Kỳ Tích Sau Chiến
Tranh
Trần Trọng Thức
Hậu bán thế kỷ 20
nhân loại chứng kiến sự thần kỳ từ ba quốc gia
vươn lên trong đổ nát sau chiến tranh.
Chỉ 15 năm sau ngày Thế chiến thứ 2 kết thúc,
dân tộc Đức đã đi một bước dài trên con đường
hồi sinh bằng ý chí của người bại trận.
Cũng
trong hoàn cảnh tương tự, người Nhật đã đứng dậy
trên điêu tàn với niềm hy vọng cùng giấc mơ lớn
và họ đã làm được.
Còn
Hàn Quốc trải qua cuộc chiến ba năm huynh đệ
tương tàn, đất nước được xem thuộc hàng nghèo
nhất châu Á mấy chục năm về trước, nay đã khiến
cả thế giới phải ngưỡng mộ.
Điều gì đã làm
nên những kỳ tích ấy nếu không phải là một quyết
tâm của cả dân tộc, một sự chọn lựa con đường
đúng và trí tuệ lãnh đạo xuất sắc.
Từ cả ba phương
trời ấy, bản giao hưởng về sự cường thịnh đã
vang lên trên toàn thế giới. Olympic Tokyo được
tổ chức tại Nhật năm 1964, chỉ 19 năm sau khi
chấm dứt Thế chiến 2 làm suy sụp đất nước này.
Đây là lần đầu tiên một đại hội thể thao mùa hè
tổ chức tại châu Á với sự tham dự của 90 quốc
gia.
Olympic Munich tổ
chức năm 1972, tuy chậm hơn Tokyo, nhưng cũng
chỉ sau 27 năm nước Đức vươn lên từ sự hủy diệt.
Vận động viên của 121 nước đã thi tài ở kỳ thế
vận hội này.
Olympic Seoul năm
1988, diễn ra sau 35 năm Hàn Quốc vượt qua sự
tàn phá khắc nghiệt của chiến tranh với hơn 159
đoàn thể thao các nước đã biết đến một “kỳ tích
sông Hàn”.
Các
kỳ thế vận như vậy không chỉ giới thiệu về những
đất nước mới mẻ với con người lạc quan, mà còn
là sự khẳng định về nội lực của nền kinh tế,
trình độ quản lý xã hội và các quan hệ cởi mở
trong thế giới hội nhập.
Đây không chỉ là
ước mơ mà còn là bài học cho nhiều quốc gia có
cùng hoàn cảnh, trong đó có chúng ta.
Trí tuệ của người
Đức
Chiến tranh thế
giới thứ 2 kết thúc, nước Đức của Hitler bại
trận kéo theo những hậu quả thật khó hình dung:
nền công nghiệp thuộc loại hàng đầu chỉ còn lại
20%, gần phân nửa nhà cửa bị xóa sạch, 12% dân
số tử vong, nạn đói kéo dài ba năm mà cao điểm
là vào mùa đông 1946, lạm phát phi mã, trao đổi
mua bán chủ yếu là ở các khu chợ trời, trộm cắp
hoành hành khắp nơi.
Bức tranh kinh tế
xã hội càng u ám hơn khi nước Đức bại trận phải
chịu những khoản bồi thường chiến tranh vượt quá
tiềm năng và bị chia cắt thành bốn vùng chiếm
đóng của phe đồng minh chiến thắng áp đặt thể
chế của riêng mình, điều đó trong thực tế là sự
chia cắt đất nước thành hai miền Đông - Tây với
hai chế độ chính trị đối lập.
Vậy mà chỉ 11 năm
sau khi thành lập nước cộng hòa liên bang vào
năm 1949, dân tộc Đức đã có những bước dài phát
triển mà các nước phải ngưỡng mộ và nay trở
thành nền kinh tế thứ ba của thế giới, là đầu
tàu của châu Âu.
Đúc kết quá trình
hồi sinh thần kỳ của một nước Đức mới, nhiều nhà
phân tích cho rằng đó là sự tổng hòa của ba yếu
tố căn bản mang thuộc tính của dân tộc Đức.
Trước hết đó là
sự khôn khéo vận dụng hoàn cảnh lịch sử, vừa
nhẫn nhục, vừa âm thầm nỗ lực tìm kiếm con đường
đi riêng. Người Đức đã tận dụng được sự khác
biệt của các nước chiếm đóng, đặc biệt là giữa
người Mỹ và người Nga ở hai cực ý thức hệ, để có
được sự hỗ trợ kinh tế qua kế hoạch Marshall của
Hoa Kỳ vào năm 1948, dùng các khoản viện trợ làm
vận tốc đầu cho cuộc hồi sinh ngoạn mục, trong
điều kiện một cuộc Chiến tranh lạnh đang manh
nha.
Thứ hai, đó là
nhờ vào vốn tri thức quá lớn mà cho dù hàng loạt
tài năng xuất chúng trên nhiều lĩnh vực bỏ nước
ra đi trước và sau chiến tranh như Sigmund
Freud, Von Braun... nhưng vẫn còn quá nhiều trí
thức - được thuyết phục bởi các chính sách sử
dụng chất xám đã không ngừng chung sức cho một
nước Đức hùng cường. Sự hình thành của chủ
thuyết kinh tế thị trường xã hội với ba nhân vật
chủ chốt Walter Eucken, Alfred Muller Armack và
Ludwig Erhard - người sau này làm Thủ tướng lèo
lái con tàu kinh tế Đức từ 1963-1966 - là một
điển hình sống động.
Kinh
tế thị trường xã hội (Social Market Economy -
khác với kinh tế thị trường định hướng XHCN của
Việt Nam) là một nền kinh tế hướng tới ba mục
đích vốn là tiền đề phát triển lành mạnh, đó là
(1) phục vụ tự do con người; (2) công bằng và an
ninh xã hội và (3) hòa hợp giữa mọi xu hướng xã
hội.
Yếu tố thứ ba đó
là một nền dân chủ pháp trị - pháp quyền được
hình thành ngay sau khi thành lập một nước cộng
hòa liên bang, thoát khỏi sự kìm kẹp của lực
lượng chiếm đóng.
Tất cả tạo nên
một bản hợp ca hoàn chỉnh: nước Đức thống nhất
hai miền Đông Tây sau “cuộc bỏ phiếu bằng đôi
chân”.
Nhật bản - bài
học về giáo dục và tiết kiệm
Khi hai trái bom
nguyên tử của Mỹ ném xuống Hiroshima và Nagasaki
vào tháng 8-1945 thì Chiến tranh thế giới thứ 2
đã thật sự chấm dứt trên một nước Nhật điêu tàn:
3 triệu người chết và mất tích, 40% đô thị bị
phá hủy - trong đó những thành phố lớn như
Tokyo, Osaka, Nagoya, Kobe, Kagoshima trở thành
bình địa.
Bại trận phải ký
hiệp ước đầu hàng phe đồng minh, Nhật mất tất cả
từ các thuộc địa trước đây lẫn chủ quyền vì là
nước bị chiếm đóng. Cũng như người đồng minh Đức,
những khoản bồi thường chiến tranh càng không
cho thấy đất nước Phù Tang có thể nhanh chóng
phục hồi nội lực.
Nhưng người dân
Nhật không mất ý chí. Kẻ bại trận ý thức về thân
phận của mình nên mang niềm tin và hy vọng về sự
trỗi dậy của đất nước nghèo nàn về tài nguyên.
Câu chuyện thần kỳ của Nhật được biết đến khi
chỉ 10 năm sau chiến tranh, kinh tế đã khởi đầu
khôi phục, rồi 10 năm tiếp theo là thời kỳ phát
triển thần tốc với mức tăng trưởng bình quân
10%. Năm 1968 Nhật trở thành nền kinh tế thứ hai
thế giới và chỉ chịu nhường vị trí này cho Trung
Quốc khoảng ba năm trở lại đây, do không vượt
qua nỗi khắc nghiệt của cơn khủng hoảng kinh tế
toàn cầu.
Có người cho rằng,
sự đi lên từ đống tro tàn của người Nhật là nhờ
tinh thần kiên nhẫn vốn có, trong khi các cường
quốc lao vào cuộc chạy đua vũ trang thì người
Nhật tập trung vào phát triển kinh tế, nhẫn nhục
trên con đường tìm đến thịnh vượng.
Suy nghĩ này chưa
cho thấy hết nội lực của một nước châu Á có
nhiều nhất những giải Nobel thuộc nhiều lĩnh vực
từ khoa học đến văn chương, một dân tộc mà tinh
thần võ sĩ đạo đã ăn sâu trong tiềm thức. Kẻ bại
trận ý thức về thân phận của mình nên nặng lòng
về sự trỗi dậy của một đất nước luôn nuôi dưỡng
niềm tin và hy vọng.
Tinh
thần tiết kiệm được xem là đặc tính nổi trội so
với nhiều dân tộc khác, sau chiến tranh lại càng
đậm nét trong xã hội. Trẻ con Nhật không được
dạy dỗ một cách hoang tưởng về sự giàu có “rừng
vàng biển bạc” mà về sự nghèo khó sau chiến
tranh của một đất nước khan hiếm tài nguyên
thiên nhiên nên mọi người đều phải biết tiết
kiệm trong mọi hoạt động đời sống.
Không
biết người Nhật có rao giảng “tiết kiệm là quốc
sách” hay không, nhưng có điều chắc chắn họ xem
đó là một cách tích lũy nguồn vốn quan trọng
giúp đất nước đi lên. Nhiều công ty dẫn dắt nền
kinh tế Nhật đi lên sau chiến tranh từ những nhà
xưởng nhỏ bé. Sony khởi nghiệp từ một căn phòng
tồi tàn ở tầng 3 một cửa hàng bách hóa tại Tokyo
vẫn còn dấu vết một cuộc không kích của Mỹ.
Kỳ tích sông Hàn
Năm 1988, pháo
hoa thắp sáng sông Hàn mở đầu cho ngày hội thể
thao toàn thế giới, người Hàn Quốc ôm nhau nhảy
múa trong niềm vui vỡ òa, đánh dấu ngày đất nước
này đứng vào hàng ngũ các quốc gia cường thịnh.
Cuộc chiến tranh
hai miền Nam - Bắc Triều Tiên kéo dài ba năm,
kết thúc vào năm 1953 đã tàn phá Hàn Quốc dữ dội,
nhiều thành thị chỉ còn là đống tro tàn. Vào
thời điểm ấy, thu nhập bình quân đầu người chỉ
vào khoảng 67 đô la Mỹ, nhiều vùng nông thôn
buộc phải ăn đến cọng rau ngọn cỏ, phải lên núi
kiếm thức ăn. Đó là những tháng năm cùng cực đói
nghèo.
Nhưng người Hàn
không đầu hàng số phận, họ biết tận dụng những
khoản viện trợ của cộng đồng quốc tế, trong đó
chỉ riêng viện trợ của Hoa Kỳ đã chiếm đến hơn
30% ngân sách chính phủ. Người Mỹ đã giúp Hàn
Quốc cho đến năm 1957 và họ đã chọn đúng đất
nước biết sử dụng hiệu quả những khoản tiền vào
nền công nghiệp tạo sức bật kinh tế sau này.
Sau khi hàng loạt
tuyến đường sắt được xây dựng từ sự giúp đỡ tiền
bạc của quốc tế, mạch máu kinh tế của đất nước
thuộc vào hàng nghèo nhất thế giới bắt đầu nhịp
đập cho sự phục hồi sau chiến tranh.
Một nền kinh tế
tự chủ được sự đồng thuận sau khi nhiều ý kiến
yêu cầu chính phủ bớt dần sự lệ thuộc vào viện
trợ nước ngoài, theo đó tập trung phát triển
công nghiệp và kích thích tiêu dùng hàng trong
nước bằng các giải pháp dứt khoát xem hàng tiêu
dùng ngoại nhập là xa xỉ. Không hô khẩu hiệu,
nhưng chính khát vọng xây dựng một đất nước độc
lập tự chủ và cường thịnh đã đưa Hàn Quốc trở
thành nền kinh tế thứ ba của châu Á và thứ 13
thế giới.
Sau 40 năm gây
ngạc nhiên bằng tốc độ tăng trưởng bình quân
7,6%, người Hàn Quốc đã vượt châu Âu với thu
nhập bình quân đầu người hơn 32.000 đô la Mỹ.
Sản phẩm công nghiệp của Hàn Quốc chinh phục
người tiêu dùng khắp nơi trên thế giới.
Điều gì làm nên
sự kỳ diệu ấy nếu không phải là sự kết hợp giữa
tăng trưởng và dân chủ, giữa phát triển kinh tế
và chăm sóc có hiệu quả đời sống người dân, là
lấy giáo dục làm bệ phóng đưa cả dân tộc đi lên.
Tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc Lee Sung Man (Lý
Thừa Vãng) nguyên là một nhà giáo dục, xuất thân
là Tiến sĩ Triết học tại Đại học Princeton của
Mỹ. Ngay cả trong thời kỳ chiến tranh Liên Triều,
ông vẫn hết lòng cho sự nghiệp giáo dục.
Người Hàn đã biết
tận dụng tính ưu việt của nền giáo dục Nhật Bản
có bề dày hàng trăm năm. Người Hàn không có khái
niệm làm chủ tập thể nhưng ý thức rõ ràng trước
khi làm chủ phải biết làm thuê, học tính kỷ luật
và đạo đức của các xã hội văn minh với các
chương trình “dạy làm người” và “dạy làm ăn”.
Trong khi kinh tế
Nhật Bản phát triển với tốc độ phi mã trong hai
thập niên sau chiến tranh để trở thành nền kinh
tế thứ hai thế giới vào đầu thập niên 70 thế kỷ
trước, thì Hàn Quốc với xuất phát điểm thấp hơn
cũng đã trở thành con rồng kinh tế vào đầu thập
niên 1990.
Trông
người mà nghĩ đến ta, nhất là vào cuối thập niên
1960, so với Sài Gòn thì Seoul vẫn đang ở “chiếu
dưới”.
Sài Gòn 30/4/2015
Trần Trọng Thức
(Thời
báo Kinh tế Sài Gòn)
* Chân thành
cảm ơn bạn đọc Lê Ngọc Tuyết
đã gởi bài viết
trên đến chia sẻ cùng bạn đọc trang nhà PGĐC!
|