
công phu kết hợp khảo cổ học với Sanscrit học,
đã đi đến một kết luận vô cùng quan trọng rằng
Swastika là một biểu tượng đặc trưng Ấn-Âu. Nói
cách khác: Swastika là biểu tượng đặc trưng của
người Aryan!
PHẦN II – TỪ HỌC
THUYẾT BỆNH HOẠN ĐẾN SWASTIKA CỦA QUỶ DỮ
Lý thuyết “chủng
tộc thượng đẳng” (master race) của chủ nghĩa
Quốc Xã (nazism) là một quái thai trong lịch sử
loài người, nhưng quái thai ấy không phải là một
hiện tượng ngẫu nhiên. Nó là con đẻ của một “bà
mẹ bệnh hoạn” – Học thuyết Darwin-xã-hội
(Social-Darwinist Ideology) – và một “ông bố
điên rồ” – Tư tưởng phục thù (Feeling of
Revenge) trong xã hội Đức sau Thế Chiến I.
Khi
đã có Học thuyết Darwin-xã-hội làm cơ sở “khoa
học” để suy tôn “chủng tộc Đức” thành “chủng tộc
thượng đẳng có quyền thống trị thế giới”, chủ
nghĩa Quốc Xã chỉ còn thiếu một lá cờ với biểu
tượng thích hợp. Nhưng đích thân Hitler đã tìm
thấy biểu tượng đó: Swastika của người Aryan!
Vậy trước hết hãy
tìm hiểu xem Học thuyết Darwin-xã-hội là gì?
Huyền thoại về người Aryan đã làm nức lòng những
người theo chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu cuối thế
kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Trong con mắt của họ, người
Aryan đồng nghĩa với “chủng tộc Aryan”, một
chủng tộc ưu tú hơn so với bất kỳ chủng tộc nào
khác. Adolf Hitler chính là một kẻ cuồng nhiệt
với niềm tin này.
II.1-Học thuyết
Darwin-xã-hội:
Học thuyết
Darwin-xã-hội là lý thuyết cho rằng xã hội loài
người tiến hoá thông qua quá trình đấu tranh
sinh tồn, trong đó chủng tộc nào thông minh hơn,
khoẻ mạnh hơn, thích nghi với môi trường tốt hơn
sẽ là chủng tộc có quyền tồn tại; chủng tộc nào
dốt nát, ốm yếu, kém thích nghi với môi trường
sẽ bị đào thải. Đây là kết quả của việc áp dụng
một cách máy móc Thuyết tiến hoá của Darwin vào
trong xã hội loài người.
Không phải ngẫu
nhiên mà có sự áp dụng máy móc đó. Đây là hệ quả
của việc áp dụng tràn lan chủ nghĩa thực chứng
(positivism) vào trong xã hội học.
Chủ nghĩa thực
chứng do Auguste Comte (1798-1887) nêu lên từ
những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 19, trong đó
cho rằng một hệ thống lý thuyết chỉ trở thành
khoa học thực sự khi nó có thể kiểm chứng được
bằng thực nghiệm trong thực tế.
Với thắng lợi
trong khoa học tự nhiên, chủ nghĩa thực chứng đã
tạo ra tinh thần lạc quan mạnh mẽ trong thế kỷ
19, thúc đẩy các nhà xã hội học tìm cách giải
thích hành vi của số đông (en masse behaviour)
bằng những quy luật của tự nhiên.
Đúng lúc đó,
Thuyết tiến hoá của Darwin ra đời. Những kẻ có
đầu óc chủng tộc lập tức áp dụng Thuyết tiến hoá
của Darwin để giải thích sự tiến hoá của xã hội
loài người, khẳng định rằng về cơ bản xã hội
loại người cũng phải tiến hoá theo quy luật của
sinh giới nói chung. Đó chính là Học thuyết
Darwin-xã-hội.
Học thuyết
Darwin-xã-hội có liên quan gì đến cá nhân Darwin
không?
Trước
đây tôi luôn luôn nghĩ rằng Darwin chỉ nêu lên
quy luật tiến hoá trong xã hội loài vật mà thôi.
Việc đem lý thuyết của ông áp dụng một cách máy
móc vào xã hội loài người là việc làm của những
kẻ có đầu óc kỳ thị chủng tộc. Nhưng gần đây,
tôi phải suy nghĩ rất nhiều khi đọc bài báo
“What Darwin taught Hitler?” (Darwin đã dạy
Hitler cái gì?) của Grenville Kent, trên tạp chí
SIGNS of the Times ở Úc, số tháng 10 năm 1996,
trong đó tác giả đã trích nguyên văn một phát
biểu của Darwin như sau: “Trong một tương lai
không xa lắm, có thể đo bằng số thế kỷ, các
chủng tộc văn minh của loài người hầu như sẽ
tiêu diệt và thay thế các chủng tộc dã man trên
thế giới”.
Có thật Darwin đã
nói như thế hay không? Trong bài báo nói trên,
Kent nói rõ rằng câu nói này nằm trong cuốn “On
the Origin of Species” (Về nguồn gốc các loài,
tác phẩm nổi tiếng nhất của Darwin. Nếu đúng như
thế thì không thể trách tại sao ở Phương Tây
hiện nay, một nửa giới khoa học chống lại
Darwin. Liệu một lý thuyết thực sự khoa học có
thể bị một nửa thế giới chống lại nó hay không?
Điều này chúng ta không hề thấy ở các học thuyết
khác, như Cơ học Newton, Thuyết tương đối của
Einstein, Cơ học lượng tử của Bohr-Heisenberg,
v.v.
Khi trở thành người lãnh đạo Đảng Quốc Xã,
Hitler đã nâng lý thuyết về “chủng tộc Aryan”
lên đến mức cực kỳ phản động: “Chủng tộc Aryan
là chủng tộc thượng đẳng có quyền thống trị thế
giới”. Lý thuyết này dựa trên nền tảng của học
thuyết Darwin - xã hội, một học thuyết chủ
trương áp dụng nguyên lý đấu tranh sinh tồn của
Darwin vào trong xã hội loài người.
Ngay từ năm 1934,
Lý Tôn Ngô đã viết trong cuốn “Hậu Hắc Học” rằng
“Darwin phát minh (ra học thuyết) sinh vật tiến
hoá cũng như Newton phát minh ra “Sức hút của
quả đất”, là những công thần lớn của giới học
thuật, điều ông nói “Muốn sinh tồn phải cạnh
tranh mạnh được yếu thua” là một điều không khỏi
lệch lạc, cần uốn nắn lại”.
Than ôi, nhân
loại chưa kịp uốn nắn thì đã xẩy ra cuộc Đại
chiến thế giới lần thứ hai thảm khốc chưa từng
có – một cuộc chiến tranh bắt nguồn trực tiếp từ
một đầu óc bệnh hoạn về đấu tranh sinh tồn dựa
trên học thuyết Darwin!
Những người quen
sùng bái Darwin như ông thánh sẽ dẫy nẩy lên khi
thấy ông thánh của mình bị kết tội, nhưng chắc
chắn họ không thể tranh cãi với Kent khi ông đặt
dấu hỏi chua chát “Nếu Darwin đúng thì tại sao
Hitler lại không được bào chữa về mặt khoa học?”.
Theo Kent, chủ nghĩa Quốc Xã Đức đã từng lý luận
rằng “Nếu chúng ta xuất thân từ động vật thì tại
sao chúng ta không hành động theo quy luật (đấu
tranh sinh tồn) đó?”. Thế đấy, dưới con mắt của
chủ nghĩa Quốc Xã, con người trước hết là một
động vật, do đó mọi hành vi trước hết phải tuân
theo quy luật đấu tranh sinh tồn – một quy luật
bất khả kháng của tự nhiên (!!!). Nếu Darwin
đúng và nếu con người là một bộ phận của thế
giới động vật thì cớ gì con người không tuân thủ
những “định luật tiến hoá” của Darwin? Đó là một
câu hỏi quá khó đối với tư duy khoa học logic
máy móc – kiểu tư duy chủ yếu đến nay vẫn thống
trị trong thế giới khoa học.
Khi đã có tư tưởng rõ ràng, Đảng Quốc Xã chỉ còn
thiếu một lá cờ với biểu tượng thích hợp. Và
Swastika, hiện thân cho sự cao quý của người
Aryan là một biểu tượng không thể thích hợp hơn.
Ngày nay, khi
Học thuyết Darwin-xã-hội đã lộ nguyên hình là
một học thuyết bệnh hoạn, không ai có thể chấp
nhận sự vay mượn tư tưởng từ một học thuyết
thuần tuý sinh học để đem áp dụng vào xã hội
loài người một cách thô thiển và đơn giản đến
như thế. Nhưng than ôi, đó lại là một sự thật đã
diễn ra vào những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ
20, chúng ta không thể được phép quên.
Thật vậy, vào đầu
thế kỷ 20, trường Đại học tổng hợp Berlin chặt
cứng sinh viên ngồi nghe các giáo sư trình bầy
Học thuyết Darwin-xã-hội. Trong đám thính giả có
rất nhiều nhà ngoại giao, nhà quân sự, thương
gia và các lãnh tụ của nhà nước Đức. Một trong
số đó là Heinrich Himmler, kẻ sau này trở thành
cánh tay phải của Hitler, đứng đầu bộ máy SS –
bộ máy tàn sát chủng tộc khét tiếng của Nazi.
Bối
cảnh ấy thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và
chủ nghĩa phục thù ở Đức phát triển mạnh mẽ, tạo
nên một cơ sở xã hội để đảng Quốc Xã thắng thế
vào cuối những năm 1920, đầu 1930, dẫn tới sự ra
đời của Đế chế Thứ III (The Third Reich) với
việc Adolf Hitler lên cầm quyền ở Đức năm 1933,
thực hành một chính sách chủng tộc thảm khốc
chưa từng có trong lịch sử.
Từ năm 1933, khi đảng Quốc Xã thắng cử ở Đức,
Hitler trở thành quốc trưởng của Đế Chế Thứ III,
thì Swastika trở thành biểu tượng của cả nhà
nước Quốc Xã và quân đội Quốc Xã.
II.2-Chủ nghĩa
chủng tộc và phục thù:
Bước vào thế kỷ
19, trong khi các nước như Anh, Pháp đã trở
thành những đế quốc lớn, hùng mạnh,
thì Đức lúc đó vẫn bao gồm các tiểu vương quốc
rời rạc. Mãi đến năm 1871 mới thống nhất thành
một quốc gia. Sự tụt hậu này tạo cho giới trẻ
Đức thời đó một cảm giác tủi hổ, bất mãn. Từ đó
nước Đức có xu thế muốn vươn lên, chứng tỏ cho
thế giới thấy mình không những không thua kém
ai, mà còn vượt trội so với kẻ khác. Xu thế ấy
là một trong những nguyên nhân dẫn tới cuộc Thế
Chiến I. Nhưng thất bại thảm hại của Đức trong
cuộc thế chiến này lại càng đẩy thanh niên Đức
lún sâu vào tâm trạng tủi hổ và bất mãn sâu sắc
hơn nữa. Để chống lại căn bệnh tủi hổ này, những
nhà lý luận có đầu óc chủng tộc đã cố gắng xới
lên những học thuyết đề cao chủng tộc Đức, trong
khi các nhà chính trị theo chủ nghĩa dân tộc lại
tuyên truyền cho chủ nghĩa phục thù, hứa hẹn sẽ
lấy lại sức mạnh cho nước Đức, đưa nước Đức lên
vị trí lãnh đạo thế giới.
Trong
bối cảnh ấy, Lịch sử người Aryan và Swastika
cùng với Học thuyết Darwin-xã-hội đã trở thành
“những nguyên liệu quý giá” để những nhà lý
thuyết và chính trị theo chủ nghĩa chủng tộc ở
Đức chế biến nên một chủ thuyết chủng tộc trong
đó khẳng định rằng người Aryan chính là thuỷ tổ
của người Đức, người Đức chính là hậu duệ thuần
chủng nhất và tinh tuý nhất của người Aryan, và
do đó xứng đáng để lãnh đạo thế giới.
Một trong những
kẻ đi tiên phong trong học thuyết này là Alfred
Rosenberg. Rosenberg coi “chủng tộc Aryan là
chủng tộc nằm ở bậc thang cao nhất trong “hệ
thống các bậc thang chủng tộc” (racial
hierarchy), trong khi “chung tộc Do Thái” nằm ở
tầng dưới cùng và là một mối đe doạ đến “nền văn
minh thuần nhất Aryan của Đức”, do đó cần phải
bị đào thải. Hơn thế nữa, “chủng tộc Aryan” là
chủng tộc duy nhất có khả năng sáng tạo nên
những nền văn hoá và văn minh đích thực, trong
khi các chủng tộc khác chỉ có khả năng giữ gìn
hoặc phá hoại những nền văn hoá đó mà thôi.
Rosenberg sau này đã trở thành cánh tay phải của
Hitler về tuyền truyền và giáo dục tư tưởng Quốc
Xã, đồng thời làm bộ trưởng Quốc Xã phụ trách
khu vực chiếm đóng ở Liên Xô, cuối cùng bị đồng
minh bắt năm 1945, bị xử tử hình tại toà án tội
phạm chiến tranh Nuremberg ngày 16-10-1946.
Từ điển Lịch sử
thế giới (Dictionary of World History) do
Chambers của Anh xuất bản năm 1994 viết: “Nước
Đức đã ôm lấy cái khái niệm phi khoa học về
chủng tộc Đức như là bộ phận tinh tuý nhất trong
chủng tộc Aryan, trong số những người cùng nói
thứ ngôn ngữ Ấn-Âu, và rằng họ có trách nhiệm
với tiến bộ của nhân loại (trang 60), … Chủ
nghĩa Quốc Xã khẳng định rằng thế giới được chia
thành một hệ thống nhiều thang bậc chủng tộc:
Người Aryan, trong đó người Đức là đại diện
thuần chủng nhất, là chủng tộc thượng đẳng về
văn hoá, trong khi người Do Thái là thấp kém
nhất. Điều đó cũng có nghĩa là người Do Thái sẽ
bị người Aryan tiêu diệt loại bỏ khỏi thế giới
…(trang 661)”.
Một khi đã tự nhận
mình là hậu duệ tinh tuý nhất của người Aryan
thì đương nhiên, những kẻ theo chủ thuyết chủng
tộc Đức cũng sẽ tự nhận Swastika là biểu tượng
của họ, bởi như chúng ta đã biết trong bài kỳ
trước: Nhà khảo cổ học Heinrich Schliemann đã
khám phá ra rằng Swastika là một biểu tượng đặc
trưng Ấn-Âu, tức đặc trưng của người Aryan. Đó
là lý do để chủ nghĩa Quốc Xã đã chộp lấy
Swastika để biến thành biểu tượng của chúng.
Kể từ đó, Swastika bị coi là biểu tượng của quỷ
dữ, gắn với những tội ác khủng khiếp nhất trong
lịch sử loài người. Sau Thế Chiến II, Swastika
trở thành biểu tượng bị cấm tại rất nhiều nước
Âu châu.
II.3-Swastika rơi
vào tay quỷ dữ:
Cuối
thế kỷ 19, Swastika của người Aryan đã xuất hiện
trong tạp chí về chủng tộc xuất bản định kỳ của
những người Đức theo chủ nghĩa quốc gia và là
biểu tượng chính thức của những vận động viên
thể thao Đức.
Đầu
thế kỷ 20, Swastika của người Aryan đã trở thành
một biểu tượng chung của chủ nghĩa dân tộc Đức
(German nationalism) và có thể tìm thấy ở nhiều
nơi như biểu tượng của Wandervogelb – một
phong trào tuổi trẻ Đức; trên tạp chí Ostarra,
một tạp chí định kỳ bài Do Thái của Joerg Lanz
von Liebenfels; trên nhiều đơn vị Freikorps khác
nhau; và như một biểu tượng của Hội Thule.
Nhưng Swastika
chỉ chính thức trở thành biểu tượng của quỷ dữ
kể từ khi Hitler chính thức sử dụng biểu tượng
đó.
Sau hai
lần thi trượt vào Đại học Mỹ thuật vì bị phê là
“thiếu tài năng”, Hitler rất hậm hực bất mãn.
Năm 1909, Hitler rơi vào cảnh nghèo túng, nhưng
được một người Do Thái là Hanisch giúp kiếm sống
bằng cách vẽ bưu ảnh để bán cho du khách (tổng
cộng trước Thế Chiến I, hắn đã bán được 2000 bưu
thiếp). Trớ chêu thay, chẳng bao lâu sau Hitler
đã phản bội lại người giúp đỡ mình khi hắn say
mê với những lý thuyết về chủng tộc Aryan, coi
người Do Thái là kẻ thù của người Aryan và phải
chịu trách nhiệm về những khủng hoảng trong nền
kinh tế Đức.
Đến những năm
1920, khi Hitler trở thành lãnh tụ đảng Quốc Xã,
hắn thấy đảng này cần phải có một lá cờ và biểu
tượng riêng của nó.
Năm 1923, Hitler
bị phạt tù 5 năm vì một hành động chống chính
phủ. Trong tù, hắn viết tác phẩm “Mein Kampf” (Cuộc
đấu tranh của tôi), trong đó viết: “Lá cờ mới
phải là một biểu tượng của cuộc đấu tranh riêng
của chúng ta, đồng thời có hiệu quả cao như một
áp-phích tuyên truyền”. Không những thế, vốn
xuất thân là một thợ vẽ, Hitler còn thiết kế ra
hình ảnh cụ thể của lá cờ đó, trong đó Swastika
của người Aryan được đặt chính giữa trên một
hình tròn mầu trắng. Hắn viết trong Mein Kampf:
“Mầu trắng thể hiện tư tưởng dân tộc, biểu tượng
Sawstika thể hiện sứ mạng đấu tranh vì thắng lợi
của người Aryan, đồng thời nói lên sự chiến
thắng của tinh thần sáng tạo, một tinh thần đã
và sẽ mãi mãi chống lại bọn Do Thái”.
Chẳng bao lâu sau,
Mein Kampf đã nhanh chóng trở thành cuốn “kinh
thánh” của đảng Quốc Xã, chứa đựng tất cả các
giáo điều của chủ nghĩa Quốc Xã, bao gồm cả
những kỹ thuật tuyên truyền và kế hoạch làm thế
nào để trước tiên chiếm lĩnh nước Đức, sau đó là
chiếm lĩnh châu Âu.
Ngày nay, có nhiều người thắc mắc về hình thức
giống nhau giữa chữ Vạn của Phật giáo với chữ
“thập ngoặc” tội lỗi của Đức Quốc Xã. Trên
phương diện lịch sử, cả hai biểu tượng này đều
có nguồn gốc từ Swastika của người Aryan.
II.4-Kết:
Đến đây độc giả
thấy rõ chính đích thân Hitler đã chọn Swastika
của người Aryan làm biểu tượng cho đảng Quốc Xã.
Từ năm 1933, khi đảng Quốc Xã thắng cử ở Đức,
Hitler trở thành quốc trưởng của Đế Chế Thứ III,
thì Swastika trở thành biểu tượng của cả nhà
nước Quốc Xã và quân đội Quốc Xã. Kể từ đó,
Swastika bị coi là biểu tượng của quỷ dữ. Sau
Thế Chiến II, Swastika bị cấm phô bầy tại rất
nhiều nước Âu châu.
Từ người Aryan, Swastika đã thâm nhập vào cộng
đồng Hindu giáo ở Ấn Độ như một tượng trưng về
sự vĩnh hằng của hoàn vũ. Đạo Phật đã thừa hưởng
Swastika và coi đây là biểu tượng của Phật tính.
Chữ Vạn mà người Việt thường dùng là một cách
gọi đã được Hán hóa của biểu tượng này.
Có thể nói, dù cùng một cội nguồn lịch sử nhưng
chữ Vạn của đạo Phật và chữ “thập ngoặc” của Đức
Quốc Xã không có bất kỳ một liên hệ nào về ý
nghĩa tinh thần.
Trong thời đại
hiện nay, khi sự giao lưu trao đổi văn hoá giữa
các quốc gia, các sắc tộc, các vùng địa lý, các
truyền thống văn hoá khác nhau ngày một phát
triển, thì hai nhận thức khác nhau về Swastika
đã gây nên những hiểu lầm và va chạm rất đáng
tiếc, thậm chí có nơi đã xẩy ra xung đột. Chỉ có
một cách duy nhất thanh toán sự hiểu lầm và xung
đột này là mọi người phải biết rõ lịch sử của
Swastika, để có thể phân biệt được đâu là
Swastika của cái Thiện, đâu là Swastika của quỷ
dữ. Vì thế, lịch sử là một khoa học rất cần
thiết đối với nhận thức nói chung.
Phạm Việt Hưng
(Theo NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ)
* Chân thành
cảm ơn bạn đọc Phương Trang
đã gởi bài viết
và hình ảnh minh họa đến trang nhà PGĐC!
|