HÒA THƯỢNG THÍCH
ĐỒNG CHƠN
Chùa Bình An – Quy Nhơn
1 . Thân thế:
Hòa thượng Thích
Đồng Chơn thế danh là Bùi Văn Bảy, sanh năm 1947
tuổi Đinh Hợi, nguyên quán thôn Trung Tín, xã
Phước Nghĩa, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định -
nay là thị trấn Tuy Phước, huyện Tuy Phước. Thân
phụ của Ngài là Bùi Tân, Pháp danh Đồng Niên,
thân mẫu là cụ bà Phạm Thị Hội, Pháp danh Đồng
Hiệp.
Ngài là người con
thứ bảy trong gia đình Phật tử thuần thành. Ngài
quy y với Hòa thượng Thích Thị Châu, hiệu Từ
Hàng, Trụ Trì chùa Bình An, thôn Bình Thạnh, xã
Phước Hậu, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định nay
là phường Nhơn Bình thành phố Quy Nhơn.
2. Thời kỳ xuất
gia tu học:
Thuở thiếu thời,
sớm được hai cụ thân sinh cho xuất gia đầu Phật
tại chùa Bình An, Hòa thượng là trưởng tử của
Hòa thượng Thích Thị Châu, được phú cho pháp
danh là Đồng Chơn từ năm Hòa thượng học lớp 7
(12 tuổi).
Sau khi xuất gia,
Hòa thượng được Bổn sư cho theo hầu Hòa thượng
Thích Huyền Ấn, chùa Bích Liên để học gia giáo
Hán ngữ cũng như những bộ Kinh Luật cơ bản của
người xuất gia như Luật Trường Hàng, Luật Giải,
Cảnh Sách Giải, Nhị Khóa Hiệp Giải, v.v…
Vào những năm 60,
chiến tranh xảy ra liên miên trên dải đất miền
Trung thân yêu, để lánh chiến tranh và trau dồi
kiến thức ngoại điển, Hòa thượng được Bổn sư cho
vào Sài Gòn theo học chương trình Trung Học Đệ
Nhất Cấp tại trường Trung học Bồ Đề Sài Gòn. Năm
1968 Hòa thượng được Bổn sư cho thọ Tam đàn Cụ
Túc, tổ chức tại chùa Long Khánh Quy Nhơn do Hòa
Thượng Phúc Hộ làm đường đầu.
Đầu năm 1970, Hòa
Thượng tham học chương trình Trung Đẳng Chuyên
Khoa Phật Học của Phật Học Đường Phước Huệ tổ
chức tại Tổ Đình Thập Tháp Bình Định. Pháp Hữu
đồng học của Hòa thượng gồm có: Hòa thượng Thích
Đồng Hạnh, Hòa thượng Thích Viên Đạt, Hòa thượng
Thích Viên Quán, Hòa thượng Thích Đồng Hùng, Hòa
thượng Thích Đồng Chất, Hòa thượng Thích Đồng
Hương, Hòa thượng Thích Quảng Ba... Ban Giáo Thọ
lúc bấy giờ là những vị cao Tăng thạc đức, như:
Hòa thượng Thích Kế Châu, Hòa thượng Thích Tâm
Hoàn, Hòa thượng Thích Giác Tánh, Hòa thượng
Thích Ngọc Lộ, Hòa thượng Thích Giác Hoàng, Hòa
thượng Thích Giác Ngộ, Hòa Thượng Thích Đồng Từ,
v.v...
Sau khi học xong
chương trình Trung Đẳng Phật Học, Hòa thượng
cùng quý học Tăng đồng học phải vào thành phố
Nha Trang dự thi tốt nghiệp Trung Đẳng Phật Học
do Giáo Hội tổ chức tại Phật Học Viện Trung Phần
Hải Đức Nha Trang. Hòa thượng nhận được văn bằng
tốt nghiệp Trung Đẳng Chuyên Khoa Phật Học và
được tuyển vào Cao Đẳng Phật Học Viện Trung Phần.
Sau năm 1975, Bổn
sư của Hòa thượng nhận thêm chùa Kim An ở An
Nhơn và giao trọng trách “Trụ pháp vương gia và
trì Như lai tạng” tại ngôi chùa Bình An cho Hòa
Thượng. Thời kỳ này cuộc sống kinh tế vô cùng
khó khăn, Hòa thượng làm gương và phải áp dụng
pháp môn “Nông Thiền” với phương châm “Nhất Nhật
Bất Tác, Nhất Nhật Bất Thực” của Tổ Bá Trượng mà
điều hành sinh hoạt Thiền môn.
Cao quý thay! Dù
vất vả như thế nhưng Hòa thượng không những
không xao nhãng việc nghiên tầm giáo điển để gia
tâm cho việc tu học của mình mà hằng tuần Hòa
thượng đạp xe hơn mười cây số xuống chùa Long
Khánh, Quy Nhơn để tham học từ chương những bộ
Kinh Đại Thừa quan trọng như Lăng Nghiêm Trực
Chỉ, Lăng Già Tâm Ấn từ Hòa thượng Thích Tâm
Hoàn - một bậc quảng lãm trong Sơn môn Bình Định
lúc bấy giờ. Cùng học với Hòa thượng thời ấy có
quý Pháp Hữu, như: Hòa thượng Thích Nguyên Phước,
Hòa thượng Thích Nguyên Chơn, Hòa thượng Thích
Nguyên Điền, Hòa thượng Thích Đồng Châu, Hòa
thượng Thích Như Trực, v.v… Những năm đầu thập
kỷ 80, Hòa thượng được Ngài Bình Chánh gọi lên
chùa Sơn Long học Kinh Điển Đại Thừa cho đến
ngày Ngài Bình Chánh viên tịch năm 1986.
Hùng lực thay!
Hòa thượng không quên dành thời gian vô cùng
khan hiếm của mình để hướng dẫn và giảng dạy
Phật Pháp cho thế hệ đàn em như Hòa thượng Thích
Nguyên Tú, Thượng Tọa Thích Hữu Thông. Trong ánh
mắt ngưỡng mộ của chư Tăng bấy giờ kính quý Hòa
thượng như một bậc trưởng huynh dung dị, hiền
hòa và tài đức kiêm ưu.
Với Hòa thượng,
cho dù cuộc sống có thăng trầm như thế nào đi
nữa, bổn phận của người xuất gia là Học cho đến
cùng và Tu cho đến chốn. Không chỉ nghiên tầm
giáo điển và tham cầu học hỏi từ cao Tăng thạc
đức để nâng tầm kiến giải cao hơn, mà Hòa thượng
còn chú tâm vào việc hành trì, lễ lạy và tụng
đọc. Đêm đêm, trong lúc đại chúng thọ trì hai
thời khóa tụng: Lăng Nghiêm và Tịnh Độ, Hòa
thượng thong thả thỉnh từng tiếng Đại Hồng
Chung, để cầu quốc thái dân an, để cho tiếng Đại
Hồng Chung chùa Bình An ngân vọng khắp pháp giới,
ân triêm lợi lạc cả hai thế giới âm dương. Sau
mỗi thời khóa của đại chúng, Hòa thượng trì Chú
Lăng Nghiêm, lạy Tam Thiên Phật và tụng Kinh Đại
Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, bản Kinh in từ bản khắc
gỗ bảy quyển hiện đang thờ tại Chánh điện chùa
Bình An.
Bốn mùa Xuân Hạ
Thu Đông thay đổi trôi qua từng năm, nhưng hạnh
nguyện của Hòa thượng trước sau vẫn vậy, không
một lần đổi thay, không một khi trễ nãi. Lúc dạy
chúng, Hòa thượng thường nhắc câu nói của Hòa
thượng Thích Đổng Minh người xuất gia khi tuổi
còn trẻ, phải dành tất cả cho việc học, lúc tuổi
cao hơn, nên để tâm hành trì. Có học và có tu
mới hoàn thành con đường xuất gia được.
Hòa Thượng là
người khiêm cung, tôn trọng tình Pháp duyên Tăng,
luôn thân cận Minh Sư, Pháp Lữ để học hỏi, chia
sẻ kinh nghiệm hành Đạo. Vào những năm tháng rất
khó khăn “củi quế gạo châu” nhưng tấm lòng hiếu
khách và kính Tăng của Hòa thượng vẫn đầy ắp
ngôi chùa Bình An đơn sơ để đón chư Tăng trong
tinh thần “Tăng Đáo Phật Lai”. Quý Ngài thời ấy
như Ngài Thiên Bình, Ngài Thiên Hòa, Ngài Gia
Khánh, Ngài Thiên Trúc, Ngài Long Thạnh, Ngài Mỹ
Long, Ngài Hội Khánh, quý Pháp hữu của Hòa
thượng, như: Hòa thượng Thích Nguyên Khai, Hòa
thượng Thích Thiện Trụ, Hòa thượng Thích Hạnh
Hòa, Hòa thượng Thích Đồng Chất, Hòa thượng
Thích Đồng Hùng, Hòa thượng Thích Đồng Hương,
Hòa thượng Thích Đồng Trụ, v.v.. từ những thôn
làng ở An Nhơn, Tuy Phước có việc xuống phố Quy
Nhơn đều dừng chân ở chùa Bình An thăm Hòa
thượng đàm đạo Phật lý và dùng bữa cơm tương rau
đạm bạc.
3. Thời kỳ hành
Đạo:
Kể từ sau năm
1975, với vai trò Trụ Trì Chùa Bình An, Hòa
Thượng dấn thân hành Đạo không mệt mỏi. Cả cuộc
đời của Hòa thượng chỉ chuyên nhất ba việc: hành
trì, nghiên cứu học hỏi và giảng dạy. Hòa thượng
không quan tâm chuyện thế sự. Tấm lòng của Hòa
thượng lúc nào cũng rộng rãi và bao dung, nhất
là đối với pháp hữu đồng học, đối với thế hệ đàn
em, thế hệ đệ tử, đệ tôn, nhất là đối với những
vị xuất gia lầm lỡ có một lần thay áo muốn quay
về nương tựa thiền môn, Hòa Thượng luôn rộng
lòng nâng đỡ từ vật chất đến tinh thần.
a/ Mở lớp Phật
Học Gia Giáo để gieo mầm Trí Tuệ:
Dù phải dốc tâm
vào việc hành trì và nghiên tầm giáo điển để
tiếp nhận kiến giải từ chư tôn thiền đức bác lãm
truyền trao nhưng Hòa thượng vẫn không quên ưu
tư và quan tâm đến sự nghiệp giáo dục Phật Giáo.
Thời ấy, Giáo Hội chưa đủ điều kiện để mở trường
Phật học với những chương trình sơ cấp, trung
cấp và cao cấp để Tăng Ni tham học, Hòa thượng
đã dùng ngôi chùa Bình An mở lớp Phật Học Gia
Giáo, bắt đầu từ năm 1981. Hai vị học tăng đầu
tiên của lớp Gia Giáo nầy là Thầy Thị Quả và
Thầy Đồng Văn, giờ hai vị ấy tuổi đã ngoài năm
mươi, một vị đang hoằng pháp tại Chùa Phật Bửu
Q. 3, thành phố Hồ Chí Minh và một vị đang khai
sáng và trụ trì chùa Phổ Bảo, thành phố Munchen,
Cộng Hòa Liên Bang Đức. Hai vị Tăng này là hai
trong số ba vị học Tăng của tỉnh nhà tham học
khóa I Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam cơ sở II
tại TP. Hồ Chi Minh, niên khóa 1984- 1988 và
Tiến sĩ Phật học tại Đại Học Delhi, Ấn Độ.
b/ Tiếp Tăng độ
chúng:
Với hạnh nguyện:
“Tiếp dẫn hậu lai báo Phật ân đức”, năm 1982,
Hòa Thượng nhận hai vị đệ tử xuất gia đầu tiên,
ban cho Pháp tự: Giác Hiệp và Giác Quảng. TT.
Thích Giác Hiệp đã tốt nghiệp khóa III Trường
Cao Cấp Phật Học Việt Nam cơ sở II tại TP. Hồ
Chi Minh, Tiến sĩ Phật học tại Đại Học Delhi, Ân
Độ năm 2004, hiện đang là giảng viên Đại Học tại
hai Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Thủ đô Hà
Nội và TP. Hồ Chí Minh, khai sơn và trụ trì chùa
Hiệp Giác TP. Hồ Chí Minh. Hơn 30 vị đệ tử xuất
gia khác của Hòa thượng, như: TT. Thích Giác
Khánh, TT. Thích Giác Hiển, ĐĐ. Thích Vạn Hương,
ĐĐ. Thích Vạn Nhẫn, v.v…ngoài ra, rất nhiều đệ
tử y chỉ của Hòa thượng đã trưởng thành và hành
Đạo khắp nơi trên thế giới, như: Thượng tọa
Thích Vạn Đức - Cộng Hòa Liên Bang Đức, Thượng
tọa Thích Giác Tín - Úc Châu, TT. Thích Đồng
Phước - Hoa Kỳ, v.v…
c/ Tích cực đóng
góp cho Giáo Dục Phật Giáo Tỉnh nhà – Bình Định:
Năm 1992, Trong
niềm hoan hỷ chung Trường Trung Cấp Phật Học
Bình Định được thành lập tại Tu Viện Nguyên
Thiều, mô hình Phật Học Viện tái hiện sau 17 năm
vắng bóng (1975 – 1992), Hòa thượng được cung
thỉnh giảng dạy môn Luật Học. Rất tận tụy trong
sự nghiệp truyền đăng tục diệm, đào tạo Tăng tài
này, Hòa thượng chưa từng mệt mỏi phút giây
giảng dạy nào, kể từ đó đến nay hơn 28 năm. Kiến
thức quảng lãm về giới luật và trình độ Hán học
uyên thâm của Hòa thượng đã trang bị một thế hệ
Tăng Ni sinh tỉnh nhà đầy đủ kiến thức tham dự
chương trình cao hơn ở Học viện và du học cũng
như nghiên cứu chuyên sâu Phật Pháp sau này.
Những Tăng Ni từ ngôi trường Trung Cấp bước lên
phương trời cao rộng và thành danh hôm nay như
Thượng tọa Thích Đồng Thành, ĐĐ. Thích Nhuận
Huệ, ĐĐ. Thích Hạnh Chơn, ĐĐ. Thích Nhuận Phổ,
NS. TN. Minh Huệ, ĐĐ. Thích Vạn Lợi v.v.. đều
thọ nhận ân đức giáo dục của Hòa thượng.
d/ Góp phần xiển
dương Luật Tạng – trùng hưng Chánh Pháp:
Đức Phật ân cần
khai thị : “Giới Luật là thọ mạng của Phật Pháp
– Giới Luật còn là Phật Pháp còn”. Thế nhưng
thời nay số lượng các Luật Sư nghiên cứu chuyên
sâu và thâm hành Giới Luật, khan hiếm dần. Hòa
thượng là hình ảnh Giáo Thọ Sư tôn kính cho bao
thế hệ Tăng Ni quy ngưỡng, tiến tu. Hòa thượng
có hạnh duyên được truyền trao tinh yếu từ các
bậc Cao Tăng Thạc Đức, trong đó có Hòa thượng
Huyền Ấn và Hòa thượng Bình Chánh nên luôn tạo
duyên trao truyền Luật Học cho thế hệ Tăng Ni
trẻ. Với Thân Khẩu Ý Giáo tròn đầy, đức hạnh
thanh cao, Ngài được cung thỉnh lên ngôi vị Giáo
Thọ A-xà-lê tại Đại Giới Đàn Kế Châu (2013) và
Tâm Hoàn (2017),… tổ chức tại Tổ đình Long
Khánh, TP. Quy Nhơn để truyền trao Giới Pháp cho
các Giới Tử thăng hoa tu tập trong Chánh Pháp
Như Lai.
e/ Trùng Tu cơ sở
Tự Viện:
Không chỉ lo về
giáo dục, mà tại trụ xứ chùa Bình An, Hòa thượng
cũng dành nhiều tâm lực và nguyện lực trùng tu
ngôi già lam trở thành phạm vũ huy hoàng, suốt 4
năm 2007 - 2011. Được sự gia bị của hồng ân Tam
bảo và được sự ủng hộ phát tâm của những vị tín
chủ thuần thành, Hòa thượng đã trùng tu ngôi Tam
bảo cao hai tầng trang nghiêm và thanh tịnh,
rộng rãi khang trang, đủ tiện nghi như: chánh
điện, nhà Tổ, hội trường, phòng Tăng, nhà bếp,
lầu chuông, lầu trống….thuận tiện cho chư Tăng
cư trú, cho các lớp học Phật Pháp, thuyết Pháp,
các khóa tu và khóa Lễ cho quần chúng Phật tử.
4. Thời kỳ viên
tịch:
Dù mang trong
mình trái tim thiết tha với Đạo pháp với tương
lai Phật giáo Việt Nam nói chung và tỉnh nhà nói
riêng, muốn tiếp tục cống hiến nhiều hơn nữa
nhưng thân tứ đại của Hòa thượng vẫn phải bị chi
phối bởi định luật vô thường sanh, lão, bệnh,
tử. Lúc 10 giờ, ngày 22 tháng 3 năm 2020 (nhằm
ngày 29 tháng 02 năm Canh Tý), trong một cơn
bệnh, Hòa thượng đã xả báo thân, viên tịch trong
niềm thương tiếc vô hạn của hàng hậu học và học
trò đệ tử của Ngài.
Trụ thế: 74 năm -
Hạ lạp: 52 năm
Hòa Thượng đã
trải qua bao gian nan, thử thách trong những
giai đoạn khó khăn chung của lịch sử dân tộc,
xuyên suốt các quá trình học đạo và hành đạo của
Hòa thượng, đó là chất liệu sống và kinh nghiệm
tu tập quý giá, Hòa thượng kết tinh lại và
truyền trao cho hàng hậu học. Kiến giải của Hòa
thượng đã dành cho các học trò và đệ tử của Ngài
những vốn liếng hành trang căn bản nhất là nguồn
sống bất tận, hun đúc những vị ấy trở thành
những nhân tố đóng góp tích cực cho ngôi nhà
Phật giáo Việt Nam và cho chương trình giáo dục
Phật giáo Việt Nam trong hiện tại cũng như hoăng
dương Phật Pháp khắp nơi nơi. Công đức, hành
hoạt và nhũng cống hiến của Hòa Thượng là nét
son quý giá cho sự chuyển mình, kế thừa, phát
triển của Phật Giáo Việt Nam nói riêng và Phật
Giáo Quốc Tế nói chung. Ngài vẫn luôn hiện hữu
trong tâm thức của đàn hậu học, nêu tấm gương
xán lạn của một bậc xuất trần thượng sỹ vững
chãi, thảnh thơi, giản dị, khiêm cung, tinh tấn
tu học, tận tụy trong Giáo Dục và sứ mệnh Hoằng
Pháp độ sinh, thật là :
Đồng Tâm Học Đạo Thông Hòa Hợp
Chơn Như Minh Chiếu Thiện Bình An
NAM MÔ TỰ LÂM TẾ
CHÁNH TÔNG TỨ THẬP TAM THẾ, BÌNH AN ĐƯỜNG THƯỢNG,
thượng ĐỒNG hạ CHƠN, hiệu MINH CHIẾU, tự THÔNG
THIỆN HÒA THƯỢNG GIÁC LINH
Ngày mùng 2 tháng 3 năm Canh Tý (25/3/2020)
Môn Đồ Pháp Quyến Cung Soạn
KHÓC TIỄN THẦY
Có đường nào ngắn
nhất để con về
Nơi chùa xưa Thầy
vừa nằm xuống
Thầy ơi, đêm xứ
người - đêm dài lắm
Con lặng thầm khóc
tiễn một vì sao!
Hai mươi năm rời
quê mẹ thân yêu,
Con mang mãi trong
tim lời Thầy dạy:
Học làm người khó
hơn học Tiến sĩ,
Nhẫn nại, nhu hòa,
buông xả, cảm thông…
Nếu đời người như
một dòng sông,
Thì hôm nay nước
đã về biển cả,
Trong dòng chảy
mênh mông đại dương đó,
Có dải sóng hiền
hòa ôm ấp Trường Sa!
Con nhớ về Thầy
của những ngày xưa
Bình dị, hiền hòa
nhưng uy nghiêm đức độ,
Suốt bao năm chưa
thời kinh nào Thầy bỏ,
Dù những lúc mệt
nhoài vì tứ đại bất an.
Mỗi sáng tinh
sương chuông chùa ngân vang,
Dân quê mình nghe
mà đi nhóm chợ,
Chắc trong tiếng
chuông chùa ngày đó,
Thầy vận tâm từ
đánh thức những màn đêm…
Chùa nghèo nhưng
học chúng ngày nhiều thêm,
Dù đói dù no Thầy
vẫn đưa tay tiếp độ,
Ai đi qua Bình An
ngày tháng đó,
Mới hiểu tình Thầy
độ lượng bao dung…
Nhìn lại hàng học
trò, đệ tử, pháp tôn
Đang hoằng hóa
khắp năm châu bốn bể
Chắc ở cõi vô tung
bất diệt đó
Thầy mỉm cười sau
một kiếp tử sanh!
Con nhớ Thầy, con
nhớ những thời kinh
Khóa học Trường
Hàng, chùa xưa yêu dấu
Bậc trì Luật tinh
chuyên và gương mẫu
Đại sĩ xuất trần,
long tượng Thiền môn!
Từ phương xa thành
kính vọng hướng về Chùa Bình An – Quy Nhơn cung
kính đảnh lễ bái biệt Thầy kính yêu của con!
Nam Mô Bình An
Đường Thượng Huý thượng ĐỒNG hạ CHƠN tự THÔNG
THIỆN hiệu MINH CHIẾU Tôn Sư Tân Viên Tịch Thùy
Từ Chứng Giám
Atlanta – Hoa Kỳ, đêm 22/3/2020
GH – LÊ BÍCH SƠN
HÌNH ẢNH TANG LỄ
CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH ĐỒNG CHƠN
Chùa Bình An, Quy Nhơn - Bình Định
Tổng hợp từ Facebook chư huynh đệ và các
website Phật giáo
(PGBĐ, PTVN, PHVNT, Vạn Quyền, Quảng Tiến, Vạn
Tường, v.v.)
|