(xin click vào hình trên để tải
hình lớn hơn - có thể in)
THÀNH KÍNH
TƯỞNG NIỆM
Đại Lão
Hòa Thượng Thích Huyền Quang
Đệ Tứ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất
* Tin Đức Đệ Tứ Tăng
Thống GHPGVNTN viên tịch
* Nghi thức Cung Tiến
Giác Linh Đức Đệ Tứ Tăng Thống
* Ai văn của Môn Đồ
Pháp Quyến
* Phục bái thượng văn
của BHDTU Gia Đình Phật Tử Việt Nam
* Ngưỡng Vọng - Thích
Nhật Tân
* Điếu văn GĐPT Kim
Quang tại Sacramento, California - Hoa Kỳ
* Phất Trần Một Phẩy -
Vĩnh Hảo
* Lời bạch trước giờ di
quan của Viện Hoá Đạo
* Một vài hình ảnh về
Đức Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN
* Hình ảnh Lễ Nhập Kim
Quan Đức Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN
* Hình ảnh ghi nhận từ
Tang Lễ Đức Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN
* Hình ảnh Lễ Nhập Bảo
Tháp Đức Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN
* Hình ảnh Lễ Truy Niệm
Đức Tăng Thống tại Georgia - Hoa Kỳ
* Hình ảnh Lễ Truy Niệm
Đức Tăng Thống tại Chùa Quang Thiện - HK
* Hình ảnh Lễ Truy Niệm
Đức Tăng Thống tại Chùa Diệu Pháp - HK
* Hình ảnh Lễ Truy Niệm
Đức Tăng Thống tại Santa Ana - California
* Hình ảnh Lễ Truy Niệm
Đức Tăng Thống tại Úc Đại Lợi
* Hình ảnh Lễ Truy Niệm
Đức Tăng Thống tại Chùa Khánh Anh - Pháp
* Hình ảnh GĐPTVN Lễ
Kim Quan & Thọ Tang Đức Tăng Thống
* Hình ảnh Lễ Truy Niệm
Đức Tăng Thống tại Chùa Tâm Giác - Đức
* Chớp Bể Mưa Nguồn -
Đồng Thanh & Nhóm Vô Ưu
TIỂU SỬ ĐẠI LÃO HOÀ THƯỢNG THÍCH HUYỀN QUANG
ĐỆ
TỨ TĂNG THỐNG
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
Thân thế
Đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Đệ Tứ Tăng Thống Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, thế danh Lê Đình
Nhàn, sinh ngày 8 tháng 8 Canh Thân (tức 19
tháng 9 năm 1920), tại làng Háo Đức, xã Nhơn An,
huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định, con thứ tư của cụ
Lê Vỵ và bà Ngô Thị Tư cùng ở làng Háo Đức.
Thời niên thiếu
Năm 1925-1932: Ngài học chữ Nho tại nhà.
Năm 1932-1935: Ngài thụ giáo với Hòa Thượng Vĩnh Khánh, được ban
pháp danh Như An, pháp tự Giải Hòa. Thọ sa-di
giới năm 1935, thủ khoa trong tập chúng.
Năm 1935-1937: Hòa Thượng Vĩnh Khánh viên tịch (30.9.1935), Ngài
đầu giáo Hòa Thượng Bích Liên và được phú pháp
hiệu Huyền Quang, pháp danh Ngọc Tân, pháp tự
Tịnh Bạch.
Do tư chất đặc biệt xuất chúng, mà Ngài được đặc cách miễn tuổi để
thọ Tam đàn Cụ túc và Bồ tát giới vào năm 17
tuổi (1937) tại giới đàn chùa Hưng Khánh, xã
Phước Nghĩa, quận Tuy Phước, tỉnh Bình Định, do
Hòa Thượng Chí Bảo làm Đàn đầu. Kỳ sát hạch này
Ngài đậu thủ khoa.
Năm 1938 đến 1945, Sau khi học xong ở Phật học
đường Lưỡng Xuyên, tỉnh Trà Vinh, Ngài ra đất
Thần kinh Huế tòng học tại Phật học đường Báo
Quốc cùng với các Pháp hữu Thiện Hoa, Thiện Hòa,
Thiện Siêu, Trí Quang, Thiện Minh, v.v...
Sự nghiệp Hoằng hóa lợi sanh
Tháng 8 năm 1945, Ngài tham gia kháng chiến chống Pháp giành độc
lập dân tộc ở Liên khu 5, giữ chức vụ Phó chủ
tịch kiêm Tổng thư ký Phật giáo Cứu quốc Liên
khu 5. Do Ngài tổ chức cơ sở Phật giáo quy mô
nên bị chính quyền cách mạng lâm thời nghi kỵ và
theo dõi.
Đầu năm 1951, Ủy ban Kháng chiến liên khu 5 tuyên bố: “Sinh hoạt
Phật giáo phải theo mô thức Hội đoàn”. Ngài lên
tiếng phản đối: “Phật giáo chúng tôi là một tôn
giáo quy tụ đủ mọi thành phần trí thức, nông dân,
nam, phụ, lão, ấu, không thể xem như hội đoàn”.
Vì phê phán như vậy, ngài bị bắt, bị an trí ở
Phù Mỹ, rồi Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, tổng cộng
4 năm. Một tháng trước ngày đình chiến theo Hiệp
định Genève (20.7.1954) Ngài được trả tự do.
Năm 1955 đến 1957, Ngài làm Giám đốc Phật Học Đường Trung phần ở
chùa Hải Đức, Nha Trang.
Năm 1958 Ngài cùng chư Tôn đức tỉnh Bình Định khai sáng Tu viện
Nguyên Thiều, thành lập Phật học viện Nguyên
Thiều do Ngài làm Giám viện cho đến ngày nay.
Năm 1958 đến 1962, Ngài giữ chức Phó Hội Trưởng Hội Phật Học Trung
Phần kiêm Hội trưởng Hội Phật giáo Thừa thiên -
Huế, văn phòng đặt tại chùa Từ Đàm. Sau đó Ngài
làm Hội Trưởng Hội Phật Giáo Bình Định.
Năm 1963 Ngài tham gia cuộc vận động giải trừ Pháp nạn và yêu sách
xóa bỏ Dụ số 10 dưới thời Pháp thuộc liệt Phật
giáo vào quy chế Hiệp hội. Ủy Ban Liên Phái Bảo
Vệ Phật Giáo ra đời lãnh đạo cuộc đấu tranh. Uỷ
ban do Hòa Thượng Thích Tâm Châu làm Chủ tịch,
cố Hòa Thượng Thích Thiện Minh làm Phó chủ tịch,
Ngài làm Tổng thư ký kiêm Trưởng khối Soạn thảo
tài liệu đấu tranh và Phổ biến ra toàn quốc.
Vào nửa đêm 20.8.1963, Chính quyền Ngô Đình Diệm tung "Kế hoạch
Nước lũ" bố ráp Tăng ni trên toàn quốc, tập
trung đặc biệt vào hai thành phố Sài Gòn và Huế,
Ngài bị bắt cùng với hàng nghìn Tăng Ni. Sau
chính biến 1.11.1963, Ngài mới được trả tự do.
Cuộc đấu tranh hoàn tất, Đại hội Phật giáo toàn quốc tổ chức tại
Sài Gòn từ 31.12.1963 đến 4.1.1964, và do Dụ số
10 đã hủy bỏ, nên danh xưng Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất được ra đời, kế tục công
cuộc truyền thừa Chánh pháp của “Giáo hội Dân
lập” từ xưa và “Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam”
trước đó. Ngài được cung thỉnh vào chức vụ Tổng
thư ký Viện Hóa Đạo kiêm Tổng vụ trưởng Tổng vụ
Cư sĩ.
Năm 1964, Ngài đi Thái Lan tiếp xúc và liên lạc các chùa Việt ở thủ
đô Bangkok đồng thời hành hương các thánh tích,
thắng cảnh Phật giáo Thái.
Năm 1970, Ngài đại diện Viện Hóa Đạo tham dự Đại
Hội Các Tôn Giáo Thế Giới vì Hòa bình lần thứ
nhất tại Nhật Bản. Đại hội này do các tôn giáo
lớn như Thiên chúa giáo, Tin Lành, Do Thái giáo,
v.v... chủ trì.
Năm 1971, Ngài đi hành hương Ấn Độ, chiêm bái các Phật tích.
Năm 1972, Ngài sang Genève tham dự Đại Hội Hội Đồng Tôn Giáo Thế
Giới ở Thụy Sỹ. Hội Đồng này do Giáo hội Tin
Lành Thế giới chủ trì. Đại Hội bàn việc hòa bình
cho Việt Nam và cứu trợ nạn nhân chiến tranh.
Năm 1974, Ngài cùng Cố Hòa Thượng Thích Thiện
Minh sang thủ đô Bruxelles ở Bỉ dự lần thứ 2 Đại
hội các Tôn giáo Thế giới vì Hòa Bình do các tôn
giáo lớn như Thiên chúa giáo, Tin Lành, Do Thái
giáo, v.v... chủ trì.
Ngày 27.12.1974, Đại hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất kỳ
6 tổ chức tại Sài Gòn cung thỉnh Ngài vào chức
vụ Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo.
Sau năm 1975, do những chính sách sai lầm chính quyền chiếm dụng
các cơ sở giáo dục, văn hóa, từ thiện xã hội của
Giáo hội. Ngày 3.3.1977, chính quyền tiếp tục
chiếm dụng Cô Nhi viện Quách Thị Trang ở Sài
Gòn, Ngài và Hòa Thượng Thích Quảng Độ cùng chư
tôn đức Tăng ni Phật tử phát động cao trào đòi
hỏi chính quyền hoàn trả tài sản của Giáo hội.
Đến ngày 6.4.1977, Ngài bị bắt và bị biệt giam
tại nhà giam số 4 Phan Đăng Lưu, Quận Bình Thạnh
ở Sàigòn cùng với cố Hòa Thượng Thích Thiện
Minh, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, v.v...
Do áp lực quốc tế và sự phản đối của đồng bào Phật tử trong và
ngoài nước, ngày 10.12.1978, chính quyền đưa
Ngài ra Tòa án Nhân dân Tp. Hồ Chí Minh xét xử,
kêu án 2 năm tù treo và quản chế tại chỗ.
Ngày 25.2.1982, Ngài bị chính quyền trục xuất khỏi thành phố Sài
Gòn đưa về quản chế tại chùa Hội Phước, tỉnh
Quảng Ngãi.
Năm 1992, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, Đệ Tam Tăng Thống
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất để lại Di
chúc cung thỉnh Ngài vào chức vụ Xử lý Hội Đồng
Lưỡng Viện kiêm Quyền Viện trưởng Viện Hóa Đạo,
để hướng dẫn việc đòi hỏi phục hồi quyền sinh
hoạt pháp lý của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất và tìm thuận duyên tổ chức Đại hội
Giáo hội kỳ VIII.
Tháng 3 năm 2003, Ngài bị khối u gần mắt có nguy cơ ung thư, bệnh
viện Quảng Ngãi không đủ phương tiện giải phẫu,
Ngài muốn vào Sài Gòn chữa trị. Nhưng cơ quan
công quyền tổ chức cho Ngài ra Hà Nội. Thời gian
điều trị ở bệnh viện K ở đường Quán Sứ, Chủ tịch
Mặt trận Tổ quốc, các viên chức cao cấp Tòa Đại
sứ Hoa Kỳ và Liên hiệp Châu Âu đến vấn an Ngài
bên giường bệnh. Trước mối quan tâm tha thiết
của công luận quốc tế, chiều ngày 2.4.2003, Thủ
Tướng Phan Văn Khải tiếp Ngài tại Văn phòng
Chính phủ. Trong buổi gặp gỡ này, Ngài yêu cầu
Thủ Tướng giải quyết việc phục hồi quyền sinh
hoạt pháp lý cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất.
Sáng ngày 7.4.2003, Ngài đáp chuyến xe lửa Hà Nội - Sài Gòn xuôi
Nam. Đến ga Huế vào lúc 10 giờ 13 phút. Ngày hôm
sau, Ngài đến đảnh lễ trước tháp Đức Cố Đệ Tam
Tăng Thống Thích Đôn Hậu, trước tháp Cố Hòa
Thượng Thích Thiện Minh, và thăm các Tổ đình ở
đất Thần kinh, ân cần nhắn nhủ chư Tăng Huế trên
bước đường tu học và hành đạo.
Ngày 1.5.2003, Ngài vào đến Sài Gòn. Tại đây, Ban Trị sự Thành hội
Phật giáo Thành phố đón tiếp Ngài. Sau thời gian
thăm viếng Sài Gòn, Ngài trở về Tu Viện Nguyên
Thiều tỉnh Bình Định vào ngày 14.5.2003.
Ngày 1.10.2003, Ngài và Hòa Thượng Thích Quảng Độ tổ chức Đại Hội
Bất Thường tại Tu viện Nguyên Thiều. Lần đầu
tiên có sự tham dự đông đảo của 60 chư Tăng đại
diện các tỉnh về dự. Đại Hội Bất Thường thành
công viên mãn với sự thỉnh cử 41 Hòa Thượng,
Thượng tọa vào hai Viện Tăng Thống và Viện Hóa
Đạo.
Ngày 12.10.2003,
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại
tổ chức Ðại hội
tại Tu Viện Quảng Đức thành phố Melbourne tiểu bang Victoria
– Úc Đại Lợi, Hội Đồng Giáo Phẩm đã
suy tôn Ngài lên ngôi vị Ðệ Tứ Tăng Thống Giáo
Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trước 134 Hòa
Thượng, Thượng tọa, Ðại đức Tăng ni và 5000 Phật
tử.
Tại
Tu Viện Nguyên Thiều thời gian cuối đời, tuy
tuổi già sức yếu nhưng lúc nào Ngài cũng thao
thức cho tiền đồ Phật giáo, nên Ngài đã vận động
Chư Sơn thành lập ban trích lục Đại Tạng Kinh để
làm công tác phiên dịch và dự định xây một
trường Đại Học Phật Giáo tại Tu Viện Nguyên
Thiều. Nhưng vì hoàn cảnh Giáo Hội chưa phục
hoạt và bản thân Ngài chưa được tự do, nên trong
thời điểm này bản nguyện của Ngài không thực
hiện được.
Dù bận rộn Phật sự của Giáo Hội, Ngài vẫn không quên thường xuyên
thực hiện hai tâm nguyện mà xem là trọng đại
trong sự nghiệp hoằng truyền Chánh Pháp để cứu
khổ sinh dân. Đó là: mở trường lớp để dạy dỗ
Tăng ni hầu ươm mầm tương lai cho Đạo Pháp, và
phiên dịch trước tác Kinh Luật Luận và giáo
nghĩa Phật học để truyền bá giáo lý thậm thâm vi
diệu của đức Thế Tôn. Chính vì tâm nguyện đó, mà
Ngài đã tinh cần tụng đọc toàn bộ Đại Tạng Kinh
trong suốt mười mấy năm lao tù và quản chế. Đồng
thời Ngài đã phiên dịch và trước tác nhiều tác
phẩm như:
- Thiền Môn Chánh Độ,
- Sư tăng và Thế nhơn,
- Nghi cúng chư Tổ và Chư vị Cao Tăng,
- Đạo Tràng Công Văn Tân Soạn,
- Thiếu Thất Lục Môn,
- Phật Pháp Hàm Thụ,
- Pháp Sự Khoa Nghi,
- Nghi Thức Cúng Giao Thừa,
- Phật Pháp Áp Dụng Trong Đời Sống Hằng ngày,
v,v…
Ngày 27 tháng 5 năm 2008, vì bệnh tim tái phát,
lại trong phổi có nước, nên Ngài đã được đưa vào
Bệnh viện Đa Khoa Quy Nhơn, tỉnh Bình Định, để
điều trị. Dù chư tôn đức Tăng, Ni của Viện Hóa
Đạo và Tu viện Nguyên Thiều, cũng như các bác
sĩ tại bệnh viện đã hết lòng chăm sóc và chữa
trị, nhưng như cỗ xe đã già cỗi, thân tứ đại suy
kiệt vì tuổi đời đã cao, bệnh hoạn thường xuyên,
cho nên sức khỏe của Ngài không thể bình phục. Biết
trước không tránh khỏi cơn vô thường, Ngài đã tỏ
ý muốn về lại Tu Viện Nguyên Thiều để an tịnh.
Ngày 4 tháng 7 năm 2008, lúc 3 giờ chiều, Hòa
Thượng Thích Quảng Độ cùng chư tôn giáo phẩm
Viện Hóa Đạo và môn đồ pháp quyến đã cung đón
Ngài về lại Tu Viện Nguyên Thiều. Đến 1 giờ 15
phút chiều ngày 5 tháng 7 năm 2008, Ngài đã an
nhiên thâu thầu thị tịch tại Phương Trượng Tu
Viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Định. Ngài trụ thế
89 năm và 69 hạ lạp.
Suốt cuộc đời thị hiện trên thế gian tròn 89 năm, Cố Đại Lão Hòa
Thượng Đệ Tứ Tăng Thống đã thể hiện trọn vẹn
công hạnh xuất trần thượng sĩ và cứu khổ quần
sinh của một vị Bồ tát. Ngài đã đem thân mạng ra
để gánh chịu bao khổ não thay cho dân tộc và
Phật Giáo Việt Nam.
Với nếp sống giản dị, thanh bần, với tâm lượng bao dung khoáng đạt,
với chí nguyện cao cả thiêng liêng, với trí tuệ
mẫn duệ sâu sắc, Ngài là một nhà lãnh đạo vừa
đắc nhân tâm, vừa bản lãnh và sáng suốt. Với
biển học mênh mông và tầm nhìn thấu triệt mọi sự,
với giới hạnh trang nghiêm, Ngài là bậc cao Tăng
thạc đức hy hữu trong chốn thiền lâm mà hàng
trăm năm không dễ có được.
Ngài ra đi, môn đồ pháp quyến mất một vị Thầy tôn kính, Giáo Hội
mất một nhà lãnh đạo tối cao tài đức vẹn toàn,
Phật Giáo Việt Nam mất một bậc cao Tăng làm chỗ
dựa cho bao nhiêu Tăng, Ni và Phật tử.
Dù biết rằng, sinh tử như phù vân, bậc thượng sĩ đến đi như cánh
nhạn giữa trời xanh bát ngát, nhưng làm sao
chúng ta tránh khỏi sự tiếc thương vô hạn đối
với một bậc Thầy tôn kính hiếm khi xuất hiện
giữa thế gian.
Nam Mô tự Lâm Tế chánh tông tứ thập nhất thế,
Nguyên Thiều Tu Viện Khai Sơn Phương Trượng,
Việt Nam Phật Giáo Thống Nhất Giáo Hội Đệ Tứ
Tăng Thống, húy thượng Như hạ An, tự Giải Hòa,
hiệu Huyền Quang Đại Lão Hòa Thượng Giác linh.
*Tóm lược dựa theo tài liệu của
Môn Đồ Pháp Quyến & Cs. Nguyên Thái
|