Mục Đích và Ý
Nghĩa về
Lễ Trai Đàn Chẩn
Tế
Thư viện Hoa Sen
HỎI:
Tôi được nghe nói vào đầu năm 2007 Hoà thượng
Thích Nhất Hạnh sẽ về Việt Nam tổ chức ba trai
đàn chẩn tế thật lớn tại ba miền Việt Nam gọi là
Đại Trai Đàn Chẩn Tế Giải Oan. Vậy xin quý ban
biên tập hoan hỷ cho tôi biết mục đích và ý
nghĩa về lễ trai đàn chẩn tế này và lễ này có
phải là một lễ lớn truyền thống của Phật giáo
không? (Nguyễn Văn An, Hải Phòng Việt Nam)
TRẢ LỜI:
Trai Đàn Chẩn Tế Giải Oan hay còn gọi là Trai
Đàn Thủy Lục là một pháp hội cúng chay và cầu
siêu cho những vong hồn người chết không có ai
thờ tự, không có nơi nương tựa, đang sống vất
vưởng ở dưới nước và ở trên cạn.
Duyên khởi pháp
hội này như sau: “... Về tập tục tụng kinh siêu
độ cho người chết, theo hòa thượng Đạo An [01],
“vốn
không phải là một tập tục truyền thống của Phật
giáo”. Tập tục này chỉ bắt đầu có ở
Trung Quốc từ đời nhà Đường. Điều này có thể
đúng vì theo sử chép, thì năm 738, vua Đường
Huyền Tông đã ban sắc lệnh cho toàn quốc, ở mỗi
quận đều xây một ngôi chùa, đều đặt tên là chùa
Khai Nguyên (Khai Nguyên là niên hiệu thứ nhì
của vua Huyền Tông). Đó là chùa công, do các
quan lại địa phương trông coi, dùng làm nơi tổ
chức các lễ tiết quốc gia, cầu quốc thái dân an.
Việc làm này vừa có ý nghĩa đem ân huệ của Phật
ban đến quốc dân, cũng vừa để biểu thị quyền uy
của chính quyền trung ương.
Năm 755, An Lộc Sơn nổi loạn, kéo binh về chiếm
kinh thành, khiến vua Huyền Tông phải chạy vào
Tứ Xuyên lánh nạn. Một năm sau thì quân triều
đình dẹp yên giặc loạn. Trong một năm chiến
tranh này, số người chết - chiến sĩ của cả hai
bên và thường dân -, nhiều vô số kể. Triều đình
bèn ra chỉ dụ cho tất cả các chùa Khai Nguyên
trong toàn quốc, thỉnh chư vị cao tăng đại đức,
thiết lễ tụng kinh cầu siêu độ cho chiến sĩ và
thường dân đã chết trong cuộc chiến, đồng thời
an ủi các gia đình nạn nhân. Dân chúng thấy
triều đình làm như thế, bèn bắt chước làm theo,
cứ mỗi khi trong nhà có người chết, liền thỉnh
chư tăng tụng kinh cầu siêu độ. Từ đó mà lễ cầu
siêu độ cho người chết trở thành một tập tục
trong dân gian.”[02]
Tập tục cầu siêu
độ này được truyền
qua Việt Nam không rõ vào thời nào nhưng có thể
bắt đầu từ thời đại nhà Lý. Đó là việc tổ chức
các trai đàn chẩn tế, gọi là “diệm khẩu phổ thí
pháp hội” có nghĩa là những đại hội về Phật Pháp
để bố thí thức ăn cho loài quỷ đói. Pháp này
được thực hành trên căn bản một tác phẩm mang
tên là “Thí Chư Ngạ Quỷ Ẩm Thực Cập Thủy Pháp”
do Ngài Bất Không (Amogha) dịch vào thế kỷ thứ
tám, đời Đường. Và hiện nay, trong thời khóa
tụng niệm buổi chiều, các chùa ở Việt Nam thường
có một nghi thức thí thực cô hồn ngắn, gọi là Mông
Sơn Thí Thực Văn. Nghi thức này bắt đầu từ đời
nhà Tống tại Mông Sơn, tỉnh Tứ Xuyên bên Trung
Quốc, vì thế mới có danh xưng là "Mông Sơn Thí
Thực".
Trong “Thiền uyển
tập anh”: Tăng thống Huệ Sinh (-1064) đời vua Lý
Thánh tông, có để lại tác phẩm “Pháp Sự Trai
Nghi” nói đến nghi thức chẩn tế.
Vào
năm 1789 sau khi đại phá quân Thanh năm Kỷ Dậu
Vua Quang Trung đã ban sắc lệnh làm lễ tưởng
niệm các chiến sĩ hữu công và tiến cúng cô hồn
tử sĩ, kể cả mấy vạn quân Thanh đã tử trận.
Vua Gia Long sau
khi thống nhất sơn hà cũng thiết đàn siêu độ cho
quan quân tử sĩ và những oan hồn uổng tử vì
chiến cuộc do Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn
Thành chủ tế với bài văn tế viết bằng quốc âm
Tướng Sĩ Trận Vong và Cô Hồn Thập Loại (1802).
Vào năm Giáp ngọ,
Chúa Nguyễn Phúc Chu cho tổ chức trai đàn tại
chùa Linh Mụ cầu cho quốc thái dân an, cho các
quân linh tử trận được siêu thoát.
Và
vào những năm đầu thập niên 1970, do chiến tranh
gây ra nhiều cảnh chết chóc hãi hùng, khoa nghi
chẩn tế được thực hiện rất nhiều, nhất là tại
Huế. Hầu như tháng nào ở đây cũng có ít nhất một
đàn.
******
Theo niềm tin của
người dân, nghi thức Trai đàn nhằm cầu siêu cho
người chết được siêu thoát và qua đó cũng cầu an
cho người sống được an lạc. Trong tín ngưỡng dân
gian này không thể thiếu vai trò của Phật giáo
vì người dân quan niệm đạo Phật là đạo từ bi cứu
khổ.
Theo giáo lý nhà
Phật, Đạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, sự từ bi
này không chỉ đối với người sống mà còn với
người chết, không chỉ từ bi với con người mà còn
từ bi với các loài chúng sinh không phải con
người, từ bi bình đẳng đến cả các vong linh khổ
não, các oan hồn uổng tử vất vưởng, không nơi
nương tựa, lang thang khắp mọi nơi, mọi cõi,
lang thang ở bụi dậm, bờ ao. Chính vì lòng từ bi
đó mà người ta lập ra Trai đàn để cầu siêu cho
các vong hồn được siêu thoát, hoá giải mọi tai
ương hận thù mà người dân tin là có thể xảy đến,
để cuộc sống được ấm no, yên ổn. Đó cũng là
“điểm nổi bật của vai trò Phật giáo trong tập
tục phong hóa dân gian chính là khuynh hướng
“dân tộc hóa” nghi lễ tập tục Phật giáo, có
nghĩa là hòa quyện hình thức nghi lễ giữa đạo và
đời…” [03]
Theo Phật giáo,
trong thế giới hiện tượng tương đối này, hết
thảy vạn sự vạn vật đều chịu tác động bởi quy
luật Nhân Quả. Tất cả đều có những tương quan
tác động qua lại với nhau, duyên vào nhau mà
sinh diệt, tồn tại. Do đó, các nghi lễ cầu an,
cầu siêu và trai đàn phổ độ có thể được xem là
những trợ duyên cho sự sống và sự chết của con
người về mặt tinh thần. Đứng về phương diện đạo
lý thường tình sống trong thế giới hiện tượng
tương đối mà xét thì "lễ" là sự thể hiện cho cái
"nghĩa" sống của con người, song để thể hiện cái
"lễ" ấy thì cần phải dựa vào "nghi thức" để thực
hiện cho phải lẽ.
Trong
Phật giáo Nguyên Thuỷ không có kinh cầu siêu,
kinh cầu an mà chỉ về sau các nhà sư Phật giáo
Bắc tông, do nhu cầu phát triển nên uyển chuyển
áp dụng các loại kinh khác nhau cho hai mục đích
vừa nêu, ví dụ như dùng kinh A Di Đà và kinh Địa
Tạng để cầu siêu cho người quá vãng, dùng
phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa và kinh Dược
Sư để cầu an cho người lâm bệnh, v.v… Phải
chăng, ý nghĩa căn bản của cầu siêu và trai đàn
chẩn tế phổ độ là để biểu tỏ tấm lòng chân tình
thương mến người thân quá vãng, thương xót đồng
bào tử nạn, thương xót những cô hồn đói lạnh và
nhất là để an tâm cho người sống?
******
Trong pháp hội
“Trai Đàn Chẩn Tế Giải Oan” được Hoà thượng Nhất
Hạnh dự trù tổ chức tại ba miền Việt
Nam vào đầu năm 2007 có mục đích, theo lời hoà
thượng: “…để cầu nguyện và giải trừ oan khổ cho
tất cả những ai đã từng gánh chịu hậu quả khắc
nghiệt của cuộc chiến tranh, dù đã qua đời hay
còn tại thế…, để cầu nguyện cho tất cả những
người thân đã từng chết đi một cách oan ức,
trong rừng sâu, ngoài biển cả, trong trại tù,
ngoài côn đảo và dưới những hố chôn tập thể, để
cùng cầu nguyện cho nhau, cho những người đã
khuất và những người còn đang tiếp tục gánh chịu
oan nghiệt, và để tất cả cùng có cơ hộichữa
lành những vết thương rướm máu lâu ngày chưa
lành, để nối kết lại tình đồng bào ruột thịt, và
làm vơi đi những oan khổ uất ức đã được chứa chất
lâu nay”. [04]
Như vậy Trai đàn
mang hai ý nghĩa cho cả người sống và người chết.
Người chết, được thân nhân tin tưởng là sẽ được
siêu thoát và người sống được bớt khổ đau, “chữa
lành những vết thương rướm máu lâu ngày chưa
lành và để nối kết lại tình đồng bào ruột thịt,
và làm vơi đi những oan khổ uất ức đã được chứa
chất lâu nay”.
Để hiểu thêm về ý
nghĩa pháp hội Trai đàn chẩn tế Thuỷ Lục, ban
biên tập chúng tôi mời quý độc giả đọc lại bài
pháp ngắn của Đại lão Hòa thượng Hư Vân thuyết
giảng trong dịp kiến lập pháp hội Thủy Lục để
truy điệu các chiến sĩ trận vong, đồng bào tử
nạn tại Quảng Châu Trung Quốc vào ngày
18-8-1946:
“Hôm nay, các
giới chức đồng phát tâm kiến lập pháp hội Thủy
Lục để truy điệu các chiến sĩ trận vong, đồng
bào tử nạn. Vì vậy, tôi sẽ giảng thuyết sơ về
duyên khởi của sự kiến lập đàn tràng Thủy Lục.
Sao gọi là Thủy Lục? Thủy tức là nước tại sông
biển ao hồ. Lục tức là đất đai tại núi non, cao
nguyên, đồng bằng. Thủy Lục (đất nước) bao hàm
cả hư không. Nếu là vật có hình tướng thì không
vượt ngoài ba vật này (đất, nước, hư không).
Đấng Như Lai của chúng ta khởi tâm đại từ bi,
cứu tế khắp loài hữu tình, nên mới lập ra pháp
môn này. Duyên khởi của pháp hội Thủy Lục là khi
tôn giả A Nan tu tập thiền định trong rừng, có
một con quỷ chúa đến cầu xin cứu độ. Tôn giả A
Nan liền trở về núi Linh Thứu, cầu Phật dạy bảo.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhân đó mà thuyết pháp
Thủy Lục. Con qủy chúa vốn là hóa thân của Bồ
Tát Quán Thế Âm. Vì thương xót chúng sanh trên
đất liền đang chịu bao thống khổ, và muốn giúp
cho âm hồn trong cõi địa ngục U Minh được vãng
sanh lên cõi Cực Lạc, nên thiết pháp siêu độ.
Pháp hội này khởi đầu từ đời vua Lương Võ Đế ở
nước Trung Hoa. Nhà vua phát tâm Bồ Đề rất mực
chân thành mà cung thỉnh hòa thượng Chí Công,
định chế nghi thức lập đàn tràng "Thủy Lục" để
làm lợi ích cho các oan hồn uổng tử. Sắp đặt đèn
cầy xong, vua Lương Võ Đế lễ một lạy; kế đến
thắp đèn "Tận Minh", rồi lễ thêm một lạy. Khi
đó, cung điện chấn động. Vua lễ lần thứ ba thì
trời mưa hoa báu. Công đức đàn tràng "Thủy
Lục" như thế.
Đời Đường, tại
chùa Pháp Hải, thiền sư Anh Công lại kiến lập
đàn tràng Thủy Lục để cầu siêu độ cho vua Tần
Trang Nhượng, Phạm Tuy, Bá Khởi, Vương Long Vũ,
Trương Nghị, Chẩn Muội, v.v... đã bị trầm luân
cả ngàn năm, khiến họ siêu thăng cõi trời. Cư sĩ
Tô Đông Pha đời Tống, đại sư Liên Trì đời Minh,
v.v..., cùng chư thánh hiền bao đời bổ sung thêm
vào, khiến cho nghi thức lập đàn tràng Thủy Lục
ngày một hoàn bị. Muôn pháp do tâm tạo. Mọi
người đều thành tâm, tất sẽ có cảm ứng.
Hư Vân tôi thể
theo lời khẩn thỉnh của các vị đại hộ pháp mà
làm pháp chủ cho đàn tràng này, thật khó từ chối
được. Các chiến sĩ trận vong trong thời kỳ kháng
chiến, xả thân báo quốc,
nhưng hồn họ vất vưỡng, không nơi nương tựa. Vì
tôn sùng ân đức này, chúng ta kiến lập đàn tràng
để cầu siêu độ cho họ. Nghĩa dân bất khuất, lưu
lạc đường hoang, nhà tan người mất, không hàng
phục quân địch, trung thành vì nước. Cô hồn vô
chủ, lang thang khắp nơi. Lại có những vong hồn
uổng tử, chết vì bị trúng đạn, xe cán, bịnh
dịch, chết đuối, chết oan v.v... Chúng ta phải
đều cầu siêu độ hết để an ủi chúng sanh ở cõi u
linh. Kẻ chết được an, người sống được ích lợi,
tức là làm lợi ích khắp cõi dương và cõi âm.
Đây là lý nhân
quả tuần hoàn. Xoay lại đạo lý nhân tâm, không
ngoài các việc ác chớ làm mà phải hành theo
những việc lành. Bao việc khổ sở trên thế gian
đều do đã trồng nhân xấu đời trước. Nếu tán tận
lương tâm, bỏ quên hiếu để, trung tín, lễ nghĩa,
khiêm, sĩ, cứ làm càn làm bậy, thì khiến lụy đến
người hiền, và thế giới mãi mãi vẫn còn loạn lạc.
Đất nước vừa được trùng quang độc lập, phải cực
lực hưng thiện dẹp trừ việc xấu, cải ác theo
lành, thì mới không bị nước ngoài xâm lăng. Nếu
không lo chuyện đại cuộc mà vẫn cứ khởi nội loạn,
thì nhân dân không biết sẽ chết nơi nào. Lúc này,
nếu người có lương tâm phải sớm giác ngộ, biết
đoàn kết, giải trừ kiếp vận cho đất nước. Nước
Tàu từ lúc Hoàng Đế khởi binh đánh vua nước Cửu
Lệ cho đến ngày nay, chiến tranh mãi không dừng.
Nếu muốn hòa bình
mãi mãi thì mọi người phải nên phát tâm Bồ Đề,
và tâm đại từ đại bi. Bồ Đề là chữ Phạn, nghĩa
tức là giác. Giác tức là đất tâm sáng chiếu. Sự
khác biệt giữa chư Phật và chúng sanh là việc
giác ngộ hay chưa giác ngộ. Những vị đã giác ngộ
tất cả các pháp trên thế gian đều do duyên sanh
như mộng như huyễn, và thể tánh vốn không, chẳng
bị nhiễm ô, được gọi là thánh hiền. Bất giác tức
là vô minh. Một khi vô minh khởi lên thì mê mờ
sự lý. Từ tự tâm của chúng ta, sanh ra mười pháp
giới. Mười pháp giới đều do tâm tạo. Mười pháp
giới gồm có bốn pháp giới thánh hiền và sáu pháp
giới phàm phu. Bốn pháp giới thánh hiền là pháp
giới của Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật.
Gọi là cảnh giới thánh hiền vì nơi đó các ngài
đã vượt ngoài ba cõi, không còn thọ luân hồi.
Nếu phân biệt thì giữa bốn pháp giới thánh hiền
có phân chia cao thấp. Pháp giới tối thượng tức
là pháp giới của chư Phật. Kế tiếp là pháp giới
của Bồ Tát, rồi đến pháp giới của Duyên Giác, và
cuối cùng là pháp giới của Thanh Văn. Sáu pháp
giới phàm phu vẫn còn nằm trong biển khổ luân
hồi là pháp giới của trời, người, A Tu La, súc
sanh, địa ngục, ngạ quỶ. Pháp giới của cõi trời
có ba mươi hai tầng trời. Sau khi thọ hết phước
báu, chư thiên vẫn bị luân hồi như thường. Con
người từ đế vương, tể tướng cho đến nông dân,
công thương, sĩ thứ, đều thọ hết tất cả khổ của
sanh già bịnh chết. Loài A Tu La có phước nhưng
không có đức như chư Thiên nên cuối cùng vẫn
phải bị hoại diệt.
Trong loài súc
sanh, cũng có sự khác nhau về việc hưởng lạc và
thọ khổ, như loài rồng phượng, sư tử, lân giác
thì thường hưởng lạc, và ít thọ khổ hơn loài
trùng kiến thấp sanh, hóa sanh. Khổ nhọc hay an
lạc trong loài quỷ cũng không đồng. Các quỷ
vương như Diêm Vương và Thành Hoàng đều hưởng
lạc nhiều mà thọ khổ ít hơn những loài quỶ cô
hồn vô chủ. Khổ nhất là loài ngạ quỶ. Chúng sanh
trong địa ngục thường thọ vô biên khổ cực, chẳng
hề được sung sướng.
Mười pháp giới
không ngoài một tâm. Giác ngộ hay chưa giác ngộ
cũng từ tâm này ra. Đức Phật của chúng ta thật
rất đại từ đại bi. Ngài giảng kinh thuyết pháp
để khiến cho mọi người phát tâm Bồ Đề. Phát tâm
Bồ Đề cũng sai khác. Bậc lớn thì phát tâm tu
hành thành Phật. Bậc trung thì phát tâm tu hành
thành Bồ Tát. Bậc nhỏ thì phát tâm tu hành thành
Thanh Văn Duyên Giác. Chư thiên cũng có vị phát
tâm Bồ Đề. Do sự phát tâm rộng hẹp, lớn nhỏ, nên
việc thành tựu đạo quả mau chậm không đồng.
Chúng ta đang sống trong cõi người, phải nên
phát tâm Bồ Đề rộng lớn, cứu độ chúng sanh, thay
họ chịu khổ. Lại nữa, nên nguyện rằng sẽ dẹp trừ
khổ lụy và khiến chúng sanh được siêu thăng. Nếu
người người đều phát tâm như thế thì cõi nhân
gian sẽ không còn khổ đau.
Có người
hỏi tôi về thần thông biến hóa, thế giới chừng
nào hòa bình, vận nước tốt xấu như thế nào ? Tuy
nhiên, tôi vốn là phàm phu, không biết việc chi,
lại chỉ là cây gỗ già nua khô mục, không thể
chạm khắc. Bất quá, so với quý vị thì ăn cơm hơn
nhiều năm, ngu si hơn nhiều năm, nghe các ngôn
ngữ lời nói nhiều hơn, xem nhiều quyển kinh hơn.
Nhận biết làm người là khổ đau, nên tôi mới nói
ra những lời này. Quý vị chớ nên hỏi việc quốc
gia có hòa bình an lạc hay không, mà chỉ nên tự
hỏi ngay tâm địa của mình. Ngày đêm sáng tối,
chớ nên phân biệt quan dân, nam nữ. Tự khắc phục
tâm tánh, chớ để tự tâm mê mờ. Phải thật hành
hiếu để trung tín, và cùng mọi người hỗ tương
khích lệ. Phải nên trung thành với quốc gia,
giáo dục con cái đàng hoàng, hòa thuận vợ chồng,
lễ kính thân bằng quyến thuộc bà con láng giềng,
có tín nghĩa khi giao hảo với bạn bè. Nếu người
người làm được như thế thì thế gian tự nhiên
thái bình. Ngược lại, nếu biết sai mà không sửa
đổi thì khổ não tất sẽ chạy theo, không thể
tránh được. Dầu nhân tâm có phức tạp như thế
nào, vẫn tự giữ bổn phận của mình, không chìm
đắm trong muôn ngàn mong cầu.” [05]
Ban Biên Tập Thư Viện Hoa Sen
------------------------------------------
Chú Thích:
[01]
Giáo Khoa Phật Học cấp 2, do Ban Bảo Trợ Phiên
Dịch Pháp Tạng Việt Nam ấn hành
[02]
Ngài Đạo An (312-385), một danh tăng lỗi lạc
thời Đông Tấn, Trung Quốc. Ngài là đại đệ tử của
ngài Trúc Phật Đồ Trừng, một vị đại tăng người
Ấn Độ vào Trung Quốc truyền giáo. Do tình trạng
chiến tranh Ngài đã phải rời bỏ quê hương Hà Bắc
(nhà Hậu Triệu) dẫn đồ chúng khoảng 500 người
chạy về thành Tương Dương lánh nạn và tu tập tại
đâỵ Vào thời điểm này thì PG đã phát triển khá
mạnh mẽ tại Trung Quốc, các vua chúa Trung Quốc
nói chung đều rất sùng mộ đạo Phật, đặc biệt là
vua Phù Kiên (nhà Tiền Tần) hùng mạnh nhất trong
số 16 tiểu quốc thời đó vì hâm mộ danh tiếng của
Ngài, đã đích thân mang nhiều ngàn quân đánh
chiếm thành Tương Dương để cung thỉnh Ngài về
làm quốc sự. Suốt đời Ngài chỉ lo hoằng dương
chánh pháp, đệ tử theo học có đến hàng ngàn
người. Ngài đã đào tạo nên những môn đệ rất lừng
danh, trong đó có Ngài Huệ Viễn (hay còn gọi là
Tuệ Viễn), được xem như là sơ tổ của pháp môn
Tịnh Độ Tông tại Trung Quốc.
[03] TT.
Thích Đồng Bổn,
[04]
Thích Nhất Hạnh, Phổ cáo quốc dân và đồng bào
Phật tử Về các Đại Trai Đàn Chẩn Tế Giải Oanhttp://www.langmai.org/TNH/Dac%20Biet/Thong%20Bach/HTML/traidoangiaoan.htm
[05] Hư Vân Thiền Sư, Pháp Ngữ, Thích Hằng Đạt
Việt dịch - Nhà Xuất Bản Tôn Giáo 2004 http://www.thuvienhoasen.org/u-huvanluc2.htm#8)
|